Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Trình bày mô hình thương mại điện tử của ngân hàng thương mại cổ phần và đầu tư BIDV, nghiên cứu những thành công và hạn chế đồng thời trình bày những

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.43 KB, 39 trang )

Lời nói đầu
Trong những thập niên gần đây, sự phát triển của khoa học công nghệ mà
đặc biệt là công nghệ thông tin và khoa học viễn thông đã làm một cuộc cách
mạng trong thương mại. Các phương pháp kinh doanh truyền thống đã và
đang dần dần được thay thế bằng một phương pháp mới. Đó chính là thương
mại điện tử mà "xương sống" của nó là công nghệ thông tin và Internet.
Thương mại điện tử đã đưa ra một giải pháp hữu hiệu, một hướng đi trực
tiếp trong việc trao đổi thông tin , hàng hoá, dịch vụ và mở rộng quy mô thị
trường, thị trường không biên giới. Chính cuộc cách mạng về quy mô thị
trường này đã trở thành động lực cho một cuộc cách mạng trong ngành ngân
hàng hướng tới một hệ thống thanh toán phù hợp với yêu cầu của thị trường
thương mại điện tử. Điều này đã tạo ra một dịch vụ ngân hàng mới, dịch vụ
ngân hàng điện tử.
Để hội nhập với các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, AFTA,
APEC chuẩn bị cho tiến trình ra nhập WTO, việc tìm kiếm một giải pháp toàn
diện chuyên nghiệp nhằm tiến hành thương mại điện tử, hoà nhập với nền
kinh tế toàn cầu là một điều hết sức bức thiết đối với đất nước ta. Đi đôi với
xu hướng chiến lược toàn cầu của quốc gia, ngành ngân hàng Việt Nam cũng
đã có những bước đi đáng kể. Đầu tiên phải kể đến là sự xoá bỏ độc quyền
nhà nước trong hệ thống ngân hàng. Tiếp đến là công cuộc đổi mới cải tiến hệ
thống ngân hàng. Bên cạnh dịch vụ tín dụng truyền thống, dịch vụ ngân hàng
tiêu dùng đã xuất hiện và đạt được những thành công đáng kể. Dịch vụ tài
chính cho cá nhân này rất đa dạng, bao gồm rút tiền tự động, chuyển tiền,
thanh toán thẻ, thanh toán qua mạng...Đó chính là bằng chứng của sự hình
thành và phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam.
Trong bài thảo luận này, chúng em xin trình bày mô hình thương mại
điện tử của Ngân hàng TMCP và đầu tư BIDV , nghiên cứu những thành công
và hạn chế,đồng thời trình bày những giải pháp nhằm khắc phục hạn chế
đó,phát triển những ưu điểm.



Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của cô giáo Lê
Thị Hoài trong thời gian chúng tôi thực hiện bài thảo luận naỳ.
Bài thảo luận gồm 3 phần chính :
Phần I : Tổng quan về ngân hàng điện tử.
-

Phần II :Mô hình Thương mại điện tử của ngân hàng BIV.
- Phần III : Giải pháp nhằm thúc đẩy dịch vụ ngân hàng điện tử

BIDV .


PHẦN I: Tổng quan về ngân hàng điện tử :
I. Sơ lược về ngân hàng điện tử
1. Sự thay đổi cơ bản trong ngành ngân hàng và khái niệm về dịch
vụ ngân hàng điện tử
Càng ngày, các ngân hàng và các tổ chức tài chính trên thế giới càng
nhận thấy tầm quan trọng của việc cung cấp dịch vụ "Ngân hàng điện tử" để
củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường.
Vậy "Ngân hàng điện tử" là gì và vì sao nó lại có tầm quan trọng và
được ứng dụng rộng khắp thế ?
"Ngân hàng điện tử" tiếng Anh là Electronic Banking, viết tắt là EBanking. Có rất nhiều cách diễn đạt khác nhau về "Ngân hàng điện tử", song
nhìn chung "Ngân hàng điện tử" được hiểu là một loại hình thương mại về tài
chính ngân hàng có sự trợ giúp của công nghệ thông tin, đặc biệt là máy tính
và công nghệ mạng. Nói ngắn gọn, "Ngân hàng điện tử" là hình thức thực
hiện các giao dịch tài chính ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử.
Các nghiên cứu về thị trường ngân hàng còn cho thấy rằng khách hàng
sử dụng dịch vụ ngân hàng truyền thống đang nhanh chóng được thay thế bởi
một thế hệ khách hàng mới, có trình độ học vấn cao, và đòi hỏi cao về các
dịch vụ tài chính ngân hàng.

Bạn rất bận rộn với công việc kinh doanh của mình. Trong đó , phần lớn
thời gian là để dành cho các công việc giao dịch và quản lý tài chính. Bạn rất
ngại trước việc hoàn tất một lô giấy tờ thủ tục khi giao dịch với ngân hàng.
Bao nhiêu rủi ro khi đi giao dịch với một số lượng lớn tiền mặt... Còn các
ngân hàng thương mại trong quá trình cạnh tranh và mở rộng mạng lưới của
họ thì phải đối mặt với vấn đề thuê văn phòng làm việc, thuê thêm nhiều nhân
viên để làm các công việc đơn giản tẻ nhạt như đếm tiền hay trực điện thoại.
"Ngân hàng điện tử" sẽ mang lại cho một hướng giải quyết hiệu quả cho
cả người cung cấp lẫn người sử dụng dịch vụ ngân hàng.


SƠ ĐỒ TỔNG QUÁT CỦA GIAO DỊCH "NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ"

Người với người
(Điện thoại, thư điện tử,
Fax)
Máy tính điện tử với máy tính
điện tử (Thẻ, ATM)

Máy tính điện tử với người

Người với máy tính điện tử

(Fax, thư điện tử)

(mẫu biểu điện tử, Web)

2. Vai trò của các ngân hàng thương mại
Hệ thống ngân hàng thương mại là người cung cấp dịch vụ "Ngân hàng
điện tử". Do vậy họ giữ vai trò chính.

Các nhà kinh tế đã coi dịch vụ "Ngân hàng điện tử" như là một cuộc cải
cách tài chính do các ngân hàng tiến hành. Nó đã mang lại nhiều dịch vụ có
khả năng sinh lời lớn.
Rất nhiều các ngân hàng và các tổ chức tài chính đã nhận ra rằng phương
thức cũ mà họ đang sử dụng trong kinh doanh không còn có khả năng mang
lại lợi nhuận cao. Các dịch vụ tài chính mà họ bán ra trên thị trường không
còn hấp dẫn người tiêu dùng. Thêm vào đó, các quy định về thủ tục tài chính
đã trở nên nặng nề. Để tồn tại trong môi trường tài chính mới, các ngân hàng
đã phải tìm kiếm và phát triển những sản phẩm dịch vụ mới. Cải cách trong
ngân hàng là tất yếu nhằm đáp lại sự thay đổi của nhu cầu khách hàng.
Trong khi đó, sự phát triển công nghệ thông tin đang mang lại cho
thương mại nói chung và ngành ngân hàng nói riêng những cơ hội lớn lao.


