Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Trình bày sự hiểu biết của anh (chị) về Tổ chức lao động quốc tế (ILO): quá trình ra đời và phát triển; mục đích và nhiệm vụ; cơ cấu tổ chức; tư cách thành viên của Tổ chức lao động quốc tế (ILO)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.32 KB, 6 trang )

1. Trình bày sự hiểu biết của anh (chị) về Tổ chức lao động quốc tế (ILO): quá
trình ra đời và phát triển; mục đích và nhiệm vụ; cơ cấu tổ chức; tư cách thành
viên của Tổ chức lao động quốc tế (ILO)?
1.1. Quá trình ra đời và phát triển của ILO
Sự ra đời của ILO được thai nghén từ ý tưởng thành lập một tổ chức mang tính
quốc tế về lao động được đề xuất bởi hai nhà tư bản công nghiệp vào thế kỷ XIX là
Robert Owen (1771-1853) của xứ Wales và Daniel Legrand (1783-1859) của Pháp và
sau đó là đề nghị của nước Anh vào năm 1919. ILO đã được tạo ra như một phần của
Hiệp ước Versailles kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, để phản ánh niềm
tin rằng hịa bình thế giới và kéo dài có thể được thực hiện chỉ khi nó được dựa trên
cơng bằng xã hội. Với tư cách là tổ chức quốc tế liên chính phủ thành lập theo quyết
định của Hội nghị hịa bình Pari, ILO đã trở thành tổ chức chuyên môn đầu tiên hợp
nhất với cơ quan Liên hợp quốc vào năm 1946. Kể từ khi được thành lập cho đến nay
ILO trở thành cơ quan chuyên môn đầu tiên và duy nhất của Liên hợp quốc hoạt động
trên nền tảng cơ chế ba bên. Năm 1920, ILO đóng trụ sở tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sĩ.
Trong 95 năm qua, ILO và các đối tác ba bên (tổ chức đại diện cho người lao động,
người sử dụng lao động và các cơ quan chính phủ) đã khơng ngừng nỗ lực thực hiện.
mục tiêu công bằng xã hội, hịa bình và ổn định lâu dài trên tồn thế giới thông qua
việc thực hiện các quyền, nguyên tắc cơ bản trong lao động
1.2. Mục đích và nhiệm vụ của ILO
Được ghi nhận tại Lời nói đầu của Điều lệ năm 1919 bao gồm: Thúc đẩy việc
cải thiện khẩn cấp điều kiện làm việc của người lao động bằng cách áp dụng các biện
pháp như điều tiết thị trường lao động; Đấu tranh chống nạn thất nghiệp; Đảm bảo
mức tiền lương phù hợp với điều kiện của cuộc sống; Phòng ngừa những bệnh nghề
nghiệp và những trường hợp rủi ro trong sản xuất cho người lao động; Bảo vệ lao
động trẻ em, vị thành niên, phụ nữ, những người lao động cao tuổi, người tàn tật; bảo
vệ những người lao động di trú; Thừa nhận nguyên tắc tiền lương ngang nhau đối với
những công việc như nhau; Thừa nhận tự do nghiệp đồn; Tổ chức đào tạo kỹ thuật
chun mơn và một loạt các phương hướng hoạt động khác.
1.3. Cơ cấu tổ chức của ILO
Theo Điều 2 trong Điều lệ của ILO thì các cơ quan chính của ILO gồm Hội


nghị Lao động quốc tế, Văn phòng Lao động quốc tế và Hội đồng quản trị. Trong đó:
Hội nghị Lao động quốc tế (Đại hội đồng ILO): Đây là cơ quan tối cao và có
các chức năng: Xây dựng các Công ước, khuyến nghị về những vấn đề lao động; Thảo
luận tất cả những vấn đề về hoạt động của ILO; Thơng qua các nghị quyết nhằm xác
định chương trình làm việc của ILO và ra những chỉ thị cho Văn phòng Lao động
quốc tế. Hội nghị Lao động quốc tế là kỳ họp hàng năm của tất cả các nước thành viên
(còn gọi là Hội nghị Lao động quốc tế). Điều 3 của Điều lệ quy định mỗi nước thành
viên được cử một đoàn đại biểu tới dự Hội nghị với thành phần gồm hai đại biểu của
Chính phủ, một đại biểu của tổ chức đại diện cho người lao động và một đại biểu của


tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động. Các nước thành viên được quyền cử tất
cả các đại biểu, nhưng khi cử các đại biểu không phải đại diện cho Chính phủ thì phải
thoả thuận với các tổ chức nào có tính đại diện cao nhất cho người lao động hoặc
người sử dụng lao động của các tổ chức đó. Hội nghị Lao động quốc tế triệu tập họp
mỗi năm ít nhất một lần. Trong các phiên họp, mỗi đại diện, khơng phân biệt là đại
diện của Chính phủ hay đại diện của người lao động hay đại diện của người sử dụng
lao động, đều có vai trị ngang nhau và có quyền độc lập biểu quyết các vấn đề bất kỳ
mà Hội nghị Lao động quốc tế thảo luận. Tham gia các phiên họp Hội nghị Lao động
quốc tế các đại diện của đoàn Việt Nam gồm: Đại diện cho Chính phủ Việt Nam là Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội; Đại diện cho người lao động là Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam; Đại diện cho người sử dụng lao động là Liên minh Hợp tác xã
Việt Nam hoặc là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng được công nhận
là người đại diện cho người sử dụng lao động (hiện nay, do các nước thành viên chỉ
được phép cử một đại diện cho người sử dụng lao động tham dự các phiên họp Hội
nghị Lao động quốc tế nên hai tổ chức này tham dự Hội nghị Lao động quốc tế theo
cơ chế luân phiên). Trong khoảng thời gian từ ngày 5 đến ngày 20 tháng 6 năm 2013
tại Geneva, Thụy Sĩ đã diễn ra Hội nghị lần thứ 102 của Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO). Đoàn đại biểu Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
dẫn đầu. Trong khn khổ diễn ra, trưởng đồn đại biểu Việt Nam đã có bài phát biểu

tại phiên họp toàn thể của Đại hội đồng ngày 12 tháng 6 năm 2013.
Hội đồng quản trị: Đây là cơ quan chấp hành của ILO. Chức năng cơ bản của
cơ quan này là lãnh đạo cơng việc của Văn phịng Lao động quốc tế. Hội đồng quản trị
có một Chủ tịch và ba Phó Chủ tịch do Hội nghị Lao động quốc tế bầu ra. Trong ba
Phủ Chủ tịch thì có một người là đại diện của Chính phủ, một người là đại diện của
người sử dụng lao động, một người là đại diện của người lao động. Như vậy, bản thân
bốn lãnh đạo cao nhất của Hội đồng quản trị cũng tuân thủ nguyên tắc ba bên, đảm
bảo các quyền lợi của cả ba bên trong tất cả các vấn đề lao động, việc làm. Hội đồng
quản trị bao gồm 56 thành viên, trong đó có 28 thành viên là đại diện của Chính phủ,
14 thành viên là đại diện của người lao động và 14 thành viên là đại diện của người sử
dụng lao động. Cơ cấu này đảm bảo thực hiện đầy đủ nguyên tắc ba bên trong hoạt
động của Hội đồng quản trị. Trong các thành viên nhóm Chính phủ có 10 thành viên
thường trực là 10 nước công nghiệp phát triển nhất (Braxin, Trung Quốc, Pháp, Đức,
Anh, Italia, Nhật Bản, Nga, Anh, Hoa Kỳ), 18 thành viên còn lại gồm 06 nước của
Châu Phi, 05 nước của Châu Mỹ, 04 nước của Châu Á và 03 nước của Châu Âu.
Văn phòng Lao động quốc tế: Đây là ban thư ký của ILO. Văn phịng có chức
năng thu thập và phổ biến thông tin về tất cả các vấn đề liên quan tới việc điều tiết
điều kiện lao động và tình cảnh của người lao động; nghiên cứu những vấn đề sẽ đệ
trình để xem xét tại Hội nghị Lao động quốc tế; tiến hành những cuộc nghiên cứu
chuyên biệt khác nhau, đồng thời thực hiện những quyền hạn và nghĩa vụ khác mà
Hội nghị Lao động quốc tế có thể trao cho. Tổng giám đốc và hai Phó Tổng giám đốc
Văn phịng Lao động quốc tế được Hội đồng quản trị bổ nhiệm từ các đại diện của các
nước thành viên. Trong số ba người đó thì một người là đại diện của Chính phủ, một
người là đại diện của người lao động và một người là đại diện của người sử dụng lao
động.


