Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tư liệu tham khảo về tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.13 KB, 13 trang )

Tư liệu tham khảo về tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông
I. Về thể loại - loại hình
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là tác phẩm nằm trong loại hình kí và thuộc thể loại bút
kí văn học. Bút kí văn học có dung lượng gần như truyện ngắn, ghi chép về những sự
kiện, con người có thực, đồng thời trình bày trực tiếp cảm nhận, suy nghĩ của tác giả
về những sự kiện, con người ấy. Đọc một bút kí, cái mà người ta chờ đợi trước hết là
tính có vấn đề của nó, gắn liền với việc tác giả thể hiện được những khám phá sâu sắc
về đối tượng, đề xuất được những tư tưởng, quan niệm có ý nghĩa đối với đời sống
hiện tại.
Ranh giới giữa bút kí văn học và tuỳ bút văn học nhiều khi khá nhập nhằng, đặc biệt
trong trường hợp tác giả quan tâm nhiều tới việc biểu lộ cái tôi nghệ sĩ phóng khoáng,
tự do, giàu tiềm lực văn hoá của mình và chọn một hình thức diễn tả có duyên, đầy
màu sắc biểu cảm, chứa đựng nhiều liên tưởng, tưởng tượng độc đáo Do có những
đặc điểm vừa nói, Ai đã đặt tên cho dòng sông ? cũng có thể được xem là một thiên
tuỳ bút đặc sắc (xem thêm phần nói về thể tuỳ bút ở bài Người lái đò Sông Đà).
II. Tiếp cận văn bản
Viết về bất cứ dòng sông nào trên trái đất, người ta cũng cần có, cần thể hiện được
một tình yêu tha thiết, lắng sâu và một sự am tường không hề sách vở về những vấn
đề địa lí, lịch sử và văn hoá gắn liền với chúng. Bởi các dòng sông luôn là cái nôi của
những vùng, những nền văn hoá đa dạng, lắm sắc màu và là đối tượng mà các cư dân
sống trong vòng tay của chúng phải vô hạn biết ơn. Viết về con sông Hương cũng cần
và lại càng cần như vậy. Đây là một thách thức nhưng là thách thức đã được chuyển
hoá thành niềm giục giã đầy tự nhiên, đầy xao xuyến trong tâm hồn những ai yêu sông
Hương, yêu Huế. May thay, chúng ta đã có được những nhà thơ, nhà văn tài năng
vượt qua được các thách thức nói trên để tặng cho sông Hương những tác phẩm bất
hủ[1]. Trong những nhà thơ, nhà văn đó có Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đã viết
nên một thiên tuyệt bút có nhan đề là Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
Vang lên từ nhan đề, trước hết, câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng sông ? có dáng dấp của
một thoáng ngẩn ngơ rất thi sĩ (và theo chính tác giả cho biết thì đó là câu hỏi của một
thi sĩ đích thực). Từ thoáng ngẩn ngơ này, bao nhiêu ấn tượng về cái đẹp của sông
Hương sẽ ùa về trong tâm trí, khơi lên mạch viết dạt dào cảm xúc về "nhan sắc" thiên


