Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

LUẬN VĂN: Tỷ giá hối đoái và việc áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.44 KB, 53 trang )












LUẬN VĂN:
Tỷ giá hối đoái và việc áp dụng chế
độ tỷ giá ở Việt Nam








lời nói đầu

Xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra một cách sâu sắc, toàn diện
trên phạm vi toàn thế giới. Nó là quy luật khách quan mà Việt Nam cần sớm nắm bắt và
vận dụng. Việc tham gia vào nền kinh tế khu vực và thế giơi sẽ mở ra cho chúng ta
nhiều cơ hội đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đòi hỏi phải có những
chính sách phù hợp. Một hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập kinh
tế là ngoại thương. Nhân tố quyết định tới sự thành công hay thất bại của chính sách
kinh tế đối ngoại phải kể đến vai trò quan trọng của chế độ tỷ giá hối đoái của mỗi quốc


gia. Chúng ta chưa quên sự can thiệp bất thành của 15 ngân hàng Trung ương trước sự
sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Châu Âu những năm 90; sự phá giá bất ngờ của
đồng bảng Anh tháng 9/1992 trước sự tấn công của những kẻ đầu cơ, mặc dù đã có sự
can thiệp tích cực cuả Ngân hàng Trung ương Đức và Anh với khối lượng 15 tỷ bảng
Anh; hay hai sự kiện làm rung chuyển thế giới chỉ trong một thời gian ngắn. Đó là: Sự
khủng hoảng của đồng Pê-sô (Mêhicô) tháng 12/1994 và sự mất giá kỷ lục trong năm
1995, rồi lại sự lên giá đột biến của USD năm 1996.
Là một nước đang đi những bước đầu tiên tham gia vào quá trình hội nhập quốc
tế cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, hơn bao giờ hết việc nghiên cứu tỷ giá hối
đoái đang trở thành vấn đề cấp bách đặt ra cho chúng ta. Xuất phát từ thực tế khách
quan đó, trong bài viết này, em xin đề cập tới vấn đề: "Tỷ giá hối đoái và việc áp dụng
chế độ tỷ giá ở Việt Nam."
Cấu trúc bài viết gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về tỷ giá hối đoái.
Chương II: Thực trạng tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong


những năm gần đây.

Chương III: Một số giải pháp góp phần bổ xung, hoàn thiện
chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.

chương I:
Tổng quan về tỷ giá hối đoái.

I. Khái niệm tỷ giá:

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, vai trò của thương mại quốc tế
ngày càng được nâng cao, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà phân công lao động
quốc tế đã đạt đến giai đoạn cao và mang tính toàn cầu, thương mại quốc tế trở thành

vấn đề mang tính chất sống còn đối với mỗi quốc gia và là mối quan tâm hàng đầu của
mọi tổ chức kinh tế trên thế giới. Các quan hệ thương mại , tín dụng , đầu tư, khoa học
kỹ thuật đều có giá cả , biểu hiện bằng những đồng tiền khác nhau của những nước
khác nhau. Do hệ thống tiền tệ và chính sách giá cả mỗi nước một khác, nên việc thanh
toán giữa các nước đòi hỏi phải so sánh giá trị , sức mua của các đồng tiền khác nhau,
và thanh toán với nhau không theo giá cả của từng nước mà theo giá cả quốc tế( còn gọi
là giá ngoại thương). Từ đó xuất hiện khái niệm tỷ giá hối đoái.
Như vậy : Tỷ giá hối đoái theo cách hiểu thông thường là sự so sánh giá trị giữa
đơn vị tiền tệ khác nhau của các nước có quan hệ với nhau.Hay nói cách khác : Tỷ giá
hối đoái là giá chuyển đổi từ một đơn vị tiền tệ nước này sang thành những đơn vị tiền
tệ nước khác.
Ví dụ, trên thị trường hối đoái Việt Nam ngày30/06/2000 là 14087 VND/USD
thì đó là tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ.


Trên phương diện kinh tế, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế vốn có cuả nền
sản xuất hàng hoá, nó cho thấy sức mua đối ngoại thực tế của một đồng tiền trên thị
trường quốc tế.
Tuy nhiên, không phải đồng tiền quốc gia nào cũng được nhận để thanh toán
bên ngoài quê hương của nó. Để chuyển đổi ra nội tệ của nước nào đó, nó phải được
ngân hàng nước đó thu mua. Trên thế giới hiện nay có một số ngoại tệ mạnh được sử
dụng rộng rãi, phổ biến như: USD(Mỹ), JPY(Nhật), Bảng (Anh)

II.Lịch sử hình thành và phát triển của tỷ giá hối đoái.

1. Thời kỳ lưu thông tiền vàng và tiền đúc :
Từ trước công nguyên, sau cuộc phân công lao động xã hội lần thứ 2, vàng và
bạc đúc thành thỏi đã trở thành đồng tiền ngự trị các loại tiền khác như : ốc , vỏ sò , da
thú và dần chiếm vị trí độc tôn trên thị trường hàng hoá tiền tệ.Tuy nhiên do việc dùng
vàng thỏi tính theo trọng lượng đã gây rất nhiều khó khăn cho trao đổi , nên tiền đúc đã

ra đời . Bắt đầu từ cuộc phân công lao động lần thứ 3 , trong lưu thông đã xuất hiện loại
tiền đúc của các lái buôn giàu có ( khắc tên người phát hành vàng và trọng lượng vàng )
về sau do thương nghiệp mở rộng thì tiền đúc không còn do các thương nhân, nhà thờ
đúc mà do nhà nước . Mỗi nước tuỳ theo phong tục của mình đã đưa ra những đồng tiền
riêng mang dấu ấn quốc gia và khác với đòng tiền các quốc gia khác về trọng lượng và
đơn vị đồng tiền , với đơn vị tiền vàng khác nhau, dẫn đến xu hướng người dân nước
nào sử dụng đồng tiền nước đó. Trong quan hệ ngoại giao, việc xác định tỷ giá trao đổi
hoàn toàn giản đơn, chỉ việc so sánh trọng lượng kim loại thực tế của hai đồng tiền với
nhau.
2. Chế độ bản vị vàng và vàng - hối đoái :