Mạng và hệ thống máy tính không những giúp cho ngân hàng giảm chi phí
giao dịch mà còn tạo điều kiện cho họ có khả năng đưa ra những dịch vụ
mới. Do vậy, cải cách ngân hàng cũng là sự đáp lại sự thay đổi của cung.
Hệ thống mạng phá bỏ sự ràng buộc về không gian và thời gian. Các
ngân hàng có thể mở nhiều chi nhánh ở các nước khác nhau mà không gặp
khó khăn gì trong việc theo dõi quản lý tình hình hoạt động của các chi
nhánh.
II. Xu hướng và kinh nghiệm phát triển của dịch vụ ngân hàng điện
tử trên thế giới
1."Ngân hàng điện tử " trên thế giới
Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và khoa học viễn
thông cùng với tiến trình toàn cầu hoá đã gây một ảnh hưởng lớn trong ngành
tài chính ngân hàng. Ngành ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng trong
việc cho ra đời một loạt các dịch vụ sản phẩm mới như tiền điện tử, "ví điện
tử". Đến lượt "Ngân hàng điện tử" lại giúp cho ngành ngân hàng vượt qua
những hạn chế mà hình thức dịch vụ ngân hàng truyền thống không thể làm

được. "Ngân hàng điện tử" là một xu hướng tất yếu nhằm tạo ra cho các ngân
hàng một sức cạnh tranh trong kỷ nguyên bùng nổ công nghệ thông tin này.
"Ngân hàng điện tử" chính là cuộc cách mạng trong ngành ngân hàng.
"Ngân hàng điện tử", đặc biệt là Internet banking, sản phẩm mới nhất
gần đây được tung ra sẽ gây một ảnh hưởng đáng kể trong thị trường tài chính
ngân hàng.
Internet là một công nghệ phát triển nhanh. Nó làm thay đổi hoàn toàn
Cách sống và làm việc của tất cả mọi người. Năm 1991 mới có 31 nước nối
mạng Internet, tới năm 1997 đã có 171 nước; số trang Web vào giữa năm
1993 là 130, tới cuối năm 1998 đã lên tới 3,69 triệu; giữa năm 1996 có 12,9
triệu địa chỉ Internet với khoảng 67,5 triệu người sử dụng, giữa năm 1998 đã
có 36,7 triệu địa chỉ Internet với khoảng 100 triệu người sử dụng. Theo dự
báo , số người sử dụng Internet trên toàn thế giới năm 2005 sẽ lên tới 1 tỷ


người. Dịch vụ ngân hàng qua Internet bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm
90. Tới nay, chủ yếu các giao dịch ngân hàng là qua Internet.
"Ngân hàng điện tử" đã tìm ra thị trường đầy tiềm năng và tương lai rực
rỡ của nó. Dĩ nhiên là bởi những tiến bộ của nó mang lại. Ngày nay, mỗi
người mua hàng hoá hay dịch vụ, nhận tiền lương thưởng chỉ cần ghi lại trong
tài khoản của họ. Đồng tiền ngày nay đơn giản chỉ là những thông tin được
truyền tự động. Sự thống trị của đồng tiền điện tử trên thị trường thương mại
điện tử thế giới chính là bằng chứng của sự phát triển "Ngân hàng điện tử".
Theo thống kê của International Data Corp (IDC), có tới 10 triệu người
sử dụng "Ngân hàng điện tử". Con số này dự tính lên tới 30 triệu người trong
vòng vài năm tới. Doanh số trung bình dịch vụ "Ngân hàng điện tử" vào năm
1997 là USD 8 tỷ, 1998 là USD 14 tỷ, 1999 là USD 31 tỷ và tới 2002 là USD
90 tỷ.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh đặc thù về chính trị xã hội, một số nước vẫn
còn có các hoạt động kiểm soát Internet. Do vậy làm hạn chế sự phát triển của

"Ngân hàng điện tử".
2. Dịch vụ "Ngân hàng điện tử" ở một số nước
2.1 Trung Quốc
Nỗ lực của Trung Quốc tập trung chủ yếu vào xây dựng hạ tầng cơ sở
cho công nghệ thông tin. Công suất sản xuất máy tính điện tử cá nhân năm
1998 đạt tới 8,5 triệu cái/năm. 4 công ty máy tính điện tử hàng đầu của Trung
Quốc đều có sức cạnh tranh với IBM, COMPAQ, HP, trên thị trường nội địa.
Công nghệ phần cứng đạt tốc độ tăng khoảng 45%/năm. Công nghệ phần
mềm tăng 20%/năm.
Tuy vậy, Trung Quốc bước vào "Ngân hàng điện tử" rất chậm. Cuối năm
1997 mới chính thức ra nhập Internet. Trung Quốc đòi hỏi người sử dụng
Internet phải đăng ký với công an.


Do chính sách bảo hộ công nghiệp và kiểm soát ngoại tệ, các dịch vụ
phát hành và thanh toán thẻ ở Trung Quốc cũn bị hạn chế. Tỷ lệ thanh toán thẻ
tăng 7,8%/năm.
2.2 Các nước ASEAN
"Ngân hàng điện tử" ở các nước A SEAN phát triển hơn.
2.2.1. Singapore
Singapore, là một trong những nước áp dụng thanh toán điện tử đầu tiên
trên thế giới. Tháng 12/1996, nhân phiên họp khai mạc cấp bộ trưởng WTO tổ
chức ở Singapore, Singapore đã chính thức khai trương việc ứng dụng toàn
diện các loại thẻ, thẻ ghi nợ, thẻ tiền mặt internet, thẻ thông minh, thẻ mua
hàng diện tử, túi tiền điện tử. Hệ thống giao dịch điện tử an toàn manh tính
quốc tế (Network for Electronic Transfers) thành lập tháng 4/1997 đã được
đưa vào sử dụng toàn diện cuối năm 1998. Singapore đã đưa lên internet 30
chương trình phần mềm ứng dụng chuyên phục vụ thương mại điện tử.
Có tới hơn 10,000 điểm bán hàng trên hòn đảo này được lắp đặt thiết bị
thanh toán thẻ ghi nợ.