phú của dòng nước êm đềm chảy qua Huế cố đô. Vang lên những lần khác trong tác
phẩm[2], câu hỏi biến thành một nỗi suy tư thâm trầm, đánh động bao vốn liếng văn
hoá tích tụ trong người viết và cũng đòi nó phải được hiện diện trên trang giấy. Vậy
đó, ta đang nói đến những mạch cảm hứng lớn đã dẫn dắt nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường đến và đi với sông Hương, để rồi tiếp nữa, làm một cuộc viễn du vào lòng
muôn độc giả, đóng vai người truyền cảm hứng cho họ bộc lộ tình yêu xứ sở hết sức
thiết tha của mình.
Thông thường, người ta hay sử dụng phép nhân hoá khi miêu tả thiên nhiên. Kể cũng
là điều dễ hiểu, bởi trong văn học, các đối tượng không bao giờ xuất hiện như những
"khách thể tự nó" mà như những "vật" thể hiện nỗ lực của con người nhằm chủ quan
hoá toàn bộ thế giới khách quan. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã nhân hoá sông
Hương. Nhưng nhân hoá ở đây không chỉ là nhân hoá trong từng đoạn miêu tả rời rạc
với mục đích làm cho câu văn, hình ảnh trở nên sinh động. Ông đã thực sự xây dựng
sông Hương thành một nhân vật, một con người, để được chuyện trò, đối thoại cùng
nó. Điều này hoàn toàn hợp lẽ, bởi chẳng phải ta vẫn quen nghĩ rằng các dòng sông
vừa là kẻ đồng sáng tạo, vừa là chứng nhân lịch sử, văn hoá của một vùng đất hay
sao ? Dưới ngòi bút tài hoa và cái nhìn đầy mê đắm, trân trọng của tác giả, sông
Hương cũng có một cuộc đời phong phú trải qua nhiều giai đoạn, khi gian truân, khi
êm đềm. Giữa lòng Trường Sơn, nó chính là "một cô gái Di-gan phóng khoáng và
man dại", có "bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng". Còn khi đã ra khỏi
rừng, "sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành
người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở". Sông Hương có "phần tâm hồn sâu
thẳm", có vẻ mặt lúc trầm mặc, lúc vui tươi, có thái độ đầy ân tình với Huế khi dành
cho cố đô "điệu slow tình cảm" vô cùng giàu ý nghĩa Tác giả đã thực sự trở thành
một tri kỉ của sông Hương, hiểu ngọn ngành khí chất của nó, và hơn thế, còn chu đáo
đề xuất với chúng ta một cách nhìn toàn diện về người bạn của mình : "Nếu chỉ mải
mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một
cách đầy đủ bản chất của sông Hương ". Ông dõi theo từng khúc quanh, nét lượn,
bước ngoặt rất cụ thể của sông Hương để nói với độc giả về những "ý tứ" mà sông
Hương muốn biểu lộ trước con người và miền đất Châu Hoá xưa : "Nhưng ngay từ

đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa
khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm
kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông
Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén ; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng
sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một
hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế".
Theo tác giả, sông Hương đã thật "tâm lí" khi "trôi đi chậm, thực chậm" qua kinh
thành Huế, như để yên ủi người ta đừng quá sầu muộn về sự biến đổi vô thường của
cuộc đời, về sự vèo qua chóng mặt của thời gian. Dòng nước sông Hương đã lặng lờ
một cách cố tình để muôn nghìn ánh hoa đăng trong đêm hội rằm tháng Bảy từ điện
Hòn Chén trôi về qua Huế "bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở". Bằng "cách trôi"
rất riêng đó của mình, sông Hương như muốn nhắc người ta rằng cuộc đời này có rất
nhiều cái đáng vương vấn. Rồi nữa, nếu không nhờ sự phát hiện đầy tính chất đồng
điệu của tác giả đối với sông Hương, mấy ai biết rằng việc sông Hương đột ngột đổi
dòng ngay khi vừa định chia tay Huế là thuận theo một lí do rất tình cảm, rất "người' :
chẳng qua, nó muốn gặp lại Huế "để nói một lời thề trước khi về biển cả". ở đây, có
đến ba thái độ chí tình cùng "hợp lưu" với nhau : cái chí tình của sông Hương đối với
Huế, cái chí tình của con người Huế trong tình yêu (như là một phẩm chất được thấm
nhiễm từ sông Hương) và cái chí tình của chính tác giả dành cho sông Hương, dành
cho cả mảnh đất xưa gọi là Châu Hoá ! Suy cho cùng, nếu không có cái chí tình của
tác giả thì cái chí tình của sông Hương không thể trở thành một "khách thể tinh thần"
hiện diện trong đời sống chúng ta và gây ấn tượng sâu đậm đến vậy !
Nếu biết cất lên tiếng người, hẳn sông Hương sẽ nói rằng nó đã thực sự yên tâm khi
chọn trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường để hoá thân. Có lẽ chính nhà văn cũng
nhận thấy, cũng hiểu niềm tin cậy đó, nên từng câu văn của ông bay bổng, diễm ảo lạ
thường. Nhiều lúc, độc giả có cảm tưởng ngôn từ trong bài bút kí không phải là của
tác giả dùng để mỉêu tả sông Hương mà chính là ngôn từ của sông Hương đang hát lên
bài ca của mình. Ngôn từ ấy trôi chảy hết sức tự nhiên, nếu có "luyến láy" thì cũng
"luyến láy" một cách tự nhiên, bởi chất hào hoa, đa tình vốn đã là cái gì thuộc về căn
cốt của người viết rồi. Hãy thử đọc lại một vài đoạn : "Trước khi về đến vùng châu thổ

êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn,
mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và
cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của
hoa đỗ quyên rừng", "Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ
thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ
ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà", "Từ đây,
như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh
biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam
- đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần
trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non", Theo một cái nhìn mang tính
phân tích, có thể thấy trong các đoạn văn trên, tác giả đã vận dụng khá nhiều thủ thuật
ngôn từ, từ việc phối hợp hài hoà thanh điệu của các tiếng tới việc lựa chọn những
định ngữ đắt nhất cho các đối tượng được miêu tả, từ việc sử dụng các ẩn dụ, so sánh
đích đáng tới việc "khảm" một cách khéo léo ý tứ của các văn bản xưa vào văn mạch
mới. Tuy vậy, đọc chúng lên, ta không có cảm giác cộm, vướng, bởi tác giả đã hoàn
toàn làm chủ những thủ thuật ngôn từ kia, bắt chúng vâng phục tuyệt đối sự điều hành
của mình. Nói rộng ra, thiên bút kí đưa đến rất nhiều thông tin mà đọc lên vẫn thấy
thanh thoát là nhờ thế.
Nhất quán với cách nhìn sử thi vốn có, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên tô đậm
niềm "quang vinh" mà sông Hương đã có được trong lịch sử dài lâu của dân tộc. Có lẽ
để khỏi mang tiếng là "thiên vị", ông đã dẫn ra các "lời chứng" vừa từ sử sách vừa từ
những con người đã thực sự can dự vào cuộc kháng chiến vừa qua của dân tộc. Nhưng
đồng thời, nhà văn cũng thấm thía rằng mọi thứ trên đời đều có thể bị quên đi, chỉ văn
hoá là còn lại mãi. Có chiến công nào lớn hơn chiến công của văn hoá ? Và mọi chiến
công khác, nếu còn muốn được nhắc tới thì đều phải mang ý nghĩa văn hoá. Ông viết :
"Sông Hương là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ
lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để
rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất
nước". Không, nhà văn không đơn thuần "tính đếm" hay kể lại những phẩm chất đa
dạng của sông Hương. Lồng trong lời đánh giá khái quát mang tính chất ghi công đó,

ông muốn đặc biệt nhấn mạnh đến vẻ đẹp văn hoá sâu xa, trầm tĩnh của sông Hương.
Không phải ngẫu nhiên ở rất nhiều đoạn trong bài bút kí này, ông đã thường xuyên
nghĩ tới Truyện Kiều, nhân vật Kiều khi nói về sông Hương. Đối với người Việt Nam,
Truyện Kiều là tập đại thành của nền văn học, văn hoá dân tộc. Được so sánh, được
liên hệ với Truyện Kiều chính là một niềm vinh dự. Nhưng một điều thú vị đáng nói là
là trong Truyện Kiều luôn có vang bóng của sông Hương, của văn hoá sông Hương.
Tác giả đã chứng minh điều này một cách tinh tế và thuyết phục, bằng mẫn cảm nghệ
sĩ, bằng những hiểu biết sâu sắc về cuộc đời Nguyễn Du. Ông đã có một so sánh rất lạ,
rất độc đáo nhưng cũng vô cùng chính xác : "Hình như trong khoảnh khắc chùng lại
của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya". Sự thực, câu văn không đơn thuần chỉ có so sánh. Nó chứa đựng (hay là thể
hiện) một cái nhìn đồng nhất hoá, nâng sông Hương lên thành đích thực một linh hồn.
Tác giả cũng kể lại cho ta một phát hiện bất ngờ chỉ có được ở những con người sống
vì nghệ thuật, sống trong nghệ thuật : "Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già,
chơi đàn hết nửa thế kỉ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều : "Trong như tiếng
hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời" Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt
nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên : 'Đó chính là Tứ đại
cảnh !". Bằng lịch lãm văn chương, nghệ thuật của mình, sau khi đi một vòng để nêu
lên chân lí "dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ
sĩ", rằng sông Hương đã hiện hình với đủ cung bậc trong thơ của Tản Đà và Cao Bá
Quát, Bà Huyện Thanh Quan và Tố Hữu, tác giả lại khẳng định trong niềm ngạc nhiên
của sự khám phá : "sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều".
Viết về một dòng sông văn hoá, quả rất cần một tư thế văn hoá. Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã thể hiện được điều này trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? Rất nhiều
trải nghiệm của một đời viết luôn gắn bó với con người, dân tộc và đất nước đã được
đưa vào đây. Yêu sông Hương nhưng tình yêu ấy không ngăn cản ta yêu những dòng
sông khác có trên trái đất. Và ngược lại, niềm thích thú được quan sát dáng nét độc
đáo của những dòng sông thuộc các vùng miền từng qua lại làm tươi mới trong ta nỗi
rung động bồi hồi rất đặc biệt trước dòng sông quê hương đã nuôi lớn cuộc đời mình.
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? - Câu hỏi ấy không chỉ phản ánh một khoảnh khắc xao