Trong chế độ này, việc xác định tỷ giá giữa các đồng tiền vẫn là việc so sánh
trọng lượng vàng mà mỗi đơn vị tiền giấy làm đại biểu , hay có thể nói là việc so sánh
hàm lượng vàng chứa đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ của mỗi nước.
Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này giao động xung quanh điểm vàng. Điểm vàng
là ngang giá vàng của các đồng tiền cộng ( hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng( phí vận
tải , phí bảo hiểm, phí đóng góp và thủ tục phí) giữa các nước hữu quan. Khi tỷ giá vượt
điểm vàng thì nước mắc nợ sẽ không dùng tiền quốc gia mình để mua ngoại tệ dùng vào
việc trả nợ, mà họ sẽ chuyển vàng ra nước ngoài để trả nợ.
Với đặc trưng này chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định , sức mua của đồng
tiền rất ít khi bị biến động. Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa , chế
độ này đã tỏ ra có nhiều ưu điểm. Nó có khả năng điều tiết khối lượng tiền trong lưu
thông một cách tự phát không cần đến sự can thiệp của nhà nước theo cơ chế: sự tăng
giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông luôn tỷ lệ nghịch với sự tăng giảm dự trữ vàng
trong nền kinh tế. Do đó , việc lựa chọn phương hướng xử lý tỷ giá rất ít khi phải đặt ra.
Tuy có nhiều ưu điểm làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng trong
giai đoạn đầu, nhưng chế độ bản vị vàng không tồn tại được lâu. Nguyên nhân chính là
do trong nền kinh tế thế giới có sự phát triển không đồng đều giữa các nước, dẫn đến
một hiện tượng tất yếu là những nước giàu tích trữ được nhiều vàng, còn những nước

nghèo thì tiền dấu hiệu tràn lan và họ cũng không có khả năng đúc vàng vì lượng vàng
dự trữ đã cạn kiệt. Để đối phó với tình hình này, chính phủ ở các nước nghèo đã ngăn
cấm việc xuất khẩu vàng tự do.Như vậy, trong quan hệ giữa các nước chế độ bảo vệ
mậu dịch tự do đã thay thế cho chế độ mậu dịch tự do,vàng không còn được lưu thông
giữa các nước- chế độ bản vị vàng bắt đầu tan giã vào đầu chiến tranh thế giới thứ nhất.
Đến năm 1924, nước Anh chuyển chế độ bản vị vàng sang chế độ giấy bạc ngân
hàng được chuyển đổi ra vàng không đầy đủ: Không lưu hành tiền đúc bằng vàng, tiền
giấy chỉ được đổi lấy vàng thoi( chế độ bản vị vàng thoi- mỗi thoi nặng 12,444kg vàng
). Khi đó bảng Anh (GBP) là loại ngoại tệ mạnh chủ chốt trong thanh toán quốc tế, dự
trữ quốc tế. Tiền giấy của các nước tuy không đổi được lấy vàng nhưng có thể đổi lấy


bảng Anh. Chế độ tiền tệ thông qua ngoại tệ mạnh đổi lấy vàng gọi là chế độ bản vị
vàng hối đoái ( ở đây là chế độ bản vị bảng Anh). Trong chế độ này bảng Anh được tự
do chuyển đổi ra vàng:
1700 GBP = 400 ounce = 12,444 kg vàng.
Khi bảng Anh sụp đổ thì cuộc săn vàng lại di chuyển ồ ạt sang Mỹ. USD là loại
ngoại tệ mạnh thứ hai trên thế giới lúc bấy giờ. Chính phủ Mỹ vì không muốn dự trữ
vàng cạn kiệt nên đầu năm 1934 phải tuyên bố đình chỉ đổi USD ra vàng ở trong nước.
Như vậy, từ năm 1934, tạm thời không còn đồng tiền nào có thể đổi ra vàng
được nữa. Một lần nữa tiền vàng lại rút khỏi lưu thông và thay thế bằng tiền dấu hiệu.
3. Chế độ tỷ giá cố định - chế độ bản vị USD:
Đến năm 1944, tại hội nghị Bretton Woods, quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) ra đời, với
điều lệ đầu tiên là xây dựng tỷ giá cố định cho mỗi đồng tiền. Theo chế độ này, các
nước phải quy định hàm lượng vàng riêng cho đồng tiền của mình và so sánh với hàm
lượng vàng của USD (1 USD = 0,88867 gr vàng nguyên chất ) để có một tỷ giá chính
thức. Biên độ giao động của tỷ giá không được vượt quá 1% của tỷ giá chính thức đã
được đăng ký tại IMF. Nếu vượt quá biên độ này thì ngân hàng TW phải can thiệp bằng
cách mua vào hoặc bán ra một lượng USD nhất định nhằm bảo vệ tỷ giá chính thức với
USD. Thông qua tiền tệ sẽ được đổi ra vàng theo giá: 35 USD = 1 ounce vàng. Như vậy

về nguyên tắc vàng vẫn đóng vai trò trung tâm để so sánh sức mua của các đồng tiền với
nhau thông qua USD.
VD: Nội dung vàng của GBP là 2,488281 gr vàng nguyên chất. Như vậy đồng
giá vàng của GBP sẽ là : 1 GBP = 2,488281/0,888671=2,8 USD. Như vậy tỷ giá chính
thức của 1GBP sẽ là 2,8 USD nếu như không có những yếu tố trên thị trường tác động.
Sở dĩ chế độ này có thể tồn tại trong suốt thời gian dài là do lúc đó Mỹ có lượng
dự trữ vàng lớn nhất thế giới 24,7 tỷ USD khoảng 20000 tấn vàng, chiếm 70% dự trữ
vàng của thế giới tư bản- USD trở thành phương tiện thanh toán và dự trữ quốc tế.


Vào những năm 70, tình trạng khủng hoảng USD diễn ra thường xuyên, Mỹ đã
phát hành trên 166 tỷ USD tiền giấy, điều này có nghĩa là ngân hàng TW của các nước
luôn phải mua USD để bảo vệ tỷ giá.Lượng USD này lại được đổi ở cục dự trữ liên
bang Mỹ làm cho kho vàng của Mỹ giảm đi nhanh chóng . Để đối phó với tình ttạng
này, ngày 15-08-1971 Mỹ đã phải tuyên bố ngừng chuyển đổi USD ra vàng theo tỷ giá
chính thức. Sau đó ngày 18-12-1971 thì tuyên bố phá giá USD ở mức 7,89%. Tới ngày
12-02-1973Mỹ lại phá giáUSD tiếp 10%. Qua 2 lần phá giá liên tiếp, chế độ bản vị
USD sụp đổ hoàn toàn.
Sau khi chế độ USD sụp đổ thì toàn bộ cơ chế thanh toán quốc tế tư bản chủ
nghĩa bị hỗn loạn, USD bị dình chỉ đổi ra vàng. Do đó trong thanh toán quốc tế giữa các
nước, người ta đòi hỏi ngày càng nhiều điều kiện đảm bảo bằng vàng. Mặc dù Mỹ đã
tìm mọi cách để loại vàng ra khỏi thanh toán quốc tế,nhưng một số nước (như Pháp) lại
có xu hướng dùng vàng làm cơ sở cho thanh toán quốc tế Cuộc đấu tranh giữa các nước
thông qua vấn đề vai trò của vàng ngày càng mạnh. Tuy nhiên, không có dấu hiệu gì
chứng tỏ hệ thống tiền tệ có thể phục hồi được chế độ bản vị vàng và vàng -hối đoái.
Các nước tư bản đã có kinh nghiệm không thể sử dụng đồng ngoại tệ mạnh đóng vai trò
tiền tệ quốc tế được, bởi vì nhất định nước có đồng ngoại tệ mạnh đó sẽ lạm dụng, làm
thiệt hại đến lợi ích của các nước khác

