Học viện chính Trị-hành chính Quốc Gia Hồ Chí Minh
Báo cáo
Tổng hợp kết quả nghiên cứu
đề tài khoa học cấp bộ năm 2010
Msố: B.10-17
việt Nam gia nhập asean từ năm 1995
đến nay: thành tựu, vấn đề đặt ra
và triển vọng
C quan ch trỡ:
VIN QUAN H QUC T
Ch nhim ti: PGS,TS NGUYN TH QU
Th ký ti: ThS NGUYN TH MINH THO
8257
Hà nội - 11/2010
DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN
1. Đặng Thị Lan Anh
2. CN. Hà Ngọc Biên
3. ThS. Nguyễn Văn Dương
4. TS. Hoàng Văn Đồng
5. PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp
6. ThS. Phan Thị Thu Hằng
7. ThS. Trịnh Thị Hoa
8. PGS,TS. Thái Văn Long
9. ThS. Uông Minh Long
10. Nguyễn Lương Ngọc
11. ThS. Ngô Chí Nguyện
12. ThS. Phan Duy Quang
13. PGS, TS. Nguyễn Thị Quế Chủ nhiệm đề tài
14. PGS,TS. Phan Văn Rân
15. TS. Phạm Minh Sơ
n
16. TS. Đinh Thanh Tú
17. ThS. Nguyễn Thị Minh Thảo Thư ký khoa học
18. ThS. Tống Đức Thảo
19. CN Nguyễn Đại Thắng
20. CN Nguyễn Thị Thủy
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
AANZFTA Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Ốt-xtơ-rây-lia – Niu Di-lân
ACCI Sáng kiến ASEAN về Biến đổi khí hậu
ACFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
ACIA Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN
ADB Ngân hàng phát triển châu Á
ADMM+ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng
AEC Cộng đồng kinh tế ASEAN
AFSA Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AIA Hiệp
định về Khu vực đầu tư ASEAN
AICO Hiệp định hợp tác công nghiệp ASEAN
AIPO Liên minh Nghị viện ASEAN
AMBDC Hợp tác ASEAN về phát triển lưu vực sông Mê Công
AMM Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu ¸-Thái Bình Dương
APSC Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN
ARF Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN
ASC Cộng đồng an ninh ASEAN
ASCC Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam ¸
ASEM Hội ngh
ị ¸-Âu
ASOEN Tổ chức các quan chức cao cấp ASEAN về môi trường
ATIGA Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN
AU Liên minh châu Phi
BSA Thoả thuận hoán đổi song phương
CAFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
CA-TBD Châu Á - Thái Bình Dương
CEPT Hiệp định ưu đãi có hiệu lực chung
CLMV Các nước ASEAN-4 (Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma, Việt Nam)
CNĐQ Chủ nghĩa đế quốc
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CNTB Chủ nghĩa tư bản
COC Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông
DOC Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông
EAEC Cộng đồng Kinh tế Á - Âu
EAS Hội nghị cấp cao Đông Á
EEC Cộng đồng kinh tế châu Âu
EHP Chương trình Thu hoạch sớm trong khuôn khổ ACFTA
EMU Liên minh kinh tế và tiền tệ
EU Liên minh châu Âu
EWEC Hành lang kinh tế Đông - Tây
GDP Tổng thu nhập quốc nội
GMS Chương trình hợp tác phát triể
n tiểu vùng Mêkông mở rộng
GNP Tổng thu nhập quốc dân
IAI Sáng kiến thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN
IDCF Diễn đàn hợp tác và phát triển IAI
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
JIM Cuộc găp không chính thức Jakarta
KHCN Khoa học công nghệ
MRC Ủy hội sông Mê Công
NSEC Hành lang kinh tế Bắc - Nam
OAU Tổ chức thống nhất châu Phi
ODA Viện trợ phát triển chính thức
PTCSQT Phong trào cộng sản quốc tế
SAARC Hiệp hội hợp tác khu vực Nam
¸
SEANWFZ Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân
SEC Hành lang kinh tế phía Nam
SNG Cộng đồng các quốc gia độc lập
TAC Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam ¸
WB Ngân hàng thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XHCN Xã hội chủ nghĩa
ZOPFAN Khu vực ASEAN hòa bình, tự do và trung lập
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Phần thứ nhất:
VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ
CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ NĂM 1995
ĐẾN NAY
13
1. Một số lý thuyết về liên kết khu vực 13
2. Việt Nam gia nhập ASEAN - sự mở đầu tiến trình liên kết của
Việt Nam với khu vực 28
3. Những nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Việt Nam- ASEAN
sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN 38
Phần thứ hai:
NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHĂN HẠN CHẾ VÀ VẤN ĐỀ
ĐẶT RA TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ 1995 ĐẾN NAY
61
1. Quá trình Việt Nam tham gia hợp tác, liên kết ASEAN 61
2. Những thành tựu và đóng góp chủ yếu của Việt nam trong hợp
tác, liên kết ASEAN
76
3. Những khó khăn, hạn chế và vấn đề đặt ra trong hợp tác, liên kết
Việt Nam - ASEAN 99
4. Vai trò của hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN đối với sự phát
triển của Việt Nam 111
Phần thứ ba:
TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM
TRONG HỢP TÁC LIÊN KẾT ASEAN ĐẾN NĂM 2020
134
1. Triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN đến năm 2020 134
2. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt
Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020 162
KẾT LUẬN 176
TÀI LIỆU THAM KHẢO 180
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thành lập ngày 8/8/1967.