xuyến của tâm tư. Cao hơn, nó hé lộ cho ta thấy một tâm thế sống luôn có trách nhiệm
với cuộc đời, luôn biết ngạc nhiên về cái bí ẩn, phong phú vô tận của tạo vật.
1. Vẻ đẹp sông Hương
a) Sông hương vùng thượng lưu
- Sông Hương vùng thượng lưu mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại,
bí ẩn, sâu thẳm nhưng cũng có lúc dịu dàng, say đắm.
- Sự mãnh liệt, hoang dại của con sông được thể hiện qua những so sánh : “Bản
trường ca của rừng già”, những hình ảnh đầy ấn tượng : (“rầm rộ giữa bóng cây đại
ngàn”, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí
ẩn”)
- Vẻ dịu dàng, say đắm : những sắc màu rực rỡ (“những dặm dài chói lọi màu đỏ của
hoa đỗ quyên rừng”).
- Dòng sông được nhân hoá : như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại, rừng
già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Đó là
sức mạnh bản năng của người con gái, sức mạnh ấy được chế ngự bởi cấu trúc địa lý
lãnh thổ để đi ra khỏi rừng, nó “nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở
thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá sứ sở”.
- Ngay từ đầu trang viết, người đọc đó cảm nhận được sự tài hoa của ngũi bút Hoàng
Phủ Ngọc Tường : liên tưởng kì thú, xác đáng, ngôn từ gợi cảm, Tất tạo sức cuốn
hút, hấp dẫn về một con sông mang linh hồn, sự sống, kết thúc đoạn văn, tác giả giới
thiệu trọn vẹn con sông (tâm hồn sâu thẳm của nó) vừa dẫn dắt, gợi mở sang đoạn tiếp
theo sẽ miêu tả khuôn mặt kinh thành của dòng sông.
b) Sông Hương đoạn chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố
Lúc này, sông Hương được ví “như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” được
“người tình mong đợi” đến đánh thức. Kiến thức địa lý đã giúp tác giả miêu tả tỉ
mỉ sông Hương với những khúc quanh và lưu vực của nó.
Đoạn văn thể hiện năng lực quan sát tinh tế và sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng
giúp nhà văn viết được những câu văn đầy màu sắc tạo hình và ấn tượng : “Sông
Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “ Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó
trôi đi giữa 2 dãy đồi sừng sững như thành quách, dòng sông mềm như tấm lụa, với