4. Chế độ bản vị SDR (Special Drawing Right).


Từ năm 1970, các nước tư bản hội viên của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã thành
lập một cơ chế tiền tệ – tín dụng mới để điều tiết cán cân thanh toán quốc tế mà không
cần đến dự trữ vàng hoặc ngoại hối.
SDR không phải là tiền, nên không có nội dung vật chất, hình dáng, mầu sắc cụ
thể, mà nó chỉ là một đơn vị thanh toán ghi sổ (chuyển khoản) trên danh nghĩa có nội
dung vàng là 0.888671 gr vàng nguyên chất (bằng 1 USD trước đây). IMF mở sổ riêng
cho từng nước để theo dõi việc phân phối SDR. Chỉ có những nước bị thiếu hụt trong


cán cân thanh toán giữa các nước hội viên của IMF mới được vay để trả nợ. Có thể nói
đây là tiền ghi sổ của IMF.
Các nước tư bản, thông qua quỹ tiền tệ quốc tế, trong nhiều năm đã cố gắng thực
hiện cuộc cải cách tiền tệ quốc tế trên tinh thần học thuyết phi tiền tệ hoá vàng, tức loại
bỏ chức năng làm tiền tệ quốc tế của vàng, xây dựng cho được một đồng tiền làm bản vị
cho các quốc gia trên thế giới, thay thế cho USD làm chức năng thước đo giá trị,
phương tiện chi trả và dự trữ quốc tế, xoá bỏ chế độ công bố nội dung vàng của các
đòng tiền quốc gia. SDR là loại vàng giấy thay cho kim loại vàng do IMF phát hành .
Các nước phương tây muốn nâng vai trò của vàng lên nhằm mục đích loại bỏ
USD ra khỏi vị trí một đồng tiền chủ đạo thao túng các đồng tiền khác trong hệ thống
tiền tệ. Như vậy, trong cuộc tranh chấp trên, nhiễm nhiên SDR được cả Mỹ và Tây Âu
đưa lên làm phương tiện thanh toán và dự trữ quốc gia, làm thước đo già trị của các
đồng tiền khác. Chế độ tiền tệ mới ra đời – chế độ bản vị SDR. Nội dung SDR ngày nay
đã được thay đổi, không còn nội dung vàng nữa, mà được tính bằng 16 đồng tiền mạnh
nhất thế giới. Hiện nay là 5 đồng tiền mạnh của 5 quốc gia có tiềm lực về kinh tế tài
chính.
Kể từ khi thực hiên chế độ này, hàm lượng vàng chứa đựng trong mỗi đồng tiền
đã mất dần đi ý nghĩa kinh tế của nó. Việc xác định tỷ giá không dựa vào ngang giá
vàng như trước đây mà hoàn toàn thả nổi theo quan hệ cung cầu về ngoại hối trên thị
trường. Qua đó việc xác định tỷ giá được hợp lí hơn, chính xác hơn. Thông qua việc xác

định tỷ giá chéo người ta cũng có được tỉ giá hối đoái của các đồng tiền các nước với
nhau.
III. Chức năng của tỷ giá hối đoái.

Mối quan hệ giữa người sản xuất hàng hoá trong nước với thị trường thế giới
đựoc thực hiện thông qua tỷ giá hối đoái – một phạm trù kinh tế vốn có của nền sản xuất
hàng hoá. Do đó tỷ giá hối đoái có những chức năng sau:


III.1. Chức năng so sánh sức mua
Phạm trù tỷ giá hối đoái thể hiện trong mối tương quan sức mua của hai đồng
tiền so sánh. Như ta đã biết: khi tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị, nó đã biến
giá trị của hàng hoá, dịch vụ thành hình thức giá cả. Điều đó chứng tỏ giá cả hàng hoá
chính là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Chính vì vậy mà mọi sức tăng giảm
của giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường cho thấy sức mua của tiền tệ giảm đi hay
tăng lên. Nếu như trong đồng ngoại tệ có sức mua cố định trong khi sức mua của đồng
nội tệ tăng hay giảm thì tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ với đồng khác cũng tăng hoặc
giảm. Giá cả của hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nội địa và thị trường thế giới có thể
so sánh với nhau thông qua tỷ giá hối đoái. Nhờ đó mà các quốc gia có thể tính toán
được mức chênh lệch về năng suất lao động ở trong nước với thế giới như thế nào, tính
toán được hiệu quả của các hoạt động kinh tế đối ngoại. Qua chức năng so sánh sức
mua của các đồng tiền, tỷ giá hối đoái trở thành một công cụ quan trọng trong việc
hoạch định các chiến lược phát trển, các hoạt động ngoại thương, các chính sách kinh tế
đối ngoại, các dịch vụ đối ngoại và các hoạt động kinh tế khác ở trong và ngoài nước.

III.2. Chức năng điều chỉnh xuất nhập khẩu và thu chi quốc tế .

Đây là một chức năng quan trọng nhất của tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là một
phạm trù kinh tế – tài chính, đựơc sử dụng như một công cụ để so sánh về giá trị các chi
phí sản xuất của một doanh nghiệp với các giá cả trên thị trường thế giới, nó phản ánh

kết quả các hoạt động kinh tế đối ngoại của các nước trọng một thời kì nhất định. Vì
thế, thông qua việc biểu hiện tương quan giá trị các đồng tiền của các nước với nhau mà
tỷ giá hối đoái có một vai trò quan trọng đối với quá trình trao đổi ngang giá và cùng
với nhiều nhân tố khác, tỷ giá hối đoái tác động tương quan giữa giá cả hàng hoá xuất
nhập khẩu cũng như khả năng cạnh tranh của hàng hoá các nước.
Trong trường hợp đồng bản tệ xuống giá- Tỷ giá của đồng bản tệ tăng so với
đồng ngoại tệ. Giả dụ đầu năm 1USD = 11.000 VNĐ cuối năm 1USD = 13.000 VNĐ,