Từ 5 nước thành viên sáng lập ban đầu, sau 4 lần mở rộng (1984, 1995, 1997,
1999), ngày nay ASEAN đã quy tụ sự tham gia của 10 quốc gia Đông Nam Á.
Trên chặng đường hơn 40 năm xây dựng và phát triển, ASEAN từ Hiệp hội của
những nước nghèo, chậm phát triển đã vươn lên trở thành khu vực phát triển kinh
tế năng động, với dân số h
ơn 500 triệu người, diện tích 4,5 triệu km
2
, quy mô
GDP đạt gần 900 tỷ USD và tổng giá trị thương mại khoảng 800 tỷ USD. Thành
tựu ấn tượng này đã đưa ASEAN trở thành một đối tác giàu tiềm năng của nhiều
nước và tổ chức quốc tế, một trong những tổ chức hợp tác khu vực thành công
nhất, một thực thể chính trị - kinh tế có vai trò ngày càng nổi bật ở châu Á - Thái
Bình Dương cũng như trên thế giới.
Do những l
ợi thế về vị trí địa lý và đặc điểm kinh tế- xã hội nên ASEAN
có vị thế quan trọng trong quan hệ quốc tế, gắn liền với lợi ích chiến lược và
cuộc cạnh tranh ảnh hưởng của nhiều cường quốc trên thế giới. Trong thời kỳ
chiến tranh lạnh, khu vực này đã từng là một tiêu điểm nóng bỏng của cuộc đối
đầu Đông - Tây với s
ự chi phối, tương tác rất phức tạp của hình thái tam giác
chiến lược Xô - Mỹ - Trung. Quan hệ giữa các nước khu vực, cũng vì thế, bị
phân tuyến sâu sắc, thường xuyên căng thẳng giữa hai nhóm nước Đông Dương
và ASEAN. Bởi vậy, chiến tranh lạnh kết thúc mở ra cơ hội lớn cho các nước
ASEAN thực hiện ý tưởng ngay từ khi mới thành lập về thúc đẩy hợp tác, liên
kết trên quy mô toàn Đông Nam Á. Sự m
ở rộng ASEAN-6 thành ASEAN-10 là
bước phát triển có ý nghĩa nhất đối với ASEAN trong thập niên 90 của thế kỷ
XX. Đây là hệ quả tất yếu của sự điều chỉnh và thích ứng của ASEAN trước bối
cảnh quốc tế và khu vực thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Bước sang thế kỷ XXI, tình hình khu vực và thế giới tiếp tục có những
thay đổi to lớn và nhanh chóng. Để kịp thích ứng v
ới tình hình mới, ASEAN một
lần nữa lại tự điều chỉnh và đổi mới. Hướng đi cho tương lai của Hiệp hội đã
được các nước thành viên nhất trí xác định rõ ràng, đó là phải đẩy mạnh liên kết
nội khối sâu và toàn diện hơn, hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN
với ba trụ cột (chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội) vào năm 2015, dựa
trên cơ sở pháp lý chung là Hiế
n chương ASEAN. Sự kiện này mở ra bước ngoặt
2
mới đối với sự phát triển của ASEAN trong thế kỷ XXI, đưa ASEAN từ một hiệp
hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ.
Gần hai thập niên qua kể từ năm 1991, sự phát triển năng động của ASEAN
cùng với những thành tựu đạt được trong hợp tác, liên kết nội khối và những nỗ
lực mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, nhất là với các n
ước lớn, làm cho
ASEAN ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Vị thế của
ASEAN càng trở nên quan trọng hơn không chỉ xét từ góc độ địa - chính trị và
quân sự - chiến lược như trước đây, mà cả ý nghĩa địa - kinh tế và văn hoá
Cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam và các nước ASEAN là
những nước láng giềng, có quan hệ hữu nghị truyền thống gắn bó lâu đời. Vào
thời điể
m tiến hành đổi mới, Việt Nam đứng trước những khó khăn, thử thách
nghiêm trọng: kinh tế - xã hội khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa
bởi tình trạng vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc và thù
địch xiết chặt bao vây cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp trước hết là do
những trở ngại từ “vấn đề Cam-pu-chia”. Đối với Việ
t Nam, đòi hỏi bức bách
đặt ra là phải tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế
bị bao vây cô cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa đã lựa chọn.
Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức một cách sâu
sắc rằng, để có môi trường quốc tế hoà bình và ổn định đáp ứng yêu c
ầu phát
triển đất nước, thì trước tiên phải xây dựng được mối quan hệ hữu nghị với các
nước láng giềng khu vực. Do vậy, Việt Nam ngày càng chủ động đổi mới tư duy
đối ngoại, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt
thù”, từng bước hình thành và triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa, dành ưu tiên xứng đ
áng cho việc cải thiện, củng cố,
phát triển quan hệ với các nước láng giềng khu vực, trong đó có các nước
ASEAN.
Sự cải thiện quan hệ với các nước ASEAN, tiến tới gia nhập ASEAN
(7/1995) là một quá trình Việt Nam xử lý hàng loạt vấn đề đối ngoại phức tạp.