Tuy nhiên, phát hành thẻ tín dụng lại hạn chế. Chính sách quản lý tiền tệ
ở Singapore quy định cá nhân từ 21 tuổi trở lên và có thu nhập SGD 30,000
/năm mới được mua thẻ tín dụng. Hạn mức tín dụng tối đa là 2 tháng lương.
Cho tới năm 2000, số lượng thẻ tín dụng phát hành là 2,5 triệu thẻ. Ngoài ra
còn có các thẻ khác như thẻ thông minh, thẻ mua hàng…Thanh toán điện tử là
một phần nằm trong "kế hoạch tổng thể về thương mại điện tử ở Singapore.
Một loạt các văn kiện quan trọng có liên quan đã ra đời nhằm điều chỉnh hoạt
động này như "Luật giao dịch điện tử, "luật chống lạm dụng máy tính điện
tử... Luật bản quyền cũng được sửa đổi lại.
2.2.2. Malaysia
Thanh toán điện tử ở nước này rất phát triển. Đặc biệt là thanh toán thẻ.
3,5 triệu thẻ tín dụng dược phát hành. Ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài


chiếm 55% thị phần. Nhưng hệ thống dày đặc máy rút tiền tự động là của các
ngân hàng trong nước.
Tuy nhiên, tỷ lệ gian lận trong thanh toán thẻ ở nước này được xếp vào
lại cao trong khu vực Asia Pacific.
2.2.3. Philippin
Internet thâm nhập vào Philippin khá sớm: năm 1996, ở Philippin có
53,000 người sử dụng Internet, năm 1997 đã lên tới 85,000 người và 2001 có
tới 0,7 triệu người sử dụng Internet.
Các phương tiện truyền thông khác cũng phát triển.Ví dụ 1996 toàn quốc
có 1,35 triệu thuê bao điện thoại, năm 1998 đã lên tới 5,49 triệu. Tỷ trọng
người mua hàng bán lẻ qua Internet chiếm 1,8% với tổng giá trị USD 151
triệu. 17 triệu thẻ được phát hành bao gồm thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ...Hệ thống
ATM và thiết bị chấp nhận thẻ rất phổ biến. Tuy nhiên hệ thống luật và một
chiến lược đặc thù về ngân hàng điện tử thì chưa có một cách rõ ràng.
"Ngân hàng điện tử" ở các nước ASEAN bắt đầu xuất hiện. Nhưng chỉ
phát triển mạnh ở một số nước và chủ yếu vẫn còn trong lĩnh vực nội địa.

Nhìn chung các nước thành viên còn đang đứng trước tìng trạng yếu kém về
cơ sở hạ tầng thông tin, cơ sở hạ tầng pháp lý tài chính. "Ngân hàng điện tử"
của ASEAN đang còn trong giai đoạn "nghiên cứu" để tìm đường phối hợp
chuyển giao công nghệ và hợp tác kỹ thuật với nhau, thực sự tham gia thanh
toán điện tử với nhau và với các nước khác.
III. Các loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử (E – Banking ):
E-Banking bao gồm các loại hình như:
- Internet Banking: giao dịch ngân hàng qua mạng toàn cầu Internet.
- Phone Banking: giao dịch ngân hàng qua mạng điện thoại.
- SMS Banking giao dịch ngân hàng qua tin nhắn SMS của điện thoại di
động.
- ATM: giao dịch ngân hàng qua hệ thống máy ATM.
- WAP Banking: giao dịch ngân hàng qua web trên điện thoại di động.


- Call Center / Contact center: giải đáp thắc mắc, cung cấp thông tin và
giao dịch ngân hàng qua tổng đài điện thoại.
- Mail Banking, Fax Banking, Video Banking: giao dịch ngân hàng qua
thư điện tử, Fax, Video.
Các tiện ích chính của E-Banking bao gồm: Cung cấp thông tin, Vấn tin,
Chuyển khoản, Thanh toán, Đăng ký, Tư vấn và một số nghiệp vụ kinh doanh
ngân hàng khác.
I V . Ưu điểm và nhược điểm của Ngân hàng điện tử :
1. Ưu điểm của E-Banking
- Nhanh chóng, thuận tiện
E-Banking là một kênh giao dịch, giúp cho khách hàng có thể liên lạc
với ngân hàng một cách nhanh chóng, thuận tiện để thực hiện một số nghiệp
vụ ngân hàng tại bất kỳ thời điểm nào (24 giờ mỗi ngày, 7 ngày một tuần) và
ở bất cứ nơi đâu. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các khách hàng có ít
thời gian để đi đến văn phòng trực tiếp giao dịch với ngân hàng, các khách

hàng nhỏ và vừa, khách hàng cá nhân có số lượng giao dịch với ngân hàng
không nhiều, số tiền mỗi lần giao dịch không lớn. Đây là lợi ích mà các giao
dịch kiểu ngân hàng truyền thống khó có thể đạt được với tốc độ nhanh, chính
xác so với ngân hàng điện tử.
- Tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu
Phí giao dịch E-Banking được đánh giá là ở mức rất thấp so với giao
dịch truyền thống, đặc biệt là giao dịch qua Internet, từ đó góp phần tăng
doanh thu hoạt động cho ngân hàng. Số liệu về phí giao dịch ngân hàng khảo
sát ở Mỹ đã minh chứng cho điều đó:
Stt
1

Hình thức giao dịch
Giao dịch qua nhân viên ngân
hàng

Phí bình quân 1 giao dịch
(USD)
1,07


2

Giao dịch qua điện thoại

0,54

3

Giao dịch qua ATM


0,27

4

Giao dịch qua Internet

0,015

- Mở rộng phạm vi hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh
E-Banking là một giải pháp của NHTM để nâng cao chất lượng dịch vụ
và hiệu quả hoạt động, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của NHTM.
Điều quan trọng hơn là E-Banking còn giúp NHTM thực hiện chiến lược
“toàn cầu hóa” mà không cần mở thêm chi nhánh ở trong nước cũng như ở
nước ngoài. E-Banking cũng là công cụ quảng bá, khuyếch trương thương
hiệu của NHTM một cách sinh động, hiệu quả.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Xét về mặt kinh doanh của ngân hàng, E-Banking sẽ giúp nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn. Thông qua các dịch vụ của ngân hàng điện tử, các lệnh về
chi trả, nhờ thu của khách hàng được thực hiện nhanh chóng, tạo điều kiện
cho vốn tiền tệ chu chuyển nhanh, thực hiện tốt quan hệ giao dịch, trao đổi
tiền - hàng. Qua đó đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tiền tệ, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn.
- Tăng khả năng chăm sóc và thu hút khách hàng
Chính sự tiện ích có được từ công nghệ ứng dụng, từ phần mềm, từ nhà
cung cấp dịch vụ mạng, dịch vụ Internet đã thu hút và giữ khách hàng sử
dụng, quan hệ giao dịch với ngân hàng, trở thành khách hàng truyền thống
của ngân hàng. Với mô hình ngân hàng hiện đại, kinh doanh đa năng thì khả
năng phát triển, cung ứng các dịch vụ cho nhiều đối tượng khách hàng, nhiều
lĩnh vực kinh doanh của E-banking là rất cao.