tức là một đơn vị ngoại tệ đổi được nhiều đơn vị bản tệ hơn trước. Để thu được một
lượng ngoại tệ như đầu năm, vào cuối năm nhà xuất khẩu đầu tư nước ngoài khi bán
hàng vào Việt nam buộc phải tăng giá (Tính theo VNĐ). Bởi nếu nhà sản xuất xuất
khẩu không tăng giá thì họ sẽ bị thiệt thậm chí lỗ.
Trong khi đó, việc đồng bản tệ xuống giá lại có xu hướng kích thích tăng cường
khối lượng đẩu tư xuất khẩu. Bởi vì : cũng là một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu
có thể đổi được nhiều bản tệ hơn. Do vậy, nhà xuất khẩu khi thấy tỉ giá của đồng bản tệ
tăng so với đồng ngoại tệ có thể bán hàng ra nước ngoài với gía rẻ hơn vẫn thu được
một khoảng lợi nhuận như trước. (Tính theo đồng bản tệ)
Tình hình sẽ hoàn toàn ngược lại khi đồng bản tệ lên giá-Tỷ giá của đồng bản tệ
giảm so với đồng ngoại tệ.
Như vậy, tỷ giá hối đoái có thể điều các hoạt động xuất nhập khẩu về tỷ trọng,
khối lượng và cơ cấu mặt hàng……
Ngoài khả năng điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái còn tác động
trực tiếp đến các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
Trong quan hệ vay nợ quốc tế, khi đồng bản tệ của nước đi vay mất giá, các
khoản nợ thực tế của của đồng bản tệ giảm xuống, nhưng gáng nặng nợ nước ngoài tăng
lên. Chính vì vậy chúng ta vay nợ nước ngoài với tỷ giá 900đ/1USD mà hiên nay là
15.000đ/1USD .
Ngoài ra tỷ giá hối đoái còn ảnh hưởng đến dòng vốn tiền tệ từ những hoạt động
mang tính chất phi mậu dich như : Du lịch, kiều hối …

Tỷ giá hối đoái còn có chức năng điều tiết mặt bằng giá cả trong nước. Khi giá trị
của đồng bản tệ giảm sẽ hạn chế nhập khẩu, song với nhưng mặt hàng thiết yếu phục vụ
cuộc sống và yếu cầu phát triển kinh tế thì khi giá cao vẫn phải nhập về, vì thế giá cả
của mặt hàng này tất nhiên sẽ tăng do đó ảnh hưởng tới mặt bằng giá cả nói chung.

III.3. Chức năng phân phối.



Tỷ giá hối đoái thể hiện chức năng phân phối của mình thông qua sự thay đổi thu
nhập của các ngành kinh tế đối ngoại nói riêng và các ngành kinh tế quốc dân nói
chung. Nhờ có chức năng này, Nhà nước đã sử dụng tỷ giá hối đoái như một công cụ
quan trọng điều tiết phân phối lại thu nhập giữa các nước có quan hệ với nhau. Một số
nước có quan hệ với nhau. Một số nước đã xử dụng tỷ giá hối đoái như một công cụ lợi
hại trong cuộc chiến tranh thương mại, giành giật thị trường.
Ví dụ: trong những năm 1994-1996, Mỹ đã kéo dài thời gian không can thiệp vào
việc giảm giá USD so voi yên Nhật (JPY). Điều này đã gây khó khăn cho Nhật Bản
xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ, đặc biệt là mặt hàng xe hơi. Đây là đòn kinh tế
nặng nề của Mỹ dành cho Nhật Bản. Nó làm giảm thu nhập lớn tới ngành sản xuất xe
hơi ở Nhật Bản.

IV. Chế độ tỷ giá cố định và thả nổi, nhưng ưu điểm và hạn chế.

Đối với mỗi quốc gia và ngay trên phạm vi quốc tế thì việc lựa chọn, áp dụng chế
độ tuỷ giá nào là hết sực quan trọng. Bởi vì các chế độ tỷ giá khác nhau sẽ có ảnh hưởng
khác sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến cân bằng kinh tế đối ngoại (cán cân thanh toán
quốc tế), xuất nhập khẩu, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp
…Cho đến nay, chúng ta đã biết đến 3 chế độ tỷ giá cơ bản, đó là : Chế độ bản vị vàng,
chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi.
Trong đó, chế độ tỷ giá thả nổi lại được chia thành : Thả nổi tự do và thả nổi co

quản lý.
Việc áp dụng chế độ tỷ giá nào của mỗi quốc gia phụ thuộc vào :
 Trình độ phát triển kinh tế.
 Tính chất tham gia hợp tác quốc tế.
 Mức độ mở cửa kinh tế.


 Tốc độ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp.
Trong thực tế, dù áp dụng chế độ tỷ giá nào, đều có những điểm tích cực và hạn
chế của chúng. Điều nay đẫ được Samuelson mô tả như sau “Chế độ tỷ giá cố định cung
cấp cho ta một cái neo, nhưng con tàu bỏ neo nhiều khi lại nguy hiểm hơn con tàu đang
đi và nếu để các đồng tiền theo giá cả thị trường tự do thì chúng ta lang thang, quanh
quẩn như vị thuỷ thủ say khướt”.

IV.1. Chế độ tỷ giá cố định.

Một điều không thể không thừa nhận rằng trong lịch sử tài chính quốc tế, chế độ
tỷ giá cố định đã từng đóng một vai trò quan trọng. Có thể nói, sau chiến tranh thế giới
thứ II, Châu Âu bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế bị kiệt quệ và đình đốn. Trong thời gian
chưa đầy một thập kỷ, các nước Châu Âu đã hồi phục được nền kinh tế của mình và
đang trên đà phát triển với tốc độ kinh tế ngày càng cao. Một trong những nhân tố quan
trọng giúp các nước này và thế giới tư bản nói chung phục hồi và thịnh vượng là nhờ
vào việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định trên phạm vi quốc tế trong một thời gian dài, mà
những nguyên tắc của nó được thể hiên trong hiệp ước Bretton Woods.
Những ưu điểm của tỷ giá cố định là :
Tỷ giá giữa các đồng tiền được ấn định cố định , không thay đổi cho nên đã
khuyến khích được thương mại quốc tế phát triển, phát huy được lợi thế so sánh của
mỗi quốc gia trong ngoại thương, thúc đẩy quá tình phân công lao động quốc tế tăng
năng suất lao động, giảm thất nghiệp và ổn định giá cả .
Tỷ giá cố định đã khuyến khích được sự chung chuyển tư bản giữa các quốc

gia.Vốn tư bản được chuyển đến nhiều nghành nhiều quốc gia mà ở đó ầu tư có hiệu
quả cao. Nhu vậy, xét trong phạp vi quốc tế thì tổng đầu tư sẽ nhiều hơn ,góp phần tăng
cường tiềm lực kinh tế trong mỗi quốc gia.
Những hạn chế :


Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá được hình thành không do ảnh hưởng của
quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối mà bằng sự ấn định chủ quan mang
tính chất áp đặt của chính phủ. Vì tỷ giá là một công cụ tài chính hết sức nhậy cảm và
quan trọng, chịu tác động bởi nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô, như:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát lãi suất…Cho nên sự biến động
thường xuyên của nó với mức độ khác nhau là điều khó tránh khỏi. Do đó, việc tỷ giá
công bố (cố định) tách rời khỏi giá trị thực của đồng tiền là tất yếu.
Nhìn chung, khi một đồng tiền được định giá thấp thì chính phủ đễ duy trì nó hơn
la khi nó được định giá cao. Những quố gia có đồng tiền định giá cao phải bán nguồn dự
trữ ngoại tệ của mình trên thị trường hối đoái, nhưng điều này là có giới hạn vì nó còn
phụ thuộc vào nguồn dự trữ ngoại tệ của chính phủ. Ngược lại, những quốc gia có đồng
tiền định giá thấp, chỉ cần bán đồng tiên của mình trên thị trường hối đoái là dự trư
ngoại tệ sẽ tăng lên. Về khả năng thực hiên biện phấp này đối với chính phủ là không
hạn chế, song điều này sẽ gây lạm phát trong nước. Chính hạn chế này đã khiến hệ
thống Bretton Woods sụp đổ là một tất yếu.