những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi ”. Rồi “giữa đám quần sơn lô xô
ấy là giấc ngủ nghìn thu của vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u
tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tầm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng
thượng lưu”.
Vận dụng kiến thức về văn hoá, văn học, tác giả tạo cho người đọc ấn tượng về vẻ đẹp
trầm mặc, như triết lý, như cổ thi gắn với những thành quách, lăng tẩm của vua chúa
thuở trước.
c) Sông Hương khi chảy vào thành phố
Nếu ở trên, người đọc cảm nhận phần nào tính chất vẻ đẹp man dại, dịu dàng, trầm
mặc của con sông thì giờ đây con sông được khám phá, phát hiện ở sắc thái tâm
trạng. Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn tình yêu, trở nên vui tươi và
đặc biệt chậm rãi, êm dịu, mềm mại. Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ
nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh
đẹp đẽ đến bất ngờ, lý thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông. Đó là những nét
bút thật “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối” ; “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên
nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non”, sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ
sang cồn Hến”, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng”
không nói ra của tình yêu”, “nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh” làm dòng sông thêm
lộng lẫy, con sông ngập ngừng như có : “những vấn vương của một nỗi lòng” không
nỡ rời xa thành phố. (liên hệ câu thơ Thu Bồn : con sông dùng dằng, con sông không
chảy / Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu)
- Qua thành phố, sông Hương trôi thật chậm, thực chậm, “cơ hồ chỉ còn là một hồ yên
tĩnh” Tác giả so sánh với dòng chảy tốc hành của sông Nê-va để thấy quý hơn điệu
chảy lặng lờ của sông Hương khi ngang qua thành phố nhìn nó như là “vấn vương của
một nỗi lòng”
- Liên hệ với thơ Hàn Mặc Tử, thơ Tố Hữu khi viết về sông Hương êm đềm thơ mộng.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
(Hàn Mặc Tử)
Hương Giang ơi, dòng sông êm

Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình
(Tố Hữu)
Sông Hương mang vẻ đẹp lững lờ, êm đềm, trầm lắng, nó bình thản, chậm rãi như tâm
tính người Huế vậy.
- Kiến thức âm nhạc được tác giả huy động với liên tưởng kỳ thú “điệu chảy lặng tờ”
của con sông khi ngang qua thành phố : “Đấy là điệu Solon tình cảm của Huế”. Câu
thơ trong truyện Kiều tả tiếng đàn (trong như tiếng hạc bay qua) cũng gợi nhớ đến làn
điệu nhạc cung đình Huế “Tứ đại cảnh”
=> Phải rất hiểu sông Hương, tác giả mới cảm nhận thấm thía vẻ đẹp con sông lúc
đêm sâu. Đó là lúc mà âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành. Khi đó, trong không khí
chùng lại của dòng sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn
lúc đêm khuya
2. Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
Bài kí kết thúc bằng cách lý giải về cái tên của dòng sông, nhấn mạnh bằng một huyền
thoại mĩ lệ, mang đến cho tác phẩm sắc màu lãng mạn. Đó là chuyện về cư dân hai
bên bờ sông nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho
mãi mãi. Huyền thoại về tên dòng sông đã nói lên khát vọng của con người ở đây
muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá, lịch sử, địa lý quê hương mình.
Việc đặt tên cho bài kí thống nhất với phần kết thúc chẳng những lưu ý người đọc về
vẻ đẹp của dòng sông mà còn gợi lên niềm biết ơn đối với những người đã khai phá
miền đất lại. Kết thúc bài kí đọc lại một niềm buâng khuâng trong tâm hồn người đọc :
Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế không quên ?
3. Nét đặc sắc của văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường
+ Bút kí : Ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên
cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp
dẫn và thuyết phục của bút kí tuỳ thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu,
khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập đến (Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Hà Nội 2004)
Tuỳ bút ghi lại một cách tương đối tự do những cảm nghĩ của người viết, kết hợp với