- Cung cấp dịch vụ trọn gói
Điểm đặc biệt của dịch vụ ngân hàng điện tử là có thể cung cấp dịch vụ
trọn gói. Theo đó các ngân hàng có thể liên kết với các công ty bảo hiểm,
công ty chứng khoán, công ty tài chính khác để đưa ra các sản phẩm tiện ích


đồng bộ nhằm đáp ứng căn bản các nhu cầu của một khách hàng hoặc một
nhóm khách hàng về các dịch vụ liên quan tới ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư,
chứng khoán...
2. Nhược điểm của E-Banking
-Vốn đầu tư lớn
Để xây dựng một hệ thống E-Banking đòi hỏi phải một lượng vốn đầu tư
ban đầu khá lớn để lựa chọn được một công nghệ hiện đại, đúng định hướng,
chưa kể tới các chi phí cho hệ thống dự phòng, chi phí bảo trì, duy trì và phát
triển hệ thống, đổi mới công nghệ sau này. Đồng thời cần có một đội ngũ kỹ
sư, cán bộ kỹ thuật có trình độ để quản trị, vận hành hệ thống… một lượng
chi phí mà không phải NHTM nào cũng sẵn sàng bỏ ra đầu tư. Chưa kể việc
đầu tư ấy có phát huy hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào hệ thống hạ tầng
truyền thông đất nước, hay nói khác đi còn phụ thuộc vào những nỗ lực chung
của cả một quốc gia chứ không riêng gì một NHTM nào.
-Rủi ro cao
Vốn và công nghệ tuy là vấn đề không phải dễ vượt qua, nhưng cũng có
thể khắc phục được, vấn đề nan giải hơn là ở chỗ tính an toàn và bảo mật của
hệ thống E-Banking. Rủi ro trong hoạt động dịch vụ này là không nhỏ, khách
hàng có thể bị mất mật khẩu truy nhập tài khoản từ lúc nào mà mình chẳng
hay biết do bị “Hacker” ăn cắp bằng công nghệ cao. Từ đó tiền trong tài
khoản của khách hàng bị mất mà không biết tại bản thân mình nhầm lẫn hay
tại NHTM. Còn về phía NHTM ở Việt Nam, do công nghệ chủ yếu là “nhập
khẩu” nên sự chủ động nắm bắt công nghệ không cao, việc phát hiện và bịt
các “nỗ hổng” của phần mềm mua từ nước ngoài chưa thể thực hiện được một

cách đầy đủ, khả năng lớn là phải mời chuyên gia, tốn kém và mất thời gian.
Vius, sâu máy tính, phần mềm gián điệp là những nguy cơ thường trực tấn
công hệ thống qua việc giả mạo, đánh cắp dữ liệu khách hàng, tội phạm máy
tính sử dụng tấn công kiểu “từ chối dịch vụ” (DDoS) làm tê liệt website là rất
có thể xảy ra. Ngày nay những tấn công ác ý và tin tặc đã chuyển biến từ chỗ


chỉ là sở thích của một số sinh viên đã trở thành một lĩnh vực tội phạm hoàn
chỉnh. Ngoài ra phải kể đến chính sách quản lý rủi ro đối với hoạt động EBanking của các NHTM còn đang ở những bước đi đầu tiên, không có hệ
thống lưu trữ dữ liệu tổn thất, thiếu những công cụ quản lý rủi ro cần thiết để
đi vào thực tiễn.
-Thiếu thông tin “nóng”
Qua E-Banking khách hàng nhận được thông tin không thể đầy đủ như
qua một cán bộ chuyên trách của ngân hàng. Khách hàng sẽ mất đi cơ hội trao
đổi thông tin với bạn hàng, nắm bắt tình hình mới, “nóng” tại nơi giao dịch
của ngân hàng.
3. Tiếp cận ứng dụng E-Banking ở NHTM như thế nào?
Ở Việt Nam, đây là lĩnh vực hoạt động mới đối với nhiều NHTM, môi
trường pháp lý ở nước ta còn chưa đủ đáp ứng cho hoạt động của E-Banking.
Chữ ký điện tử, tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử chưa rõ
ràng. Cũng chính vì môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh nên một số khách
hàng cũng như NHTM còn nghi ngại trong việc triển khai mạnh các dịch vụ
ngân hàng điện tử.
Tuy nhiên, những nhược điểm của E-banking, bất cập về môi trường
pháp lý cũng không thể giảm được sức hấp dẫn của những tiện ích E-Banking
cũng như vai trò của nó trong việc góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh
của NHTM. Thời gian gần đây, một số NHTM đã bắt đầu triển khai ứng dụng
E-Banking qua mạng Internet, mạng điện thoại cố định, di động và cung cấp
các tiện ích như: cung cấp thông tin về tài khoản, lịch sử giao dịch; thông tin
về thị trường: tỷ giá, lãi suất, giá cả; giao dịch chứng khoán, ...; giao dịch

thanh toán tiền điện thoại, tiền taxi, vé tầu, tiền điện, nước... Tuy nhiên, việc
khai thác được điểm mạnh và lợi thế tuyệt đối của một Ngân hàng điện tử là
cung cấp sản phẩm dịch vụ đa dạng và có tính tiện lợi, tiện ích cao, nhanh
chóng, chính xác, tức thời hiện chưa làm được.