Từ sau Đại hội VI của Đảng (1986), Việt Nam chú trọng thúc đẩy đối thoại với
ASEAN, coi việc nhanh chóng đạt được giải pháp chính tr
ị toàn bộ cho vấn đề
Cam-pu-chia là khâu đột phá trong quan hệ với ASEAN. Hiệp định Pa-ri về
Cam-pu-chia được ký kết ngày 23/10/1991 mở ra bước phát triển mới của quan
hệ Việt Nam- ASEAN. Sự kiện này còn tác động tích cực đến tiến trình bình
thường hóa quan hệ Việt - Trung, Việt - Mỹ, từng bước đưa Việt Nam thoát ra
khỏi vòng bị bao vây, cô lập kéo dài của các thế lực quốc tế thù địch.
3
Từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam năng động phát triển quan hệ
với các nước trong Hiệp hội trên cả bình diện song phương lẫn đa phương.
Thành tựu đạt được trong quá trình tham gia ASEAN không chỉ giúp Việt Nam
tạo lập, củng cố môi trường hòa bình bình xung quanh đất nước, đáp ứng yêu
cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, mà còn tạo điều kiện thuận l
ợi
để Việt Nam bảo đảm những lợi ích chiến lược thiết yếu. Việt Nam tranh thủ
được các nguồn lực trong khu vực, khai thác lợi thế của ASEAN, phát huy nội
lực, phục vụ sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với ASEAN đồng
thời cũng góp phần cải thiện rõ rệt th
ế trong quan hệ của Việt Nam với các nước
lớn. Nói cách khác, nếu không là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam
với các nước lớn khó có thể phát triển như thực tế đã diễn ra. Gia nhập ASEAN
cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng, góp phần nâng cao vị thế của
Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế.
Trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam ngày càng tham
gia một cách chủ động, tích cực và đầy đủ vào mọi hoạ
t động của Hiệp hội. Qua
đó, Việt Nam có nhiều đóng góp đối với sự phát triển các lĩnh vực hợp tác chính
của ASEAN, góp phần tạo dựng nền tảng vững chắc để ASEAN đi đến quyết
định lịch sử là tăng cường liên kết, tiến tới xây dựng thành công Cộng đồng
ASEAN vào năm 2015.
Vào thời điểm 15 năm của quá trình hội nhập ASEAN, với tư cách là mộ
t
thành viên có trách nhiệm của Hiệp hội, Việt Nam tiếp tục khẳng định ASEAN
là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh
và hợp tác phát triển ở khu vực. Một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết và
thống nhất, có vai trò và vị thế quốc tế quan trọng, là hoàn toàn phù hợp với lợi
ích cơ bản và lâu dài của Việt Nam. Xét cả về hợp tác đa phương và quan hệ
song phương, ASEAN là m
ột bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và láng giềng hữu nghị của Việt
Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, quá trình hơn một thập niên Việt
Nam gia nhập ASEAN cũng đặt ra những vấn đề bức xúc, với những khó khăn,
hạn chế rất cần thiết phải khắc phục, tháo gỡ. Quan hệ Việt Nam- ASEAN vẫn
còn nh
ững biểu hiện hạn chế về chất lượng, hiệu quả và chiều sâu, còn thiếu các
nhân tố cho sự phát triển vững chắc, ổn định, lâu dài. Các mối quan hệ kinh tế,
an ninh, chính trị nhiều khi chưa gắn kết mật thiết với nhau, trong một số trường
hợp cụ thể hợp tác kinh tế - thương mại chưa theo kịp những tiến bộ đạt được
4
về chính trị, ngoại giao, chưa tạo được nhiều bước đột phá mới về chất, chưa
xây dựng được và khai thác tốt quan hệ lợi ích đan xen tùy thuộc lẫn nhau. Hợp
tác Việt Nam - ASEAN vẫn còn bị động đối phó với những vấn đề nhạy cảm và
mới nảy sinh, nhất là các vấn đề liên quan đến tranh chấp biên giới lãnh thổ, tài
nguyên thiên nhiên, khủng hoảng và suy thoái kinh tế, sự phối h
ợp hành động
trước các vấn đề khu vực và quốc tế, v.v
Những khó khăn, hạn chế trong việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao
hiệu quả hợp tác trên nhiều mặt với ASEAN, nhất là việc tháo gỡ những vấn đề
nhạy cảm còn tồn đọng, đang và sẽ tác động không thuận chiều đối với môi
trường an ninh chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong nước và tiến trình hội
nhập quố
c tế của Việt Nam, cũng như triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN.
Yêu cầu phát triển đất nước trong hội nhập quốc tế đến năm 2020 đang đòi
hỏi Việt Nam cần có một chiến lược đối ngoại hoàn chỉnh, trong đó xác định rõ
những định hướng phát triển quan hệ với ASEAN. Từ đó sẽ cụ thể hóa thành
những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm kh
ắc phục những vấn đề còn tồn đọng,
tăng cường hợp tác Việt Nam - ASEAN trong tình hình mới. Để xây dựng một
chiến lược đối ngoại như vậy, thì việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện
và thấu đáo thực tiễn 15 năm Việt Nam gia nhập ASEAN (1995 - 2010) và triển
vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN có vị trí, tầm quan trọng nổi bật trong khoa
học nghiên cứu các vấn đề quốc tế và chính sách
đối ngoại ở nước ta hiện nay.