Hội đồng quản trị và Văn phòng Lao động quốc tế được sự hỗ trợ của các Ủy
ban ba bên về các ngành cơng nghiệp chính yếu và các Ủy ban chuyên gia về các vấn
đề dạy nghề, quản lý phát triển, y tế, an toàn nghề nghiệp, quan hệ lao động, giáo dục

người lao động và các vấn đề đặt biệt về phụ nữ và người lao động ít tuổi.
Như vậy có thể thấy tất cả các cơ quan và các vị trí lãnh đạo quan trọng trong
Tổ chức Lao động quốc tế đều được cơ cấu đảm bảo tính đại diện của tất cả các bên
liên quan trọng lao động, số lượng và vai trò của đại diện các bên liên quan này được
đảm bảo bình đẳng với nhau trong thảo luận và quyết định tất cả các vấn đề liên quan
đến lao động.
1.4. Tư cách thành viên của ILO
Lúc ban đầu khi mới thành lập, theo Điều 1 của Điều lệ ILO, muốn trở thành
thành viên của ILO thì phải là thành viên của Hội quốc liên. Đến năm 1945, Hội quốc
liên giải thể và ILO gia nhập Liên hợp quốc thì tư cách thành viên trong ILO có một
số thay đổi. Thành viên của ILO gồm những nước đã gia nhập ILO trước ngày 01
tháng 11 năm 1945. Những nước đến ngày 01 tháng 11 năm 1945 mà chưa gia nhập
ILO thì có hai cách thức để trở thành thành viên của ILO. Cách thức thứ nhất, nếu
đang là thành viên của Liên hợp quốc thì có thể trở thành thành viên của ILO nếu
quốc gia đó thơng báo với Tổng giám đốc Văn phịng Lao động quốc tế về việc thừa
nhận chính thức tất cả những trách nhiệm nảy sinh từ Điều lệ ILO. Cách thức thứ hai,
nếu quốc gia đó khơng phải là thành viên của Liên hợp quốc mà muốn gia nhập ILO
thì có thể trở thành thành viên của ILO theo quyết định của Hội nghị Lao động quốc
tế, quyết định đó phải được ít nhất 2/3 số đại biểu có mặt tại Hội nghị Lao động quốc
tế tán thành, trong đó phải có ít nhất 2/3 là đại biểu đại diện cho Chính phủ.
Khi thành lập năm 1919, ILO chỉ có 45 nước tham gia. Đến năm 2013, ILO đã
có 185 quốc gia thành viên. Việt Nam gia nhập ILO từ năm 1980 nhưng đến năm
1982 Việt Nam rút khỏi ILO vì một số lý do kỹ thuật. Năm 1993, Việt Nam tái gia
nhập ILO. Ngày 04 tháng 02 năm 2002, ILO và Việt Nam ký Hiệp định thiết lập Văn
phòng ILO tại Hà Nội đánh dấu sự khởi đầu các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật toàn diện
cho cơ quan đối tác ba bên trong lĩnh vực tạo việc làm, phát triển doanh nghiệp, bảo
trợ xã hội và quản lý thị trường lao động. Các đối tác chính của ILO tại Việt Nam: Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội, Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam,
Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Từ tháng 6
năm 2002, Việt Nam được bầu là thành viên phó Hội đồng Quản trị của ILO trong ba

nhiệm kỳ liên tục đến năm 2011. Tại Hội nghị lần thứ 100 của ILO, Việt Nam được
bầu làm thành viên chính thức của Hội đồng quản trị ILO nhiệm kỳ 2011-2014. Điều
này, thể hiện vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc
tế.
Mối quan hệ Việt Nam – Tổ chức Lao động quốc tế ILO ngày càng phát triển
theo chiều hướng tích cực. Mọi hoạt động của ILO tại Việt Nam luôn gắn với các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ và phù hợp với bốn mục tiêu chiến lược
về chương trình việc làm của ILO. Trong số chương trình, dự án đang được ILO phối
hợp với các cơ quan trong và ngoài nước thực hiện từ năm 2000 đến nay thuộc lĩnh


vực quan hệ lao động phải kể đến dự án “Tăng cường quan hệ lao động ILO - Việt
Nam” (từ tháng 1 năm 2003 đến tháng 6 năm 2006); Chương trình Better Work
VietNam từ 2009 đến nay được tài trợ bởi Tổ chức Lao động quốc tế và Tổ chức Tài
chính quốc tế.
2. Phân tích sự cần thiết của tiêu chuẩn lao động quốc tế?
2.1. Khái niệm tiêu chuẩn lao động quốc tế
Tiêu chuẩn lao động quốc tế là các văn bản pháp lý do các đối tác ba bên của
ILO (chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động)soạn thảo và thông qua,
quy định các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động. Các tiêu chuẩn này có thể
tồn tại dưới dạng Cơng ước –mang tính ràng buộc pháp lý của điều ước quốc tế mà
các quốc gia thành viên có thể phê chuẩn, hoặc dưới dạng Khuyến nghị – là những
hướng dẫn khơng mang tính bắt buộc.
Tiêu chuẩn lao động quốc tế còn là những nguyên tắc và những chuẩn mực về
lao động, quan hệ lao động và các vấn đề liên quan có phạm vi áp dụng vượt ra ngoài
phạm vi quốc gia. Tiêu chuẩn lao động quốc tế là các chuẩn mực buộc các nước thành
viên hay các nước sử dụng lao động của các nước thành viên phải tham khảo trong các
quyết định về lao động. Các tiêu chuẩn lao động quốc tế được coi như pháp luật quốc
cố về lĩnh vực lao động.
2.2. Sự cần thiết của tiêu chuẩn lao động quốc tế