IV.2. Chế độ tỷ giá thả nổi.

Sau khi hên thống Bretton Woods sụp đổ hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
thả nổi tỷ giá. Tuy nhiên, thả nổi tỷ giá cũng được chia làm hai loại: Thả nổi tự do và
thả nổi có quản lý.
Chế độ thả nổi tự do là chế độ mà tỷ giá hối đoái không có sự can thiệp nào của
chính phủ, hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Chế độ tỷ giá này
chỉ áp dụng ở các nước có nền kinh tế phát triển cao.

Chế độ thả nổi có quản lý là chế độ mà về nguyên tắc, việc hình thành tỷ giá hối
đoái cũng do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định, nhưng không phải hoàn toàn.


Trong những trường hợp cần thiết chính phủ sẽ có những biên pháp can thiệp để dữ
vững sức mua của đồng tiền trong nước.
Chế độ tỷ giá thả nổi đã được sử dụng hơn 20 năm nay cho ta thấy những ưu
điểm và hạn chế sau:
Ưu điểm:
Chế độ tỷ giá này được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối, các quan hệ này thường xuyên biến động theo nhiều nhân tố kinh tế.
Do đó tỷ giá luôn luôn linh họat.
Hạn chế:
Tính không ổn định là dặc trưng cơ bản của chế độ tỷ giá thả nổi. Mặc dù có một
số quan điểm ủng hộ cho chế độ tỷ giá này và cho rằng biến động của tỷ giá chỉ ở trong
một giới hạn nhất định, phản ánh mức độ khác nhau trong lạm phát giữa các quỗc gia và
coi đó như là một công cụ bù trừ trong điều chỉnh những thay đổi thực tế của các yếu tố
kinh tế. Trong thực tế, tính không ổn định của chế độ thả nổi tỷ giá thể hiên ở chỗ : tỷ
giá biến động một cách thường xuyên, không thể dự đoán được chiều hướng tăng hay
giảm của nó trong thời gian tới. Không ổn định về tỷ giá sẽ dẫn tới không ổn định về thị
trường ngoại tệ và thị trường hàng hoá.
Chế độ thả nổi là một trong những nguyên nhân làm tăng tốc độ lạm phát. Thực
tế đã chứng minh được rằng việc áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi đã gây ra lạm phát ở hầu
hết các quỗc gia, với tốc độ ngày càng cao. Tỷ giá của một đồng tiền giảm xuống đã trở
thành nguyên nhân lạm phát trong nền kinh tế, do giá cả hàng hoá nhập khẩu tăng lên.
Vì vậy, chế độ tỷ giá thả nổi trong một số trường hợp không những không kiềm chế
được lạm phát mà còn làm cho lạm phát diễn ra ngày càng nhanh hơn.
Qua việc phân tích hoạt động của các chế độ tỷ giá và phân tích hạn chế của
chúng, chúng ta thấy rằng: Để ổn định (đối nội và đối ngoại) và phát triển kinh tế mỗi
quốc gia, thì ổn định tỷ giá hối đoái đóng vai trò quan trọng, ổn định không có nghĩa là

cố định tỷ giá mà là chủ động điều chỉnh (can thiệp) tỷ giá đi theo những chiều hướng


có lợi trong những điều kiện cụ thể theo những mục tiêu đề ra. Ngày nay, để đạt được
sự ổn định trong lĩnh vực tỷ giá thì ngoài những cố gắng, lỗ lự của mỗi quốc gia còn đặt
ra yêu cầu khách quan không thể phủ nhận, đó là hợp tác có hiệu quả giữa các quốc gia
trong lĩnh vực này.

V. Các nhân tố ảnh hưởng và một số biện pháp chủ yếu điều chỉnh tỷ giá hối đoái.

V.1 Các nhân tố ảnh hưởng.

Là một phạm trù kinh tế phức tạp, tỷ giá hối đoái của một đồng tiền ổn định hay
thường xuyên biến động là do có sự tác động của nhiều nhân tố. Sau đây là một số nhân
tố ảnh hưởng chủ yếu:
Tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế, tốc độ lạm phát có ảnh hưởng lớn đến tỷ giá hối
đoái. Sự trênh lệch về tốc độ lạm phát của một nước so với một số nước khác sẽ làm
cho tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước đó so với đồng tiền nước ngoài bị biến động.
Một nước có mức lạm phát cao hơn các nước khác thì sức mua của đồng tiền nước đó sẽ
thấp hơn các nước khác. Khi đó thì tỷ giá hối đoái của đồng tiền xẽ thấp hơn so với
đồng tiền các nước khác và ngược lại.
Tình hình về quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường hối đoái : tại một thời
điểm nào đó, nếu cung về ngoại tệ lớn hơn cầu về ngoại tệ thì tỷ giá ngoại tệ sẽ bị sụt
mạnh, tỷ giá tiền trong nước sẽ được nâng lên và ngược lại, tình trạng này giống như
quan hệ về cung cầu về hàng hoá trên thị trường.
Sự tác động của các giao dịch trên thị trường hối đoái và các hoạt động đầu cơ
ngoại tệ (chủ yếu trên thị trường tư nhân) làm cho tỷ giá biến động.
Sự tăng truởng hay suy thoái của nền kinh tế cũng là một nguyên nhân ảnh
hưởng đến tỷ giá hối đoái. Mức độ tăng, giảm GDP thực tế cũng sẽ làm tăng hay giảm



nhu cầu về ngoại tệ, từ đó làm cho tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ
tăng lên hay giảm đi.
Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước cũng ảnh hưởng rất lớn tới tỷ giá hối đoái.
Khi lãi suất thực tế trong nước tăng làm cho nhu cầu về nội tệ để đầu tư tăng do đó làm
tăng sức mua của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ, làm tăng tỷ giá của đồng nội tệ và
ngược lại. Lãi xuất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng làm cho lượng ngoại tệ vào nhiều làm dịu
nhu cầu về ngoại tệ làm cho tỷ giá đồng nội tệ tăng lên…
Ngoài ra sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể do tác động của các sự kiện kinh
tế xã hội, do ảnh hưởng của chiến tranh, thiên tai …