Trong điều kiện hiện nay, để phát triển ngân hàng điện tử ở NHTM nước
ta, trước hết cần thực hiện một số bước đi thích hợp:
Thứ nhất , tiếp tục hoàn thiện và phát triển hệ thống Core Banking đối
với các hoạt động dịch vụ ngân hàng truyền thống như: hồ sơ khách hàng,
dịch vụ tài khoản, kế toán giao dịch, dịch vụ thanh toán VND và ngoại tệ;
dịch vụ tín dụng, bảo lãnh; huy động vốn, tiết kiệm, kho quỹ;... Đây là cơ sở
đảm bảo cho NHTM phát triển đạt trình độ nhất định, tạo tiền đề để phát triển
các hoạt động dịch vụ ngân hàng điện tử.
Thứ hai , sự phát triển ngân hàng điện tử mang tính chiến lược, tuy nhiên
để phát triển một cách bền vững, NHTM cần lựa chọn phương án tối ưu nhất
để triển khai thực hiện. Trong điều kiện hiện nay, trước mắt các NHTM nên
phát triển các hoạt động dịch vụ của ngân hàng điện tử ở mức độ nhất định,
phù hợp với tình hình thực tế, môi trường pháp lý, trình độ phát triển của nền
kinh tế, nhu cầu của khách hàng, như: xây dựng, củng cố, phát triển hệ thống
ATM, trang tin điện tử của ngân hàng, phát triển homebanking. Đặc biệt triển
khai hệ thống Contact center cùng với thực hiện phần mềm Quản lý quan hệ
khách hàng CRM nhằm hiện đại hoá và thực hiện tốt hơn công tác chăm sóc
khách hàng. Các sản phẩm dịch vụ này sẽ phục vụ cho chính các đối tượng
khách hàng truyền thống của ngân hàng, đồng thời thu hút khách hàng mới sử
dụng bằng chính tiện ích và hiệu ứng thông tin về dịch vụ từ các khách hàng
truyền thống. Thực hiện khai thác hiệu quả Website của ngân hàng mình để tổ
chức hoạt động tiếp thị, vụ của ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút
và phát triển khách hàng tiềm năng, quảng cáo, tư vấn, hỗ trợ, ... nhằm thu hút
khách hàng quan tâm và chú ý đến các sản phẩm dịch khách hàng mới.

Thứ ba , nâng cao chất lượng hoạt động của các kênh phân phối dịch vụ
Ngân hàng điện tử mà một số NHTM đã và đang phát triển, như: Internet
banking, Phone banking, SMS banking, Call center… theo hướng ngày càng
bổ sung thêm tiện ích, bảo đảm an toàn, phù hợp với khả năng quản trị rủi ro
hoạt động E-Banking; Đồng thời xây dựng chính sách an ninh, bảo mật và


chính sách quản trị, phòng chống rủi ro của các NHTM trong hoạt động ngân
hàng điện tử.
Ngân hàng điện tử mở ra nhiều triển vọng nhưng cũng không ít khó khăn
thách thức, đòi hỏi mỗi NHTM cần có chiến lược, sách lược, đường đi nước
bước thích hợp để đưa dịch vụ ngân hàng điện tử vào cuộc sống một cách an
toàn và hiệu quả nhất./.
V . Xu hướng phát triển ngân hàng điện tử ở Việt Nam
1. Xu hướng trước mắt
Theo báo cáo của ASEAN tháng 10 năm 2001, Việt Nam đã được xếp
vào một trong số những quốc gia sẵn sàng cho thương mại điện tử.
Bảng 13: Tình hình phát triển E - BANKING ở ASEAN
Xuất hiện
Tham gia
Việt Nam
Cambodia
Myanmar
Lào

Thailand
Philippines
Brunei
Indonesia


Phát triển

Phát triển mở rộng

Malaysia

Singapore

Điều này có nghĩa là Việt Nam mới bắt đầu nhận ra sự tồn tại tất yếu của
thương mại điện tử và có kế hoạch chuẩn bị cho việc tiến hành. Chính phủ
Việt Nam đã có những cam kết về thương mại điện tử trong lộ trình gia nhập
AFTA, APEC và tiến tới là WTO. Bằng chứng là trong 5 năm qua thương
mại điện tử Việt Nam hay cụ thể là ngân hàng điện tử Việt Nam đã bước đi
những bước đáng kể.
Như đã phân tích ở trên, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn xa mới theo
kịp các nước trong khu vực. Singapore có ATM từ năm 1979, Malaisia có
ATM vào năm 1981, còn chúng ta, mới chỉ bắt đầu từ 1996.
Kể từ cuối năm 2001, hệ thống ATM phát triển bùng nổ ở Việt Nam. Các
ngân hàng đang trong một cuộc chạy đua về ATM. Xu thế này sẽ vẫn tiếp tục


phát triển trong một vài năm tới. Bởi vì các ATM hiện nay mới chỉ tập trung
nhiều ỏ Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tất cả các ngân hàng đều có mong
muốn hệ thống ATM của mình có mặt tại các tỉnh thành trong cả nước.
Đi đôi với ATM là dịch vụ thẻ, bao gồm cả phát hành và chấp nhận thanh
toán.
Thẻ và ATM là mục tiêu trước mắt của các ngân hàng. Chủ trương phát
triển dịch vụ ngân hàng tiêu dùng, ngân hàng bán lẻ buộc các ngân hàng phải
nhanh chóng mở rộng hệ thống khách hàng cá nhân. Nhưng những ràng buộc
như hạn chế về số lượng chi nhánh, số lượng nhân viên, thời gian phục vụ tại

quầy đã khiến cho việc phục vụ một số lượng lớn khách hàng là vô cùng khó
khăn. Chính vì vậy, thẻ và ATM là dịch vụ lợi thế nhất mang lại hiệu quả cho
cả khách hàng và ngân hàng.
Tuy nhiên việc lắp đặt chồng chéo ATM của các ngân hàng là không thể
tránh khỏi. Chi phí quá lớn cho việc đầu tư lắp đặt hệ thống này có thể phải
xem lại đối với một số ngân hàng vốn nhỏ. Tránh tình trạng đầu tư mua máy
mà chưa đưa vào sử dụng trong thời gian dài, gây đọng vốn quá lâu.
Dịch vụ phone-banking và internet-banking trong thời gian tới mới chỉ
bước đầu đưa vào hoạt động hoặc thử nghiệm hoạt động. Nguyên nhân là các
dịch vụ này đòi hỏi một cơ sở hạ tầng công nghệ cao. Cần có thời gian cho
các ngân hàng thiết lập và nâng cấp hệ thống kỹ thuật cũng như cho người
tiêu dùng nâng cao nhận thức và có một hiểu biết tương đối về dịch vụ có tính
chất cách mạng trong lĩnh vực tài chính này.
2 Xu hướng lâu dài
Nền tảng của thương mại điện tử và ngân hàng điện tử là Internet.
Internet đang phát triển rất nhanh cả về phạm vi bao phủ, phạm vi ứng dụng
và chất lượng vận hành. Hiện nay, có khoảng 100 triệu người đang sử dụng
Internet. Theo dự báo số người sử dụng Internet trên toàn thế giới năm 2005
sẽ lên tới 1 tỷ người.


Tính đến cuối năm 2000, số thuê bao Internet ở Việt Nam là 113.000 và
chưa đầy 1000 doanh nghiệp có trang chủ riêng. Tuy nhiên phải tính đến việc
chúng ta mới chỉ ra nhập Internet từ cuối năm 1997.
Không nằm ngoài xu hướng phát triển trong khu vực và trên toàn thế
giới, Internet cũng sẽ bùng nổ ở Việt Nam trong những năm tới. Đó chính là
cơ sở để phát triển ngân hàng điện tử ở Việt Nam.
Hiện nay Chính phủ đang xem xét để thông qua kế hoạch tổng thể nằm
thực hiện nghiêm túc chỉ thị 58/CT-TW chỉ đạo về công nghệ thông tin trong
tình hình mới.