Các tiêu chuẩn lao động quốc tế là chuẩn mực để các chủ thể quan hệ lao động
tham gia vào thị trường lao động toàn cầu (là cơ sở quan trọng để nhà nước ban hành
và thực thi pháp luật quan hệ lao động quốc gia; là căn cứ để người lao động, người sử
dụng lao động cũng như tổ chức đại diện của họ am hiểu vai trò, vị trí cũng như
những năng lực cần có của mình để tham gia quan hệ lao động một cách chủ động và
tròn vai”). Các tiêu chuẩn quốc tế về quan hệ lao động là những tiêu chuẩn cần phải
dành sự quan tâm thích đáng bởi nó tạo ra những lợi ích không nhỏ nhưng cũng đặt ra
những thách thức lớn đối với cả hệ thống quan hệ lao động trong nước.Qua đó đáp
ứng được 6 yêu cầu bao gồm:
-

Khung pháp lý quốc tế cho tồn cầu hóa cơng bằng và ổn định

Để đạt được mục tiêu làm việc tốt trong nền kinh tế tồn cầu hóa cần địi hỏi
phải có hành động ở cấp độ quốc tế. Cộng đồng thế giới đang ứng phó với thách thức
này một phần bằng cách phát triển các công cụ pháp lý quốc tế về thương mại, tài
chính, mơi trường, nhân quyền và lao động. ILO đóng góp vào khn khổ pháp lý này
bằng cách xây dựng và thúc đẩy các tiêu chuẩn lao động quốc tế nhằm đảm bảo rằng
tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với tạo ra việc làm tốt. Cơ cấu ba bên của ILO
đảm bảo rằng các tiêu chuẩn này được các chính phủ, người sử dụng lao động và
người lao động ủng hộ. Do đó, các tiêu chuẩn lao động quốc tế đặt ra các tiêu chuẩn
xã hội tối thiểu cơ bản được tất cả các bên trong nền kinh tế toàn cầu đồng ý.
-

Một sân chơi bình đẳng


Khung pháp lý quốc tế về các tiêu chuẩn xã hội đảm bảo một sân chơi bình
đẳng trong nền kinh tế tồn cầu. Nó giúp các chính phủ và người sử dụng lao động
tránh khỏi sự cám dỗ của việc hạ thấp tiêu chuẩn lao động với hy vọng rằng điều này

có thể mang lại cho họ lợi thế so sánh lớn hơn trong thương mại giữa các quốc gia. Về
lâu dài, những cách làm như vậy không mang lại lợi ích gì cho bất kỳ ai. Hạ thấp tiêu
chuẩn lao động có thể khuyến khích sự lan rộng của các ngành cơng nghiệp có mức
lương thấp, kỹ năng thấp và doanh thu cao, đồng thời ngăn cản một quốc gia phát
triển việc làm ổn định hơn với kỹ năng cao, bên cạnh đó làm chậm tốc độ tăng trưởng
kinh tế của các đối tác thương mại. Bởi vì các tiêu chuẩn lao động quốc tế là tiêu
chuẩn tối thiểu được các chính phủ và các đối tác xã hội thơng qua, nên tất cả mọi
người đều có lợi khi thấy các quy tắc này được áp dụng trên diện rộng, để những
người không áp dụng chúng vào thực tế không làm suy yếu nỗ lực của những người
thực hiện.
-