V.2 Một số biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái:
Ngày nay, dấu hiệu giá trị cũng như các phương tiện lưu thông hiện đại được sử
dụng rất phổ biến. Trong điều kiện ấy, vấn đề tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành tỷ giá
hối đoái ở cả tầm vi mô và vĩ mô đều thực sự trở thành vấn đề lớn trong chính sách tiền
tệ của bất cứ quốc gia nào. Việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể sử dụng 1 số biện pháp
sau:
Điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu: 1 trong số những biện pháp mà ngân hàng
Trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái là biện pháp điều chỉnh lãi suất tái
chiết khấu, nhằm thay đổi quan hệ cung cầu về ngoại tệ trong nước. Khi tỷ giá hối
đoái trong nước bị giảm thấp đi, nếu NHNN tăng lãi suất tái chiết khấu thì những nguồn
ngoại tệ sẽ chảy vào trong nước góp phần làm dịu bớt căng thẳng về ngoại tệ, do đó làm
cho tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước nâng dần lên và ngược lại.Tuy nhiên, chính
sách lãi suất tái chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa lãi suất và
tỷ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại một cách gián tiếp, chứ không phải quan hệ trực
tiếp nhân quả.Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến
động của lãi suất không nhất thiết phải kéo theo biến động của tỷ giá. Lãi suất cao có
thể thu hút vốn ngắn hạn từ nước ngoài, nhưng nếu tình hình kinh tế chính trị xã hội
không ổn định thì khó có thể thực hiện được vì vấn đề an toàn vốn phải đặt lên trên hết.



Khủng hoảng 1971-1973 ở Mỹ là một ví dụ. Mặc dù lãi suất trên thị trường New- York
cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 thị trường Frankfurk nhưng vốn ngắn hạn không
được chuyển vào Mỹ mà lại được đưa đến Tây Đức và Nhật Bản.
Can thiệp ngoại hối: Thông qua việc áp dụng biện pháp điều chỉnh này, NHNN
trực tiếp can thiệp vào thị trường hối đoái bằng các hoạt động mua bán vàng và ngoại tệ
nhằm điều chỉnh quan hệ cung cầu về hàng và ngoại tệ trên thị trường, từ đó tỷ giá hối
đoái của đồng tiền trong nước được điều chỉnh.Tuỳ điều kiện quốc gia mà việc tổ chức
thực hiện nghiệp vụ này có sự khác nhau về phạm vi, quy mô tác động. Với những nước
có nền kinh tế phát triển cao, các nghiệp vụ thị trường hối đoái được thực hiện trên quy
mô rộng lớn. đôi khi mở ra trên phạm vi cả một khu vực, thậm chí thế giới.Điều chỉnh
tỷ giá theo phương pháp này, Chính phủ thường gặp phải phản ứng ngược chiều nhau
của các doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư trong xã hội bắt nguồn từ lợi ích
kinh tế. Những mâu thuẫn này thường xảy ra giữa những nhà xuất khẩu và nhập khẩu,
giữa những người đang nắm trong tay lượng ngoại tệ lớn và những người trong túi chỉ
có nội tệ.
Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, Chính phủ cần có lượng dự trữ ngoại tệ
đủ lớn để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Điều đó có nghĩa là cần lập quỹ dự trữ
bình ổn hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ này là :
-Phát hành trái phiếu kho bạc bằng tiền nội tệ.
-Sử dụng vàng để lập quỹ bình ổn hối đoái.
Hạn chế của công cụ này là nó chỉ tác động lớn khi khủng hoảng tiền tệ ít
nghiêm trọng. Hơn nữa, việc lập quỹ bình ổn hối đoái đòi hỏi các quốc gia phải có một
thực lực nhất định về kinh tế.
Phá giá tiền tệ: Phá giá đồng tiền là việc Nhà nước chính thức hạ thấp sức mua
của đồng tiền nước mình so với các ngoại tệ hay là việc nâng cao tỷ giá hối đoái của
ngoại tệ.Kết quả của phá giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Đây là điểm
giống nhau giữa phá giá đồng tiền và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, nhưng không phải
không có sự khác biệt.



Điều chỉnh tỷ giá hối đoái là việc làm thường xuyên, liên tục của Nhà nước nhằm
điều chỉnh,duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế,
đẩy lùi lạm phát. Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo nguyên tắc duy trì biên độ dao
động cho phép tăng hoặc giảm một tỷ lệ nhất định so với tỷ giá hối đoái chính thức. Nó
khác hẳn với phá giá đồng tiền- một biện pháp bất đắc dĩ của Nhà nước, chỉ áp dụng
trong những trường hợp hết sức cần thiết khi sức mua của đồng nội tệ thường xuyên bị
sụt thấp so với ngoại tệ.
Tuy phá giá tiền tệ chỉ là biện pháp tình thế nhưng nếu được sử dụng đúng đắn
nó cũng phát huy những tác dụng nhất định:
-Kích thích các hoạt động xuất khẩu, từ đó góp phần tăng thu ngoại tệ, hạn chế
nhập khẩu, giảm chi ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
-Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế xuất khẩu vốn cũng như các
hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, làm tăng khả năng cung ngoại tệ, kết quả làm
cho sức mua đối ngoại của tiền trong nước sẽ tăng dần lên.
-Khuyến khích các hoạt động du lịch vào trong nước và hạn chế du lịch ra nước
ngoài, kết quả làm cho quan hệ cung cầu về ngoại tệ bớt căng thẳng.




chương II:
thực trạng tỷ giá hối đoái ở việt nam
trong những năm gần đây.

Tỷ giá hối đoái đóng vai trò là một trong những công cụ quan trọng không thể
thiếu của chính sách tiền tệ mà quá trình điều hành nền kinh tế vĩ mô cần phải sử dụng
như một chi tiết trong cỗ máy khi đưa vào vận hành. chính vì lẽ đó, yêu cầu cấp thiết đặt
ra là phải dấnh giá hợp lý hệ thống tỷ giá hiện nay. Việc làm này không thể tiến hành
một cách riêng rẽ, đơn lẻ, phiến diện mà phải thực hiện trong mối quan hệ nhiều mặt

của nền kinh tế xã hội Việt Nam đã và đang trải qua đồng thời phải căn cứ vào nhiều
yếu tố khác nhau trong đó có yêu cầu về một hệ thống tỷ giá hợp lý.
Kể từ sau những cải cách lớn bắt đầu từ tháng 3/ 1989, hệ thống tỷ giá hối đoái ở
Việt Nam đã trải qua nhiều bước thăng trầm với nhiều đột biến có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến các hoạt động kinh tế nói chung, cũng như hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng.
Diễn biến phức tạp của tỷ giá trong thời gian qua chính là tấm gương phản chiếu mọi
hoạt động cuả đời sống kinh tế xã hội và là căn cứ thực tế cho việc thực hiện tốt yêu cầu
trên.
I. tình hình tỷ giá hối đoái trong những năm vừa qua:
Lựa chọn chế độ tỷ giá nào luôn là bài toán hóc búa đối với mọi quốc gia. Thực
tế đã chứng minh đó là cả một nghệ thuật. Trong lịch sử, nhiều quốc gia đã thành công
trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá thích hợp. Bên cạnh đó, không ít quốc gia đã phải trả
giá đắt cho việc sai lầm khi lựa chọn chế độ tỷ giá. Để có được chính sách tỷ giá hối
đoái phù hợp với nền kinh tế thị trường góp phần ổn định phát triển nền kinh tế, Thủ
tướng chính phủ đã cho phép áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của
nhà nước. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của
Việt Nam trong tiến trình đổi mới kinh tế vì nó cho phép chúng ta thực hiện một chính
sách tiền tệ độc lập vừa tuân theo quy luật cung cầu thị trường vừa phát huy vai trò quản