Từ những cách tiếp cận nêu cho thấy, việc nghiên cứu đề tài
VIỆT NAM GIA
NHẬP ASEAN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY: THÀNH TỰU, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ TRIỂN VỌNG
không chỉ có ý nghĩa cấp thiết về mặt lý luận và khoa học, mà còn mang tính
chính trị thực tiễn sâu sắc đối với nước ta. Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ là một
đóng góp vào việc cung cấp luận cứ khoa học cho xây dựng một chiến lược phát
triển quan hệ của Việt Nam với ASEAN thời kỳ hội nhập và phát triển. Đặc
biệt, đề tài càng trở nên cấp thiết hơn trong bố
i cảnh Đảng ta đang tiến hành
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phục vụ việc bổ sung, phát triển Cương
lĩnh (1991) và xây dựng các văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XI, trong đó có
nội dung về quốc tế và chính sách đối ngoại.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong hơn 20 năm Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, những thành
tựu đối ngoại, hội nh
ập quốc tế thu được là hết sức ấn tượng, có sức thu hút lớn
đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Một trong những thành tựu đối
ngoại nổi bật của Việt Nam là sự phát triển quan hệ với các nước ASEAN, đặc
biệt tiến trình hội nhập năng động và ngày càng sâu rộng của Việt Nam với
5
ASEAN kể từ khi chính thức trở thành thành viên của tổ chức này (7/1995).
Tuy nhiên, cho đến nay trong nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - ASEAN cả ở
trong cũng như ngoài nước còn ít các công trình chuyên sâu và tổng hợp, phân
tích và đánh giá một cách toàn diện các mặt của quá trình 15 năm Việt Nam gia
nhập ASEAN.
2.1. Ở ngoài nước:
Trước hết, cần khẳng định trong những năm qua, đã xuất hiện nhiều công
trình nghiên cứu của các học giả nướ
c ngoài về Việt Nam nói chung, trong đó
có một số đề cập đến hoạt động đối ngoại Việt Nam. Nhưng số các công trình
lấy quan hệ Việt Nam - ASEAN từ sau năm 1995 đến nay làm đối tượng nghiên
cứu chuyên sâu thì hầu như còn quá ít ỏi. Mặc dù vậy, trong khi đánh giá vai
trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như phân tích về đường lối,
chính sách đối ngoại của Việt Nam, một vài bài viế
t đã chỉ ra những đóng góp
của Việt Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN. Trong số đó đáng chú ý là các
công trình sau:
- Vietnam's Foreign Relations: Dynamics of Change của tác giả Frank
Frost (Pacific Affairs, Vol. 67, No. 4/1995);
- Ideology and Foreign Policy: Vietnam's Marxist Leninist Doctrine and
Global Change, 1986-96 của Eeo Palmujoki (Institute of Southeast Asian
Studies, Singapore, 1999);
- Dosch, Jorn (2006), Vietnam's ASEAN Membership Revisited: Golden
Opportunity or Golden Cage?, Contemporary Southeast Asia, Journal of
International and Strategic Affairs, Volume 28, Number 2, August
- Việt Nam quan tâm đến việc xây dựng những cân bằng chiến lược mới,
của Madhur Singh (Hindustan Times, New Delhi, 20/6/2007);
- Vị thế Việt Nam tiếp tục được khẳng định trên trường quốc tế và khu
v
ực (Tổng thuật bài viết của các nhà nghiên cứu nước ngoài, Thông tin Những
vấn đề chính trị - xã hội, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, số 9-2007).
Các công trình kể trên, khi phân tích những bước điều chỉnh chính sách
đối ngoại của Việt Nam từ giữa thập niên 80 - đầu thập niên 90 của thế kỷ XX
đã khẳng định những thành tựu đối ngoại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời
cũng chỉ
ra một số điểm thay đổi chủ yếu trong quan hệ của Việt Nam với các
nước ASEAN. Tuy vậy, các công trình này mới chỉ tiếp cận một số mặt trong
chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN, chưa có được cái nhìn tổng
thể, toàn diện. Do đó, những nhận định, đánh giá của họ còn biểu hiện phiến
6
diện, nhất là lại được nhìn qua lăng kính hệ tư tưởng và lợi ích quốc gia của cá
nhân các nhà nghiên cứu.
Trong số các công trình liên quan đến đề tài ở ngoài nước, đáng chú ý hơn
cả là sự xuất hiện các bài viết và tác phẩm của các nhà nghiên cứu Trung Quốc
bàn về chính sách đối ngoại Việt Nam như: Thử bàn chiến lược ngoại giao và
chính sách ngoại giao của Việt Nam sau Chiến tranh lạnh của tác giả Trịnh Thuý
Anh (T/c Nghiên c
ứu Đông Nam Á, số 3/2001); Bàn về mở cửa đối ngoại và
chính sách ngoại giao của Việt Nam của Lưu Man Na - Triệu Thụ Hải (Học báo
Học viện Dân tộc Tây Nam, số 5/1997); Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của
Việt Nam từ khi đổi mới của Vương Quốc Bình (T/c Nghiên cứu Đông Nam Á,
số 1/2006); Ngoại giao Việt Nam từ “nhất biên đảo” đến “đi cân bằng”
của
Hoàng Thắng Vĩ (T/c Tri thức thế giới, số 11/2001), v.v Các công trình này
đánh giá cao hiệu quả hoạt động đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới, trong
đó cũng chỉ ra một số thành tựu và hạn chế trong quan hệ Việt Nam - ASEAN.