Một phương tiện cải thiện hiệu quả kinh tế

Các tiêu chuẩn lao động quốc tế đôi khi bị coi là tốn kém và do đó cản trở sự
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc tuân thủ
các tiêu chuẩn lao động quốc tế thường đi kèm với việc cải thiện năng suất và hiệu
quả kinh tế.
Mức lương tối thiểu và các tiêu chuẩn về thời gian làm việc và tơn trọng sự
bình đẳng, có thể chuyển thành sự hài lịng hơn và cải thiện hiệu suất cho người lao
động và giảm luân chuyển nhân viên. Đầu tư vào đào tạo nghề có thể tạo ra lực lượng
lao động được đào tạo tốt hơn và mức độ việc làm cao hơn. Các tiêu chuẩn an tồn có
thể giảm thiểu tai nạn và chi phí chăm sóc sức khỏe tốn kém. Bảo vệ việc làm có thể
khuyến khích người lao động chấp nhận rủi ro và đổi mới. Bảo trợ xã hội, chẳng hạn
như chương trình thất nghiệp và các chính sách thị trường lao động tích cực có thể tạo
điều kiện cho thị trường lao động linh hoạt, đồng thời làm cho tự do hóa kinh tế và tư
nhân hóa bền vững và được công chúng chấp nhận hơn. Tự do liên kết và thương
lượng tập thể có thể dẫn đến tham vấn và hợp tác lao động - quản lý tốt hơn, do đó cải
thiện điều kiện làm việc, giảm số lượng xung đột lao động tốn kém và tăng cường ổn
định xã hội.

Các tác động có lợi của tiêu chuẩn lao động khơng bị các nhà đầu tư nước
ngồi chú ý. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong tiêu chí lựa chọn quốc gia để đầu tư,
các nhà đầu tư nước ngoài xếp hạng chất lượng lực lượng lao động và sự ổn định
chính trị và xã hội cao hơn chi phí lao động thấp. Đồng thời, có rất ít bằng chứng cho
thấy các quốc gia không tôn trọng các tiêu chuẩn lao động sẽ cạnh tranh hơn trong nền
kinh tế tồn cầu. Các tiêu chuẩn lao động quốc tế khơng chỉ đáp ứng những thay đổi
trong thế giới việc làm nhằm bảo vệ người lao động mà cịn tính đến nhu cầu của các
doanh nghiệp bền vững.
-

Một mạng lưới an toàn trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế

Ngay cả những nền kinh tế đang phát triển nhanh với lao động có kỹ năng cao
cũng có thể trải qua những đợt suy thối kinh tế khơng lường trước được. Ngay cả


những nền kinh tế đang phát triển nhanh với lao động có kỹ năng cao cũng có thể trải
qua những đợt suy thối kinh tế khơng lường trước được.
Việc áp dụng một cách tiếp cận cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mơ và
việc làm, đồng thời có tính đến các tác động xã hội, có thể giúp giải quyết những
thách thức này.
-

Chiến lược xóa đói giảm nghèo

Sự phát triển kinh tế luôn phụ thuộc vào việc chấp nhận các quy tắc. Luật pháp và các
thể chế pháp lý hoạt động đảm bảo quyền tài sản, việc thực thi hợp đồng, tôn trọng thủ
tục và bảo vệ khỏi tội phạm - tất cả các yếu tố pháp lý của nền quản trị tốt mà khơng
có nền kinh tế nào có thể vận hành. Một thị trường được điều hành bởi một bộ quy tắc
và thể chế công bằng sẽ hiệu quả hơn và mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Thị

trường lao động cũng không khác. Thực hành lao động công bằng được quy định
trong các tiêu chuẩn lao động quốc tế và được áp dụng thông qua hệ thống pháp luật
quốc gia đảm bảo một thị trường lao động hiệu quả và ổn định cho người lao động
cũng như người sử dụng lao động.
-

Tổng hợp kinh nghiệm và kiến thức quốc tế về lao động

Các tiêu chuẩn lao động quốc tế là kết quả của các cuộc thảo luận giữa các
chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động, với sự tham khảo ý kiến của
các chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới. Họ đại diện cho sự đồng thuận quốc tế về
cách một vấn đề lao động cụ thể có thể được giải quyết ở cấp độ toàn cầu và phản ánh
kiến thức và kinh nghiệm từ mọi nơi trên thế giới. Các chính phủ, tổ chức của người
sử dụng lao động và người lao động, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp đa quốc gia và
các tổ chức phi chính phủ có thể hưởng lợi từ kiến thức này bằng cách kết hợp các tiêu
chuẩn vào chính sách, mục tiêu hoạt động và hành động hàng ngày của họ. Bản chất
pháp lý của các tiêu chuẩn có nghĩa là chúng có thể được sử dụng trong các hệ thống
pháp luật và cơ quan hành chính ở cấp quốc gia, và là một phần của hệ thống luật
quốc tế có thể mang lại sự hội nhập sâu rộng hơn vào cộng đồng quốc tế.



×