lý điều tiết linh hoạt của Nhà nước để thực hiện được mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh
tế.Với chủ trương này,Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phối hợp cùng các bộ ngành
thuộc lĩnh vực kinh tế như: Bộ Tài Chính- Bộ Thương Mại - Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư
trong việc đề ra chính sách cũng như các biện pháp thực thi. Trong quá trình thực hiện
chính sách tỷ giá hối đoái NHNN đã thường xuyên phối hợp với các ngành hữu quan
trong việc phát hiện những bất hợp lý của chế độ tỷ giá hiện hành để đề xuất những giải
pháp sửa đổi, bổ xung, giúp cho chính sách tỷ giá ngày càng hoàn thiện hơn. Nhờ vậy,
NHNN luôn nhận được sự ủng hộ từ các ngành liên quan trong quá trình hoạch định
cũng như tổ chức thực hiện chính sách tỷ giá. Đây là nguyên nhân cho sự tồn tại một
cách vững chắc chế độ tỷ giá hiện hành. Đó là một chế độ tỷ giá linh hoạt, năng động và

có khuôn khổ, là một chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước.
Mục tiêu hàng đầu của chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là góp phần ổn
định sức mua của đồng tiền Việt Nam. Kết quả của việc điều hành chính sách tỷ giá hối
đoái của Nhà nước ta trong thời gian qua đã và đang nhận được sự đồng tình của dư
luận trong và ngoài nước. Những thành quả mà chúng ta đã đạt được đó là:
Góp phần giữ vững sức mua của đồng Việt Nam, kìm hãm và đẩy lùi lạm phát,
đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế.
Góp phần tăng cường tính ổn định của môi trường kinh tế cũng như giải pháp
để duy trì, mở rộng và phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
Bảo vệ lợi ích của các thành viên trong xã hội, kể cả những người cư trú và
không cư trú.
Củng cố lòng tin của mọi người vào đồng Việt Nam. Đây là một yếu tố tâm lý
đóng vai trò quyết định trong việc duy trì sự ổn định đời sống kinh tế, chính trị xã hội.
Nó khơi dậy , kích thích và thúc đẩy mọi tầng lớp dân cư,mọi thành phần kinh tế đầu tư
vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, làm thay đổi nhanh chóng, làm lành mạnh hoá bộ
mặt kinh tế của đất nước.


Để có căn cứ đánh giá chính xác chính sách tỷ giá hối đoái của nước ta trong
những năm qua và xây dựng các quan điểm điều hành tỷ giá hối đoái trong thời gian tới,
ta cần điểm qua các giai đoạn hình thành và phát triển của chính sách tỷ giá hối đoái ở
nước ta.
Trước năm 1988, từ ngày 25/11/1955 tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam và
đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc là : 1NDT = 1.470 VND; 1Rup (Liên Xô) =
0,5 NDT, tỷ giá chéo là 735 VND= 1 Rup. Sau đổi tiền ( 1959) tỷ giá VND so với Rúp
và NDT thay đổi. Đến năm 1977 các nước XHCN thoả thuận thanh toán với nhau bằng
đồng Rúp chuyển nhượng (RCN). Mỗi RCN có hàm lượng vàng là 0,98712 gr.
Bên cạnh tỷ giá trên, Nhà nước còn dùng tỷ giá thanh toán nội bộ để thanh toán
giữa các tổ chức và các đơn vị có thu chi ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương, tính thu

chi ngân sách Nhà nước khi nhận viện trợ bằng đồng Rúp và cấp phát cho các tổ chức
kinh tế để thanh toán với các đơn vị ngoại thương.
Tỷ giá hối đoái nội bộ được điều chỉnh như sau:
Năm 1958: 1 Rúp = 5,64 VND.
Năm 1986: 1 Rúp = 18 VND.
Năm 1987: 1 Rúp = 150 VND.
Năm 1988: 1 Rúp = 700 VND.
Đến tháng 3/1989 chế độ kết toán nội bộ bị huỷ bỏ.
Trong giai đoạn trước 1988, với chế độ độc quyền ngoại thương và ngoại hối,
Nhà nước trực tiếp can thiệp vào việc xác định tỷ giá, không xét tới quan hệ cung cầu
thực tế trên thị trường ngoại hối. Nhà nước đã thi hành chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ
giá. Quan hệ thương mại của chúng ta chủ yếu là với các nước trong khối SEV với hình
thức phổ biến là hàng đổi hàng theo một tỷ giá cố định đã được thoả thuận theo hiệp
ước song phương và đa phương giữa các chính phủ. Các doanh nghiệp tham gia xuất
nhập khẩu hàng hoá hạch toán theo tỷ giá kết toán nội bộ mà thực chất là một hình thức
bù lỗ có tính chất bao cấp thông qua tỷ giá. Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái chỉ


đóng vai trò thuần tuý là phương tiện ghi chép thụ động của ngân hàng trong lĩnh vực
xuất nhâp khẩu hàng hoá. Vai trò công cụ quản lý vĩ mô, để thực hiện chính sách tài
chính, chính sách tiền tệ của tỷ giá hối đoái bị gạt bỏ hoàn toàn.Việc xác lập tỷ giá hối
đoái duy ý chí, không tuân thủ các quy luật kinh tế , các quy trình kinh tế ngay cả với
kinh tế kế hoạch, gạt bỏ cả yếu tố lạm phát đã không chỉ cản trở các quan hệ kinh tế của
ta với khối SEV mà còn gây nhiều khó khăn trong thanh toán nội bộ, trong công tác
quản lý điều hành của Nhà nước,thủ tiêu động lực đối với hoạt động xuất khẩu. Ngoài
ra, việc sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ trong quản lý ngân sách Nhà nước nên việc tính
toán và phản ánh thu chi ngân sách nhà nước bị sai lệch nghiêm trọng, làm giảm hiệu
quả hoạt động của hệ thống ngân sách Nhà nước, đặc biệt là khâu quản lý và sử dụng
vốn. Hơn nữa, VND được đánh giá cao một cách giả tạo so với USD cũng như một số
ngoại tệ khác. Thị trường ngoại hối chợ đen tồn tại như một tất yếu khách quan.