Đào tạo nguồn nhân lực để phát triển công nghệ thông tin. Trong mọi
lĩnh vực, nguồn nhân lực là hết sức quan trọng. Nguồn nhân lực công nghệ
thông tin nước ta mới đang ở dạng tiềm năng chứ chưa phải ở dạng khả năng
khai thác. Mục tiêu của chúng ta là khuyến khích nâng cao trình độ ứng dụng
công nghệ thông tin, có những chính sách nhằm thu hút tài năng tin học, có
những sản phẩm phần mềm thay thế được nhập khẩu.
Ứng dụng công nghệ thông tin ở tất cả các hoạt động kinh tế xã hội.
Điều này không những xây dựng một nền kinh tế mới mà còn nâng cao nền
kinh tế tri thức, làm nền tảng cho sự phát triển của các loại hình dịch vụ cao
cấp.
Xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet ở Việt Nam. Với quyết
tâm cao của ngành bưu chính viễn thông, của đông đảo cộng đồng khoa học
công nghệ, hạ tầng cơ sở viễn thông giai đoạn tới phải được nâng lên ngang
bằng với khu vực. Mục tiêu là tạo ra sự bùng nổ đột biến Internet ở Việt Nam.
Và chỉ có cách đó chúng ta mới hoà nhập, sử dụng thương mại điện tử, Chính
Phủ điện tử như Chính phủ nước ta đã cam kết với chính phủ các nước Đông
nam Á.
Kế hoạch đồng bộ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Hoàn thiện nâng
cấp kỹ thuật hệ thống mạng thông tin ngân hàng rộng khắp từ Trung ương đến
tất cả các chi nhánh. Xây dựng cơ sở dữ liệu toàn ngành, phục vụ công tác


quản lý của Ngân Hàng Nhà Nước. Ưu tiên phát triển hệ thống thanh toán
Quốc gia. Phổ cập dịch vụ ngân hàng tiêu dùng trong dân. Hoàn thiện hệ
thống các văn bản pháp lý trong các nghiệp vụ ngân hàng, đặc biệt là các lĩnh
vực liên quan trực tiếp tới công nghệ ngân hàng hiện đại.


PHẦN II. Mô hình thương mại điện tử của BIDV
1 .Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam

( BIDV )
Tên đầy đủ: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Tên giao dịch quốc tế:

Joint Stock Commercial Bank for Investment

and Development of Vietnam
Tên gọi tắt:

BIDV

Địa chỉ:

Tháp BIDV, 35 Hàng Vôi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Điện thoại:

04.2220.5544

Fax:

04. 2220.0399

Email:
- Được thành lập ngày 26/4/1957, BIDV là ngân hàng thương mại lâu
đời nhất Việt Nam.
Lĩnh vực hoạt động kinh doanh
- Ngân hàng: là một ngân hàng có kinh nghiệm hàng đầu cung cấp đầy
đủ các sản phảm, dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiện ích.
- Bảo hiểm: cung cấp các sản phẩm Bảo hiểm phi nhân thọ được thiết kế

phù hợp trong tổng thể các sản phẩm trọn gói của BIDV tới khách hàng.
- Chứng khoán: cung cấp đa dạng các dịch vụ môi giới, đầu tư và tư vấn
đầu tư cùng khả năng phát triển nhanh chóng hệ thống các đại lý nhận lệnh
trên toàn quốc.
- Đầu tư tài chính: góp vốn thành lập doanh nghiệp để đầu tư các dự án,
trong đó nổi bật là vai trò chủ trì điều phối các dự án trọng điểm của đất nước
như: Công ty Cổ phần cho thuê Hàng không (VALC) Công ty phát triển
đường cao tốc (BEDC), Đầu tư sân bay Quốc tế Long Thành…
Nhân lực
- Hơn 16.000 cán bộ, nhân viên là các chuyên gia tư vấn tài chính được
đào tạo bài bản, có kinh nghiệm được tích luỹ và chuyển giao trong hơn nửa
thế kỷ BIDV luôn đem đến cho khách hàng lợi ích và sự tin cậy.


Mạng lưới
- Mạng lưới ngân hàng: BIDV có 118 chi nhánh và trên 500 điểm mạng
lưới, hàng nghìn ATM/POS tại 63 tỉnh/thành phố trên toàn quốc.
- Mạng lưới phi ngân hàng: Gồm các Công ty Chứng khoán Đầu tư
(BSC), Công ty Cho thuê tài chính, Công ty Bảo hiểm Đầu tư (BIC) với 20
chi nhánh trong cả nước…
- Hiện diện thương mại tại nước ngoài: Lào, Campuchia, Myanmar, Nga,
Séc...
- Các liên doanh với nước ngoài: Ngân hàng Liên doanh VID-Public (đối
tác Malaysia), Ngân hàng Liên doanh Lào -Việt (với đối tác Lào) Ngân hàng
Liên doanh Việt Nga - VRB (với đối tác Nga), Công ty Liên doanh Tháp
BIDV (đối tác Singapore), Liên doanh quản lý đầu tư BIDV - Việt Nam
Partners (đối tác Mỹ)…
Công nghệ
- Luôn đổi mới và ứng dụng công nghệ phục vụ đắc lực cho công tác
quản trị điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng tiên tiến.

- Liên tục từ năm 2007 đến nay, BIDV giữ vị trí hàng đầu Vietnam ICT
Index (chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng cộng nghệ thông tin) và
nằm trong TOP 10 CIO (lãnh đạo Công nghệ Thông tin) tiêu biểu của Khu
vực Đông Dương năm 2009 và Khu vực Đông Nam Á năm 2010.
Cam kết
- Với khách hàng: BIDV cung cấp những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
có chất lượng cao, tiện ích nhất và chịu trách nhiệm cuối cùng về sản phẩm
dịch vụ đã cung cấp
- Với các đối tác chiến lược: Sẵn sàng “Chia sẻ cơ hội, hợp tác thành
công”.
- Với Cán bộ Công nhân viên:Luôn coi con người là nhân tố quyết định
mọi thành công theo phương châm “mỗi cán bộ BIDV là một lợi thế trong
cạnh tranh” về cả năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức.