Tuy còn khá mờ nhạt, nhưng quan hệ Việt Nam - ASEAN cũng được giới
học giả nước ngoài đề cập trong một số công trình nghiên cứu chung về
ASEAN như
: Đông Nam Á- Chặng đường dài phía trước (Lim Chong Yah,
Nxb Thế giới, HN 2002); ASEAN - Tri dexatiletia vnhesnhây politiki (1967-
1997) (N.P Malentin, MIMO, 1999); A New ASEAN in the New Millennium
(Simon Tay, Jusus Estanislao, Hadi Soesastro, Centre for Strategic and
International Studies, Singapore.2001);
ASEAN Beyond the Regional Crisis:
Challenges and Initiatives (Mya Than, ISEAS. 2001;
Free Trade Agreement in
Southeast Asia (Rahui Sen, ISEAS 2004); Roadmap to an ASEAN Economic
Comunity (Denis Hew, ISEAS 2005); ASEAN Economic Co-operation (Linda
Low, ISEAS 2005); ASEAN and Regionalism (Rodolfo Severino, ISEAS.
2005); Các tác giả nêu trên, khi phân tích về tiến trình liên kết ASEAN đã có
cách nhìn khá khách quan đối với sự tham gia của Việt Nam, đồng thời nhấn
mạnh những khó khăn mà Việt Nam cũng như các nước thành viên mới khác
của ASEAN phải đối mặt khi triển khai các chương trình hợp tác, liên kết kinh
tế của Hiệp hội do sự chênh lệch về trình độ phát triển.
2.2. Những nghiên cứu trong nướ
c:
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động
đối ngoại và hội nhập quốc tế, thì ở nước ta cũng diễn ra một sự “bùng nổ” rất
đáng khích lệ của công tác nghiên cứu về quốc tế và quan hệ đối ngoại. Các nhà
nghiên cứu trong nước không chỉ ngày càng quan tâm đến những vấn đề quốc
tế, mà còn đặc biệt chú trọng các vấn đề
lý luận và thực tiễn đối ngoại Việt
7
Nam. Hàng loạt công trình nghiên cứu đã ra đời, cung cấp cho người đọc khối
lượng tri thức phong phú, đa chiều và tương đối toàn diện về đường lối, chính
sách và hoạt động đối ngoại Việt Nam, trong đó có nhiều công trình liên quan
trực tiếp quan hệ Việt Nam - ASEAN kể từ khi nước ta chính thức gia nhập
ASEAN.
Sự hiện diện một cách đông đảo các tác giả trong nước với các công
trình, bài viết liên quan trực tiếp ho
ặc gián tiếp đến chủ đề quan hệ Việt Nam -
ASEAN cho thấy rõ tính cấp thiết về khoa học và thực tiễn đối với công tác
nghiên cứu mối quan hệ này. Tựu chung lại, có thể chia thành 5 loại công trình
chủ yếu sau:
Thứ nhất: Các công trình đề cập quan hệ Việt Nam- ASEAN trong
nghiên cứu tổng thể về chính sách và hoạt động đối ngoại Việt Nam. Các
công trình này dành một dung lượng nhất định phân tích vai trò của ASEAN
trong ho
ạt động đối ngoại Việt Nam, nêu một số thành tựu và sự chuyển biến cơ
bản trong quan hệ Việt Nam - ASEAN. Đó là các công trình: Ngoại giao Việt
Nam 1945 - 2000 (Nguyễn Đình Bin, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002); Ngoại giao
Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002) (Vũ Dương Huân chủ biên,
Học viện Quan hệ Quốc tế, 2002); Quá trình triển khai thực hiện chính sách đối
ngoại của Đại hội IX Đả
ng Cộng sản Việt Nam (Trình Mưu, Nguyễn Thế Lực,
Nguyễn Hoàng Giáp đồng chủ biên, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005); Hai
mươi năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại (Vũ Khoan, trong “Việt Nam 20
năm đổi mới”, Nxb. CTQG, HN, 2006); Bước phát triển tư duy đối ngoại của
Đảng trong quan hệ các nước láng giềng và khu vực thời kỳ đổi mới (Nguyễn Thị
Mai Hoa, T/c Lịch sử Đả
ng số 5-2005); Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc
đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế (Vũ Như Khôi, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 2006); Chủ động hội nhập kinh tế, những thành tựu quan trọng (Lương
Văn Tự, trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb CTQG, HN, 2006),
Thứ hai: Các công trình nghiên cứu quan hệ Việt Nam - ASEAN
dưới góc độ tổng kết thực tiễn của các cơ quan tr
ực tiếp làm công tác đối
ngoại. Điểm nổi bật của các công trình này là đều từ thực tiễn phát triển của
mối quan hệ khái quát nên các bài học kinh nghiệm và đề xuất kiến nghị xử lý
những vấn đề đối ngoại liên quan. Một số công trình sau được hoàn thành vào
trước thời điểm diễn ra Đại hội X của Đảng và đã có những tổng kết, đánh giá
về quá trình hộ
i nhập ASEAN của Việt Nam: Tổng kết chính sách đối ngoại và
quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta qua 20 năm đổi mới (Vụ Chính sách
đối ngoại, Bộ Ngoại giao); Tổng kết chính sách và quan hệ của Đảng và Nhà
8
nước ta với khu vực Đông Nam Á từ 1986 đến nay (Vụ châu Á 2, Bộ Ngoại
giao); Tổng kết chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta và quá
trình hội nhập quốc tế của ta từ 1986 đến nay (Vụ Hợp tác kinh tế đa phương).