Sau khi có chủ trương thu hút vốn nước ngoài (1985) và thông qua luật đầu tư
nước ngoài (1987) luồng ngoại tệ bằng USD lần lượt vào Việt Nam. Tuy nhiên, chúng
ta chỉ dùng tỷ giá chính thức do Ngân hàng Trung ương áp đặt nên vẫn còn khoảng cách
khá xa so với sức mua thực tế của USD và thị trường chợ đen.

Đơn vị tính: VND/USD.
Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường
1985 15 115
1986 80 425
1987 368 1270
1988 3000 5000
1989 3900 4100

Tuy nhiên mức chênh lệch giữa 2 loại tỷ giá tính theo tỷ lệ % cũng dần giảm rõ
rệt ( năm 1985 là 666,67% năm 1989 chỉ còn 5,12%).


Từ khi chúng ta xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá với những điều
chỉnh mang tính hành chính này không còn phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế ở
nước ta nữa. Việc từ bỏ chế độ này là một xu thế tất yếu khi chúng ta mở cửa và hội
nhập với nền kinh tế thế giới.
Từ những năm 1989- 1990 khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với thị
trường truyền thống Đông Âu và Liên Xô cũ bị gián đoạn khiến chúng ta phải chuyển
sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng USD. Kể từ đó, cơ chế tỷ giá cố định đã
được thay thế dần bằng cơ chế điều tiết của Nhà nước theo tín hiệu thị trường. Tuy
nhiên để đi đến một chính sách tỷ giá tự chủ,có thể kiểm soát được các biến động thị
trường, cơ chế quản lý ngoại tệ nói chung và cơ chế quản lý hối đoái nói riêng đã trải
qua những điều chỉnh lớn. Có thể chia thành những giai đoạn như:
Giai đoạn thả nổi tỷ giá hối đoái 1989- 1992:

Trong giai đoạn này, tỷ giá giữa VND/USD biến động mạnh theo hướng tăng
liên tục kèm theo các cơn sốt, các đột biến lớn. Thời kỳ này tỷ giá danh nghĩa tăng từ
4.200đ/1USD tới 12.720đ/USD. Theo thống kê của tạp chí ngân hàng, tỷ giá hối đoái
giữa VND/USD từ 1989-1992 biến động như sau:

Bảng 1: Tỷ giá danh nghĩa giữa USD/VND:

Năm Điạ điểm Tháng 1 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6
1989 Ngân hàng 3.500 4.200 4.350 4.100 4.200
Tư nhân 5.200 5.350 4.400 4.225 4.575
1990 Ngân hàng 4.300 4.300 4.800 5.750 6.650
Tư nhân 4.650 4.450 5.600 6.300 7.050
1991 Ngân hàng 7.000 7.400 8.300 10.700 12.720


Tư nhân 7.400 7.900 8.830 11.050 12.550
1992 Ngân hàng 11.880 11.550 11.285 10.950 10.720
Tư nhân 12.200 11.550 11.290 10.980 10.650

Số liệu trên cho thấy sự biến động mạnh của tỷ giá VND/USD từ năm 1990 trở
đi. Đỉnh cao của mức tăng giá USD là cuối năm 1991. Ngày 4/12/1991 giá USD trên thị
trường tư nhân tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 14.450 VND/USD và 14.580
VND/USD. Giá USD trong tháng 12/1990 đã tăng từ 60% đến 80% so với mức giá đầu
năm.
Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý của nhà nước đã có nhiều
thay đổi, như chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất
cả các nhóm hàng sang tỷ giá theo nhóm hàng hoá và duy trì tương đối ổn định các tỷ
giá này, hoặc nếu có thay đổi thì cũng ở mức độ nhỏ nhằm duy trì ổn định hệ thống giá
vật tư và xuất khẩu, nhập khẩu nên tỷ giá công bố vẫn xa mức tỷ giá hình thành trên thị
trường.

Hơn nữa phần ngoại thương ngoài kế hoạch ngày càng lớn khiến cho thị trường
ngoại tệ ngầm ngày càng phát triển và có xu hướng phản ánh tương quan giá trị thực
giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ.
Tình trạng leo thang của giá đồng USD đã kích thích tâm lý dự trữ USD, nhằm
mục đích đầu cơ ăn chênh lệch giá. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho
hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước.
Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những quyết
định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công
bố.Giai đoạn này ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Qua kiểm tra 26
đơn vị sử dụng ngoại tệ ở Thừa Thiên Huế thấy tất cả đều có sai phạm:
Bán USD ra thị trường: 996,682 USD.
Cho vay lấy lãi : 102,694 USD.


Chuyển nhượng cho nhau hơn 2 triệu USD lấy chênh lệch 3,5 tỷ USD.
Tình trạng tỷ giá hối đoái bị thả nổi thời kỳ này có nguyên nhân do cơ chế quản
lý ngoại tệ chậm sửa đổi,không theo kịp bước chuyển của nền kinh tế thị trường. Nhưng
nguyên nhân quan trọng nhất là do những khó khăn trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Do
mất nguồn nhập siêu từ Liên Xô cũ nên đất nước thiếu ngoại tệ nghiêm trọng.Điều này
dẫn đến tình trạng phải mua USD để trả nợ đến hạn do đó đã dẫn đến "cơn sốt" USD
theo chu kỳ vào cuối quý, cuối năm trong các năm 1990- 1991. Tình trạng leo thang giá
USD đã thúc đẩy lạm phát do đồng Việt Nam bị mất giá mạnh và do giá hàng nhập
khẩu tăng nhanh. Trước tình hình đó từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay
đổi cách quản lý ngoại tệ, đổi mới chính sách và cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng:
Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại
tệ phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng biện pháp kinh tế như: mở trung
tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ
với nhau theo thoả thuận.
Thay đổi cách quản lý ngoại tệ , đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, bãi bỏ hình
thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa Ngân sách với các

tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá hình thành tại
các phiên giao dịch ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá chính thức. Cơ chế
hình thành và quản lý tỷ giá mềm dẻo như trên cộng với sự điều tiết của Ngân hàng Nhà
nước đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao dịch đã phá được tâm lý đầu cơ
ngoại tệ ngăn chặn được xu hướng tăng giá quá mức của USD trên thị trường. Từ tháng
3/1992, giá USD bắt đầu giảm. Tỷ giá VND/USD vào thời điểm cuối năm 1991 tại các
thị trường tư nhân Hà Nội có lúc lên tới 14.500 VND/1USD, đến tháng 3/1992 chỉ còn
11.550 VND/1USD đến cuối năm còn 10.650 VND/1USD và còn tiếp tục giảm tới cuối
năm 1992.
Giai đoạn 1993-1996:
Trong dịp Tết Nguyên Đán Nhâm Thân 1993, có khoảng 60000 Việt kiều về ăn
Tết mang theo lượng ngoại tệ 300-400 triệu USD dẫn tới cung USD tăng, đồng USD

×