Khách hàng
- Doanh nghiệp: có nền khách hàng doanh nghiệp lớn nhất trong hệ
thống các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam bao gồm các tập đoàn, tổng công ty
lớn; các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Định chế tài chính: BIDV là sự lựa chọn tin cậy của các định chế lớn
như World Bank, ADB, JBIC, NIB…
- Cá nhân: Hàng triệu lượt khách hàng cá nhân đã và đang sử dụng dịch
vụ của BIDV
Thương hiệu BIDV
- Là sự lựa chọn, tín nhiệm của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và
cá nhân trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân hàng.
- Được cộng đồng trong nước và quốc tế biết đến và ghi nhận như là một
trong những thương hiệu ngân hàng lớn nhất Việt Nam.
- Là niềm tự hào của các thế hệ CBNV và của ngành tài chính ngân hàng
trong 54 năm qua với nghề nghiệp truyền thống phục vụ đầu tư phát triển đất

nước.
2.Các loai hình - E-Banking ở BIDV :
BIDV e-Banking – Giao dịch tức thời, mọi lúc mọi nơi
Khách hàng hoàn toàn yên tâm khi sử dụng các gói dịch vụ trên của
BIDV e-Banking. BIDV đã hợp tác với các nhà cung cấp giải pháp hàng đầu
về Công nghệ thông tin ngân hàng như Polaris, C-Sam để xây dựng hệ thống
ngân hàng điện tử hiện đại, ổn định và có tính bảo mật cao. Tất cả các giao
dịch tài chính đều được yêu cầu yếu tố xác thực thứ 2 trước khi giao dịch
được hoàn tất. Mã xác thực này được hiển thị trên thiết bị điện tử do Ngân
hàng cung cấp cho khách hàng (Hardware Token) hay thông qua tin nhắn tới
điện thoại di động (SMS Token). Khách hàng có thể lựa chọn phương thức
xác thực phù hợp với nhu cầu và có thể áp dụng chung một phương thức xác
thực cho cả dịch vụ ngân hàng trực tuyến và ngân hàng qua điện thoại di
động.


Ngân hàng điện tử là một trong những phương thức mới để giao dịch với
Ngân hàng và đòi hỏi khách hàng phải có một số kiến thức cơ bản về máy
tính và công nghệ. Tuy nhiên, với BIDV e-Banking, các giao diện sử dụng
đều được thiết kế rất thân thiện, khoa học và tiện lợi giúp khách hàng làm
quen và sử dụng dịch vụ nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Hiện tại, BIDV vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để bổ sung thêm nhiều tính
năng tiện ích khác cho BIDV e-Banking và kỳ vọng sẽ mang lại sự hài lòng
tối ưu cho khách hàng. Trong giai đoạn đầu ra mắt dịch vụ, các khách hàng
cá nhân và doanh nghiệp đầu tiên đăng ký sử dụng sẽ được hưởng rất nhiều
ưu đãi hấp dẫn từ các chương trình khuyến mại của BIDV. Khách hàng vui
lòng liên hệ với các Chi nhánh của chúng tôi hoặc truy cập website
để có thêm các thông tin chi tiết và cùng trải nghiệm
những tiện ích tuyệt vời mà BIDV e-Banking cung cấp.
2.1 BIDV Online

BIDV Online không giống như những dịch vụ ngân hàng trực tuyến
trước đây chỉ cho phép khách hàng truy vấn thông tin các tài khoản mà dịch
vụ này còn cho phép khách hàng thực hiện rất nhiều những giao dịch tài chính
đa dạng khác như: chuyển khoản trong hệ thống, chuyển tiền liên ngân hàng,
đặt lệnh thanh toán định kỳ, lệnh chuyển tiền ngày tương lai, thanh toán hóa
đơn hàng hóa dịch vụ, gửi tiền có kỳ hạn Online hay gửi các yêu cầu dịch vụ
tới Ngân hàng.
Các lệnh chuyển tiền qua BIDV Online đều được xử lý tự động, giao
dịch viên tại Chi nhánh không cần phải thực hiện bất kỳ thao tác nào. Vì vậy,
độ chính xác và tốc độ xử lý giao dịch được nâng cao hơn rất nhiều so với
giao dịch tại quầy. Tương tự, đối với gửi tiền online, BIDV Online có thể khởi
tạo tài khoản tiền gửi ngay lập tức sau khi khách hàng hoàn tất giao dịch.
Khách hàng có thể lựa chọn kỳ hạn linh hoạt từ 1 tuần tới 36 tháng, có thể
cầm cố và chuyển nhượng tài khoản khi có nhu cầu.


Ngoài ra, tính năng gửi yêu cầu dịch vụ tới Ngân hàng cũng là một tính
năng rất thiết thực khác của BIDV Online. Khách hàng có thể gửi yêu cầu
đăng ký vay Online, yêu cầu phát hành thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, yêu cầu phát
hành sao kê, phát hành sổ séc…và lựa chọn Chi nhánh thực hiện. Cán bộ ngân
hàng sẽ trực tiếp liên hệ lại với khách hàng và thường xuyên cập nhật trạng
thái xử lý yêu cầu thông qua hệ thống thư tự động của BIDV Online
BIDV Online là Dịch vụ Ngân hàng trực tuyến của BIDV giúp khách
hàng cá nhân quản lý tài khoản và thực hiện các giao dịch với BIDV thông
qua Internet mà không cần phải tới Quầy giao dịch.
Tiện ích vượt trội:
- Giao dịch mọi lúc mọi nơi qua Internet mà không cần tới Ngân hàng;
gửi

tiền


tiết

kiệm

Online

nhanh

gọn,

tiết

kiệm

thời

gian.

- Nền tảng công nghệ hiện đại, các kênh thanh toán đa dạng giúp khách hàng
chuyển tiền đến mọi Ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam với tốc độ nhanh, hiệu
quả và an toàn.
- Giao diện thân thiện, dễ sử dụng.
- Hệ thống xác thực 2 yếu tố giúp khách hàng hoàn toàn yên tâm về tính
bảo mật khi giao dịch.
- Dịch vụ thanh toán hóa đơn liên kết với nhiều nhà cung cấp dịch vụ uy
tín, hàng đầu.
- Mức phí giao dịch cạnh tranh, nhiều ưu đãi so với giao dịch tại quầy.
- Hỗ trợ khách hàng quản lý tài khoản cá nhân đơn giản và hiệu quả.
Đặc điểm sản phẩm:

- Đối tượng sử dụng: Khách hàng là cá nhân người Việt Nam hoặc người
nước ngoài có tài
khoản tiền gửi thanh toán bằng VND tại BIDV.
- Các tính năng cao cấp
+ Chuyển khoản trong và ngoài hệ thống BIDV.
+ Gửi tiền có kỳ hạn Online.