Thứ ba: Các công trình phân tích quá trình hợp tác và liên kết ASEAN,
trong đó quan hệ Việt Nam - ASEAN được xem xét với mức độ khác nhau.
Nhìn chung trong các công trình này, quan hệ củ
a Việt Nam với ASEAN được
đề cập trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, không ít công trình đã chỉ ra những thuận
lợi và khó khăn, vai trò và những đóng góp của Việt Nam trong liên kết khu
vực, vấn đề Việt Nam có thể tận dụng lợi thế của ASEAN đối với việc thực hiện
các mục tiêu chính sách đối ngoại của mình,… Các công trình thuộc loại này rất
đông đảo về số lượng như: ASEAN nh
ững vấn đề và xu hướng (Viện nghiên cứu
Đông Nan Á, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1997); Từ ASEAN 7 đến ASEAN 10: Một
Đông Nam Á thống nhất và thách thức (Nguyễn Quốc Hùng, Nxb. CTQG, Hà
Nội, 1998); Từ ASEAN 7 tới ASEAN 10 - Cơ hội hay là thách thức (Nguyễn Thu
Mỹ, T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/1997); ASEAN Hôm nay và triển vọng
(Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998); Tiến tới một ASEAN hoà bình, ổn định và phát
triển bền vững (Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001); Thành tựu, thách thức và triển
v
ọng giao lưu, phát triển văn hoá thông tin các nước ASEAN (Lê Thanh Bình,
T/c Nghiên cứu quốc tế, 2/2001); Thu hẹp khoảng cách phát triển- Thách thức
mới trong liên kết ASEAN (Đào Việt Hưng, T/c Những vấn đề kinh tế thế giới,
6/2002); Hợp tác và liên kết ASEAN trong những thập niên qua: Thành tựu, hạn
chế và bài học kinh nghiệm (Trần Khánh, T/c Kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương, 6/2003); Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hoá (Trần Khánh chủ
biên, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2002); Liên kế
t ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ
XXI (Phạm Đức Thành chủ biên, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2006); …
Thứ tư: Các công trình trực tiếp nghiên cứu quan hệ Việt Nam -
ASEAN và sự tham gia của Việt Nam trong các cơ chế hợp tác, liên kết
ASEAN. Các công trình thuộc loại này tập trung phân tích hợp tác của Việt
Nam với ASEAN và triển vọng trong những lĩnh vực cụ thể; một số công trình
có sự đánh giá khái quát tiến trình hội nhập ASEAN của Việt Nam
ở những giai
đoạn khác nhau. Có thể thấy rõ điều này qua một số công trình, bài viết như:
Quan hệ văn hoá Việt Nam - ASEAN: Một cách tiếp cận (Lê Đình Tự, T/c
Nghiên cứu quốc tế, 5/1997); Tiến trình mở rộng quan hệ Việt Nam - ASEAN
(Đinh Xuân Lý, T/c Cộng sản, số 15/1999); Những nhân tố thúc đẩy và hạn chế
hợp tác an ninh chính trị Việt Nam - ASEAN trong 5 năm qua (Ngô Hữu Mạnh,
T/c Nghiên cứu quốc tế
, 4/2000); Nhìn lại 5 năm hợp tác với ASEAN trong lĩnh
9
vực môi trường biển và vùng ven bờ (Nguyên Chu Hồi, Báo cáo tại Hội nghị
tổng kết 5 năm Việt Nam hợp tác với ASEAN trong lĩnh vực môi trường, HN
2000); Vai trò của ASEAN trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam (Hoa
Hữu Lân, T/c Nghiên cứu quốc tế, 3/2000); Việt Nam trong tiến trình hội nhập
vào hệ thống thương mại nội bộ ASEAN (Từ Thanh Thuỷ, T/c Những vấn đề
kinh tế thế giới, 2/2001); Đầu tư
trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN vào
Việt Nam dưới tác động của tiến trình AFTA (Nguyễn Bích Hường, T/c Những
vấn đề KTTG, 5/2003); Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương và song phương
(Vũ Dương Ninh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004); Việt Nam, vai trò và những đóng
góp đối với ASEAN (Trần Đức Cường, T/c Nghiên cứu ĐNA, 5/2004); Hướng
tới cộng đồng an ninh ASEAN: Triển vọng và vai trò của Việt Nam (Luận Thùy
Dươ
ng, T/c Nghiên cứu quốc tế, 3/2005); 40 năm hợp tác, liên kết ASEAN và
đóng góp của Việt Nam (Nguyễn Hoàng, T/c Lý luận chính trị, 8/2007); Hợp tác
liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam (Nguyễn Hoàng Giáp,
Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị Quế, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008);…
Thứ năm: Các công trình và bài viết về sự phát triển quan hệ của
Việt Nam với từng nước ASEAN. Đây là một hướng nghiên cứu đa dạng v
ề
hình thức, từ hội thảo khoa học đến bài viết và nhiều tác phẩm chuyên khảo,
đồng thời cũng rất phong phú về nội dung, bao gồm nhiều lĩnh vực từ chính trị,
an ninh đến kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật Chẳng hạn các công trình
như: Giao lưu và hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước láng giềng (Bùi
Danh Lưu, Nxb Giao thông, Hà Nội, 2003); Tổng quan hợp tác kinh tế, thương