việc phản ánh thực tế khách quan.
- Điểm chung : Sự thành công của 2 thể loại đều tuỳ thuộc vào tài năng, trình độ quan
sát, khám phá, diễn đạt của người viết với đối tượng phản ánh, đều đòi hỏi sự thống
nhất giữa chủ quan và khách quan, trí tuệ và cảm xúc.
- Điểm riêng : Bút kí mang tính chặt chẽ hơn, tuỳ bút mang tính tự do hơn, nó mang
đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ chân chính. Tùy bút mang đậm chất thơ
+ Nét đặc sắc của văn phong tác giả qua đoạn trích
- Soi bóng tâm hồn với tình yêu say đắm, lắng sâu niềm tự hào tha thiết quê hương xứ
sở vào đối tượng miêu tả khiến đối tượng trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như đời
sống, như tâm hồn con người.
- Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá
nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân
- Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng
nhiều phép tu tư như : So sánh, nhân hoá, ẩn dụ,
- Có sự kết hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan.
I. Tìm hiểu chung
1. Tiểu dẫn
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước. Ông tham gia vào phong trào đấu
tranh chống Mĩ nguỵ ở Thừa Thiên Huế.
Quê gốc: Làng Bích Khuê – xã Triệu Long - huyện Triệu Phong - tỉnh Quảng Trị.
Sinh năm 1937 tại thành phố Huế. Tốt nghiệp Trường đại học Sư phạm Sài Gòn, nhận
bằng cử nhân văn khoa, Đại học Huế (Ban Triết văn). Từ 1960 đến 1966 dạy học ở
Trường Quốc học Huế. Từ năm 1963, ông đã tham gia phong trào cách mạng ở nội
thành, làm báo cờ giải phóng ở Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tườngthoát li lên chiến khu từ
năm 1968 đến năm 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường giữ nhiều trọng trách: Tổng thư kí
liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình thành phố Huế, Tổng thư kí Hội
văn học nghệ thuật Trị thiên - Huế, Uỷ viên Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng
Trị, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên. Năm 1990 ông là Tổng biên tập
tạp chí Sông Hương, Cửa Việt.
+ Giới thiệu tài năng Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Tác phẩm: Văn xuôi có các tập: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều
ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1986), Hoa trái quanh tôi (1995), Bản
di chúc của “Cỏ lau” (1997), Ngọn núi ảo ảnh (1999).
Thơ có: Những dấu chân qua thành phố (1976), Người hái phù dung (1992).
Hoàng Phủ Ngọc Tường viết báo, làm văn từ những năm 60 của thế kỉ XX, là nhà thơ
có phong cách độc đáo. Đặc biệt ông có sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Ông là nhà
văn uyên bác, tài hoa. Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ vừa giàu
chất thơ. Nội dung thông tin về văn hoá lịch sử rất phong phú. Đề tài trong tác phẩm
của ông khá rộng. Đó là cảnh sắc con người khắp mọi miền đất nước. Từ rừng hồi Xứ
Lạng đến đất mũi Cà Mau, từ núi bài thơ Hạ Long đến Đồng Tháp Mười Nam Bộ, đến
Điện Biên lịch sử Đặc biệt từ những bài thơ về Huế, Thuận Hoá, Quảng Trị, Quảng
Nam, thành phố cố đô Huế những bài kí hàm súc để lại nhiều rung cảm cho người
đọc.
- Nét đặc sắc trong sáng tác tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều của vốn
kiến thức sâu, rộng về triết học, văn học, lịch sử, địa lí Tất cả thể hiện lối viết hướng
vào nội tâm, say đắm, tài hoa.
- Ông đã được nhận nhiều Giải thưởng về văn xuôi.
+ Giải thưởng của Hội nhà văn cho tập kí Rất nhiều ánh lửa, Miền gái đẹp
+ Giải thưởng của Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007.
2. Văn bản
- Bài Ai đặt tên cho dòng sông? Là một trong những bài tuỳ bút đặc sắc của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Bài tuý bút có 3 phần:
+ Phần 1 nói về cảnh quan thiên nhiên của sông Hương
+ Phần 2 và 3 là phương diện lịch sử và văn hoá của sông Hương
Đoạn trích này nằm trong phần 1 cộng với lời kết của toàn tác phẩm. Tuy nhiên đoạn
trích không chỉ đề cập tới cảnh quan thiên nhiên sông Hương xứ Huế mà còn thấy
được sự gắn bó lịch sử và văn hoá của cố đô Huế. Nó tiêu biểu cho phong trào
của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
SGK