+ Đặt lệnh thanh toán định kỳ và lệnh chuyển tiền ngày tương lai.
+ Thanh toán hóa đơn bảo hiểm (BIC, AIA), thanh toán vé máy bay (Air
Mekong, Jetstar), và nạp tiền điện thoại, ví điện tử Vn Mart, tài khoản
Vietpay…
+ Truy vấn thông tin và chi tiết giao dịch của các tài khoản.
+ Vấn tin và thanh toán dư nợ thẻ tín dụng (*)
+ Gửi các yêu cầu dịch vụ tới BIDV như yêu cầu đăng ký vay Online,
yêu cầu giải ngân khoản vay, yêu cầu trả nợ trước hạn khoản vay, yêu cầu
phát hành sổ séc, phát hành sao kê, phát hành thẻ tín dụng, thẻ ATM …và lựa
chọn Chi nhánh thực hiện yêu cầu.
- Gói dịch vụ toàn diện:
Khách hàng có thể đăng ký 1 trong 2 gói dịch vụ sau:
+ Gói Dịch vụ Phi tài chính: Khách hàng có thể truy vấn thông tin các

tài

khoản, vấn tin sổ séc, tỷ giá, và lãi suất
+ Gói Dịch vụ Tài chính: Khách hàng có thể truy vấn thông tin và
thực hiện các giao dịch tài chính như thanh toán, chuyển tiền, gửi tiền có kỳ
hạn Online, hay gửi các yêu cầu dịch vụ tới BIDV.
(*) Các tính năng này sẽ được cung cấp trong thời gian tới.
3. BIDV Mobile

Với BIDV Mobile, chiếc điện thoại di động thân thiết của khách hàng sẽ
càng trở lên hữu ích hơn khi có thể kết nối với ngân hàng và thực hiện giao
dịch. BIDV Mobile là một trong số ít những dịch vụ tương thích với tất cả các
mạng tại Việt Nam, cài đặt dễ dàng trên các dòng điện thoại hỗ trợ Java và các
hệ điều hành thông dụng hiện nay như iOS, Symbian, Window Mobile,
RIM…Khách hàng có thể sử dụng đồng thời 2 kênh kết nối là SMS và GPRS
để đảm bảo giao dịch liên tục, ổn định.
Các giao dịch tài chính trên BIDV Mobile bao gồm chuyển khoản trong
hệ thống BIDV, thanh toán hóa đơn với nhiều nhà cung cấp dịch vụ hàng
không (Air Mekong, Jetstar), bảo hiểm, nạp tiền điện thoại (Vn Top-up), nạp


ví điện tử (Vn Mart)…Bên cạnh đó, dịch vụ này còn cung cấp rất nhiều thông
tin cần thiết cho khách hàng như thông tin các tài khoản, Chi nhánh Ngân
hàng, địa chỉ máy ATM, máy POS, thông tin lãi suất, sổ séc hay thông tin về
Chi nhánh làm việc ngoài giờ…Dù khách hàng ở đâu, vào thời điểm nào, với
những tính năng này, việc quản lý tài khoản và thực hiện giao dịch sẽ thật dễ
dàng và tiện lợi.
BIDV Mobile là dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động, cho phép bạn
thực hiện các giao dịch ngân hàng (vấn tin, chuyển khoản, thanh toán hóa
đơn) một cách an toàn, chính xác, nhanh gọn ngay trên điện thoại di động của
mình mà không mất thời gian đến quầy giao dịch.
Tiện ích vượt trội:
- Cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ giúp đáp ứng các nhu cầu đa dạng
của khách hàng mọi lúc mọi nơi 24/7.
- Giao dịch an toàn, bảo mật tuyệt đối thông qua yếu tố bảo mật thứ 2
(mật khẩu dùng xác thực 1 lần).
- Hạn mức giao dịch cao, phí giao dịch cạnh tranh so với giao dịch tại
quầy.
- Cài đặt dễ dàng trên các dòng điện thoại hỗ trợ Java và các hệ điều hành

thông

dụng

hiện

nay:

iOS,

Symbian,

Window

Mobile,

RIM…

- Sử dụng đồng thời hai kênh kết nối SMS và GPRS giúp đảm bảo giao dịch
liên tục, ổn định.
- Tương thích với tất cả các mạng viễn thông tại Việt Nam.
- Giao diện thân thiện, dễ sử dụng.
- Kênh đăng ký dịch vụ đa dạng.
+ Tại quầy giao dịch
+ Tại Internet (qua dịch vụ BIDV Online)
+ Tại máy ATM (**)
Tính năng cao cấp


- Ứng dụng BIDV Mobile: Là phần mềm được cài đặt trên điện thoại cho

phép khách hàng thực hiện các giao dịch:
+ Chuyển tiền trong hệ thống BIDV
+ Chuyển tiền ngoài hệ thống BIDV (**)
+ Thanh toán hóa đơn với nhiều hình thức đa dạng: thanh toán vé máy
bay, mua bảo hiểm, nạp tiền trả trước…
+ Vấn tin các tài khoản của khách hàng: tài khoản thanh toán, tài khoản
tiết kiệm, tài khoản tiền vay, tài khoản thấu chi.
+ Vấn tin thông tin thẻ tín dụng (**)
+ Tra cứu đa dạng các thông tin liên quan đến ngân hàng như: địa chỉ
chi nhánh và ATM, POS, tỷ giá, lãi suất, các địa chỉ làm việc ngoài giờ và
nhiều thông tin hữu ích khác.
- Dịch vụ SMS Banking: Là dịch vụ gửi – nhận tin nhắn qua điện thoại
di động, cho phép khách hàng:
+ Vấn tin tài khoản thanh toán, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền vay,
tài khoản thấu chi, thẻ tín dụng (**)
+ Vấn tin tỷ giá
+ Vấn tin địa chỉ ATM
2.3 BIDV Business Online
.Đối với khách hàng doanh nghiệp, BIDV Business Online có những đặc
thù riêng phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp và đảm bảo việc kiểm soát
sự luân chuyển của dòng tiền trong tài khoản. BIDV Business Online cung
cấp cho khách hàng các dịch vụ tiện ích và các tính năng đầu tư, tính năng
chuyển tiền như: chuyển tiền trong nước (trong và ngoài hệ thống BIDV),
thanh toán hóa đơn, thanh toán theo bảng kê, gửi tiền có kỳ hạn online, truy
vấn thông tin tài khoản và thông tin ngân hàng. Các giao dịch chuyển khoản
được thực hiện một cách an toàn thông qua hai bước là khởi tạo và phê duyệt
giao dịch. BIDV cũng sẽ thiết lập hạn mức, chế độ phân cấp ủy quyền phê
duyệt giao dịch dựa theo quy mô, mô hình tổ chức và nhu cầu thực tế của



×