mạ
i giữa Việt Nam và Lào (1991-2001) (Nguyễn Hoàng Giáp, T/c Những vấn
đề KTTG, 4/2001); 35 năm quan hệ láng giềng gần gũi Việt Nam - Cam-pu-
chia (Vũ Dương Huân, T/c Nghiên cứu quốc tế, số 4/2002); Ba mươi năm quan
hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào (1977-2007) (Nguyễn Hào Hùng, T/c
Nghiên cứu ĐNA, 8/2007); Quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia trong bối cảnh
mới (Hội thảo khoa học quốc tế, ngày 30/5/2007 của Viện KHXH Việt Nam);
Quan hệ kinh tế biên giới Việt Nam- Cam-pu-chia
(Trần Văn Tùng, T/c Cộng
Sản, số 2+3/2006); Quan hệ Việt Nam- Xinh-ga-po từ 1975-2007 (Luận án tiến
sĩ, Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2008), Quan hệ với các nước láng giềng
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam từ năm 1991 đến nay (Đề tài cấp Bộ
năm 2009, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, do Nguyễn
Hoàng Giáp làm chủ nhiệm),…
Nhìn chung, với số lượng lớn và nội dung phong phú, tất cả các công
trình, bài viết nêu trên đã phác họa một cách tổng quát tiến trình hội nhập khu
10
vực của Việt Nam. Nhiều công trình trong số đó đã đi sâu luận bàn một số khía
cạnh của quan hệ Việt Nam - ASEAN từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN trở lại
đây. Và đây thực sự là những tài liệu hết sức quan trọng, hữu ích có thể khai
thác, kế thừa và tham khảo trong quá trình nghiên cứu về nội dung của đề tài
“Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 đến nay: Thành tựu, vấn đề
đặt ra và
triển vọng”. Mặc dù, phần lớn các công trình đó, về cơ bản là phân tích các mối
quan hệ đơn lẻ của Việt Nam với các nước ASEAN, hoặc trong một lĩnh vực cụ
thể nào đó của quan hệ Việt Nam - ASEAN. Hơn thế, một số công trình, bài
viết cũng mới chỉ tập trung chủ yếu vào việc giải thích hoặc minh họa chính
sách đối ngoại theo quan điểm củ
a Đảng, mà chưa thật sự có sự khái quát trong
chiều sâu lý luận cần thiết, đồng thời cũng chưa có những đột phá trong việc
đánh giá, dự báo chiều hướng, triển vọng của quan hệ Việt Nam - ASEAN. Đây
là những vấn đề rất cần thiết phải được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ trên cơ sở
phân tích thực tiễn và động thái phát triển của mối quan hệ này.
3. Mục tiêu, nhiệm v
ụ nghiên cứu của đề tài
3.1.Mục tiêu của đề tài
Dựa trên sự phân tích tiến trình Việt Nam tham gia ASEAN từ 1995 đến
nay, đề tài làm rõ những thành tựu, khó khăn hạn chế và vấn đề đặt ra trong quan
hệ Việt Nam - ASEAN; từ đây dự báo triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN và
đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt Nam trong hợp
tác, liên kết ASEAN đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
1) Nghiên cứu một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn của việc Việt Nam gia
nhập ASEAN, những nhân tố tác động đến sự vận động quan hệ Việt Nam -
ASEAN từ năm 1995 đến 2010.
2) Phân tích những thành tựu, khó khăn hạn chế và vấn đề đặt ra trong
quan hệ Việt Nam - ASEAN k
ể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN đến 2010,
chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và khó khăn hạn chế đó.
3) Phân tích và dự báo triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN đến năm 2020.
4) Nghiên cứu cơ sở khoa học và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hơn
nữa chất lượng, hiệu quả hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN đến năm 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở
lý luận: Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ quốc tế. Đề tài
11
vận dụng những quan điểm cơ bản về đối ngoại, về đoàn kết và hợp tác quốc tế,
về mối quan hệ với láng giềng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tình hình thế giới, về hoạch định
và triển khai đường lối đối ngoại đổi mới (Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X
và các Nghị quy
ết Hội nghị TW về đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế), coi đây
là nguồn cung cấp những căn cứ lý luận, định hướng tư tưởng và khoa học để
thực hiện đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành và liên ngành, chủ yếu là:
+ Phương pháp nghiên cứu kết hợp lịch sử với lôgic: Vận dụng quan đ
iểm
lịch sử để nêu rõ tính kế thừa, đồng thời làm nổi bật những điều chỉnh trong quan
điểm chính sách của Việt Nam đối với các nước ASEAN trong các giai đoạn
khác nhau của thời kỳ đổi mới. Mặt khác, nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam -
ASEAN được đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể sau chiến tranh lạnh.