II. Đọc hiểu văn bản
Với xúc cảm vô cùng thiết tha với xứ Huế, tác giả đã sử dụng triệt để mọi tiềm năng
văn hoá và vốn từ giàu có của mình để phát hiện, diễn tả vẻ đẹp xứ Huế tập trung ở
dòng sông Hương.
1. Vẻ đẹp của sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên
- Khác với nhiều con sông “sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nghĩa
là sông Hương gắn liền với Huế. Nói đến Huế là nghĩ tới sông Hương và nghĩ về sông
Hương là nói tới Huế. Điểm nhìn nghệ thuật vẫn là sông Hương.
+ Sông Hương ở đầu nguồn (thượng nguồn)
Tác giả miêu tả sông Hương ở đầu nguồn với sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng
cũng dịu dàng say đắm.
+ “Mãnh liệt qua các ghềnh thác”, “cuộn xoáy như cơn lốc”, “là bản trường ca của
rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Sông Hương đi qua lòng Trường Sơn “Sông
Hương đã sống nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng mà man
dại (sống lang thang nay đây, mai đó, trên một chiếc xe không có nơi cư trú nhất định)
* Cũng có hình ảnh gợi sự dịu dàng và đắm say: “Cũng có lúc trở nên dịu dàng và
đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Tác giả kết
luận: “Rừng già đã hun đúc cho nó một bản tình ca gan dạ, một tâm hồn tự do trong
sáng tác”. Dòng sông đã được thổi bằng ngọn gió tâm hồn rào rạt nhạy cảm, liên
tưởng tự do để càng mạnh mẽ hơn ở phận thượng nguồn.
+ Sông Hương ở đồng bằng
Sông Hương được thay đổi về tính cách
* “Sông như chế ngự được bản năng của người con gái” để “mang một sắc đẹp dịu
dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Hiểu biết về
địa lí đã giúp tác giả miêu tả tỉ mỉ về sông Hương với hình ảnh: “chuyển dòng một
cách liên tục vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật
mềm”, “dòng sông mềm như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa
bằng con thoi”. Cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, hình khối: “Nó trôi đi giữa 2
dãy sồi sừng sững như thành quách với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh,
Tam Thai, Lựu Bảo” (tên những quả đồi phía tây nam thành phố Huế). Người đọc còn

bắt gặp vẻ đẹp đa màu mà biến ảo, phân quang màu sắc của nền trời tây nam thành
phố “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sông Hương lại có vẻ đẹp “trầm mặc” chảy
dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua
chúa triều Nguyễn.
Đó còn là vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của
tiếng chuông chùa Thiên Mụ, có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc
vùng ngoại ô ở Kim Long, có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó rơi xa dần
thành phố để đi qua những bờ tre, luỹ trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ.
Đoạn tả sông Hương khi qua thành phố đã được nhiều ấn tượng. Đấy là hình ảnh chiếc
cầu bắc qua dòng Hương: “Chiếc cầu trắng in ngấn trên nền trời, nhỏ nhắn như những
vành trăng non”. Nhà văn như thổi linh hồn của con người vào cảnh vật “đường cong
ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói của tình yêu”,
“Những nhánh sông mang nước của dòng sông Hương nào nhìn thấy được”. “Tôi
nhớ sông Hương, quý điệu chảy lững lờ của nó khi ngang qua thành phố”. Dường như
sông Hương không muốn xa thành phố: “Rồi như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp
nói. Nó đột ngột đổi dòng, rẽ kín đáo của tình yêu”. Sông Hương như trở lại “để nói
một lời thề trước khi về biển cả”. Tác giả liên hệ “Lời thề ấy vang vọng xứ sở”.
2. Vẻ đẹp sông Hương khám phá được dưới góc độ văn hoá.
- Tác giả cho có một dòng thi ca về sông Hương. Đó là dòng sông không lặp lại mình
* “Dòng sông trắng – lá cây xanh” (thơ Tản Đà) (Chơi Huế)
* “Như kiếm dựng trời xanh” (thơ Cao Bá Quát) (Trường giang như kiếm lập thanh
thiên).
* Là sức mạnh hồi sinh trong tâm hồn thơ Tố Hữu (Tiếng hát sông Hương)
Răng không! Cô gái trên sông

Trên dòng sông Hương
* Thơ của Thu Bồn
Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
- Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế. “Sông Hương đã trở thành một

người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya Quả đúng vậy dòng sông này”. Tác giả tưởng
tượng: “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng rơi bán âm của những mái chèo
khuya” (một nửa của cung bậc âm thanh trong âm nhạc). Phải có độ nhạy về thẩm âm,
hiểu biết về âm nhạc của xứ Huế tác giả mới có sự liên tưởng này. Ngòi bút tài hoa
cộng với sự rung cảm mạnh mẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường nhớ tới Nguyễn Du:
“Nguyễn Du đã bao năm lênh đêng trên quãng sông này mới sa nửa vời”.
3. Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử
- Tên sông Hương được ghi trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi: “nó được ghi là Linh
Giang”
+ Dòng sông ấy là điểm tựa bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt
+ Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bang kinh thành Phú Xuân (tên cũ của thành phố Huế),
gắn liền với tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ
+ Nó đọng lại đến bầm da tím máu “nó sống hết lịch sử bi tráng của thể kỉ XIX”.
+ Nó đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển
+ Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tiến công tết Mậu Thân 1968. Sông Hương đã gắn liền
với lịch sử của Huế, của dân tộc.
4.Nghệ thuật
+ So sánh
* Chiếc cầu trắng nhìn từ xa mà ví với trăng non. Ở đó có màu sắc chiếc cầu, có ánh
sáng bầu trời, có nét dịu dàng của cô gái Huế.
* “Như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu” Đây là biểu hiện sự thuận tình mà
không nói ra vì e lệ.
Sông Hương là sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”
Sử thi là chiến công gắn liền với mốc lịch sử đất nước, nó là cái hùng gắn với màu đỏ.
Ở đây là sử thi viết dưới màu cỏ xanh lá biếc. Phải chăng sử thi mà trữ tình, bản hùng
ca mà vẫn dịu dàng tươi mát.
* Tác giả so sánh sông Hương như một cô gái: từng có lúc là cô gái Di-gan phóng
khoáng mà man dại. Sông Hương như một cô gái Huế, một thiết nữ tài hoa, dịu dàng,
sâu sắc, đa tình, khéo trang sức mà không loè loẹt phô trương, giống như những cô
dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều lục. “Đấy cũng chính là màu sương khói trên

sông Hương giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt
thực của dòng sông”.
* Có lúc nhà văn so sánh sông Hương với sông Đa-nuýp của Bu-da-pét, sông Sen của
Pa-ri, sông Nê-ve của Lê-nin-grát. Ngoài thủ pháp so sánh trên đây, tác giả còn sử
dùng một đoạn văn của Hội hoà bình thế giới (UNESCO): “Các trung tâm lớn vì các
nhà thờ bị phá hoại”. Đoạn văn thuyết minh này có cảm xúc như đoạn văn tuỳ bút,
đánh giá cao di sản thiên nhiên, di sản văn hoá thế giới Huế. Sử dụng đoạn văn này
thực sự là một kiểu đòn bẩy nghệ thuật.
- Ngoài so sánh, trí tưởng tượng của tác giả còn của tác giả còn sử dụng nhiều biện
pháp nhân hoá, ẩn dụ, văn viết giàu hình ảnh
- Bài tuỳ bút kết thúc bằng cách lí giải tên của dòng sông: sông Hương, sông thơm.
Cách lí giải bằng một huyền thoại: Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm.
Ở đây kể lại rằng vì yêu quí con sông xinh đẹp, nhân dâ hai bờ sông đã nấu nước của
trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Huyền thoại ấy đã
trả lời ai đặt tên cho dòng sông.
- Đặt tiêu đề và kết thúc bằng câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng sông? để nhằm mục đích
lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông mà còn gợi lên niềm biết ơn đổi với
những người đã khai phá miền đất ấy.
Mặt khác không thể trả lời vắn tắt trong một vài câu mà phải trả lời bằng cả bài kí dài
ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông.
5. Nét đẹp của văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Tác giả đã soi bằng tâm hồn mình và tình yêu quê hương xứ sở vào sông Hương (đối
tượng miêu tả) khiến đối tượng trở nên lung linh, đa dạng như đời sống tâm hồn con
người
- Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú cộng với sự uyên bác về các phương diện địa
lí, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật đã tạo nên áng văn đặc sắc.
- Ngôn ngữ phong phú giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ
như so sánh, ẩn dụ, nhân hoá.
- Có sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự
trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương.

- Phải hiểu kĩ về đối tượng
- Cảm xúc dồi dào
- Ý tưởng cao sâu
- Chọn chi tiết, sự việc, con người chuẩn xác, tiêu biểu
- Văn giàu hình tượng
(Sưu tầm) .

×