+ Phương pháp nghiên cứu hệ thống: Qua đ
ó đem lại sự hiểu biết về hệ
thống các quan điểm đối ngoại, hệ thống các khái niệm trong nhận định tình
hình khu vực và thế giới, hệ thống về đường lối chính sách đối ngoại của nước
ta thời kỳ Đổi mới, đặc biệt là từ năm 1991 đến nay
+ Phương pháp nghiên cứu quốc tế: Đặt quan hệ của Việt Nam - ASEAN
và quá trình hội nhậ
p của Việt Nam với ASEAN trong những xu thế chung của
quan hệ quốc tế, để từ đó phân tích các nhân tố tác động vào quá trình vận động
của quan hệ Việt Nam - ASEAN.
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phân tích từ các sự kiện, các số
liệu và từ các cuộc tiếp xúc để đánh giá khách quan mặt được và mặt chưa được
trong quan hệ của Việt Nam với các nước ASEAN.
+ Phương pháo dự báo: Nêu lên xu hướng phát tri
ển của tình hình thế
giới đến năm 2020 trên những cứ liệu khoa học đáng tin cậy. Từ đó đưa ra
những dự báo về triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN, cũng như đề xuất các
giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác,
liên kết ASEAN đến năm 2020.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài có ý nghĩa lý luận và th
ực tiễn sau đây:
12
- Góp phần luận giải một cách khoa học và làm rõ thêm những quan điểm
cơ bản trong chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển quan hệ với
ASEAN trong giai đoạn hiện nay, chỉ rõ những bước điều chỉnh linh hoạt và sự
bổ sung nội dung chính sách đó trên cơ sở những nhận thức mới của Đảng ta
trước thực tiễn mới trong nước và quốc tế thời k
ỳ sau chiến tranh lạnh.
- Góp phần bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiên cứu về quan hệ quốc tế
và chính sách đối ngoại Việt Nam nói chung, chính sách và quan hệ với
ASEAN nói riêng trong thời kỳ đổi mới.
- Đối với các ngành khoa học có liên quan, đề tài sẽ góp phần cung cấp
những nhận thức mới về chính sách của Việt Nam đối với một trong những đối
tác được ưu tiên hàng đầu của Việt Nam hiện nay là ASEAN. Mặt khác, nâng
cao thêm nh
ận thức về sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo của Đảng ta đối với tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thông qua tiến trình 15 năm nước ta tham gia
hợp tác, liên kết trong khuôn khổ ASEAN.
- Góp phần cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn đối với việc hoạch
định chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong củng cố, phát triển quan hệ với
các nước ASEAN từ nay đến năm 2020, đáp ứng yêu cầ
u bảo đảm an ninh, phát
triển và hội nhập quốc tế của đất nước.
- Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích đối với những cán bộ hoạt động
trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng và an ninh. Với ý nghĩa trên, sau khi được
nghiệm thu, đề tài sẽ là nguồn tư liệu phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu
về chính trị quốc tế, quan hệ quốc tế và chính sách đố
i ngoại trong hệ thống
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Đề tài có
cấu trúc gồm 3 phần:
Phần thứ nhất: Việt Nam gia nhập ASEAN và những nhân tố chủ yếu
tác động đến quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến nay
Phần thứ hai: Những thành tựu, khó khăn hạ
n chế và vấn đề đặt ra trong
quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến nay
Phần thứ ba: Triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN và một số giải
pháp tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt trong hợp tác liên kết ASEAN
đến năm 2020.
13
Phần thứ nhất
VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU
TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN
TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY
1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ LIÊN KẾT KHU VỰC
1.1. Khái niệm về liên kết khu vực, chủ nghĩa khu vực và các hình
thức biểu hiện của chủ nghĩa khu vực trong quan hệ quốc tế hiện đại
* Về liên kết khu vực
Liên kết khu vực "là một trong nhiều hình thức liên kết, liên minh, tập
hợp lực lượng đã và đang tồn tại trong lịch sử nhân loại. Đây là kiểu liên kết đa
phương giữa các nước, nhóm nước, dự
a trên cơ sở gần gũi về mặt địa lý và
thường được bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế"
1
.
Theo khái niệm này, các quốc gia có vị trí địa lý gần gũi nhau, tuy khác
nhau về thể chế chính trị, về trình độ phát triển kinh tế, về văn hóa, tôn giáo,…
song đều có một nhu cầu chung là hợp tác để tăng cường thế và lực của quốc
gia trên trường quốc tế, thì có thể liên kết với nhau tạo nên một thực thể kinh tế
- chính trị - xã hội mới. Và cho đến nay sự phát triển các mô hình liên kết ở
phạm vì không gian khu v
ực đang thể hiện đó là một quy mô thích hợp đối với
việc điều tiết nền kinh tế thế giới.
* Về chủ nghĩa khu vực
Lý luận về chủ nghĩa khu vực được phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ
XX gắn liền với kinh nghiệm thực tế là quá trình hội nhập của khu vực Tây Âu
với sự phát triển nhiều tr
ường phái lý luận khác nhau. Trong đó phải kể đến lý
luận của trường phái liên chính phủ (intergovernmentalism) đứng đầu là Stanley
Hoffmann với quan điểm cho rằng tiến trình hội nhập không có nghĩa là các
quốc gia tham gia hội nhập mất đi quyền lực của mình, tiến trình hội nhập chủ
yếu phụ thuộc vào ý chí của các chính phủ thành viên, và do vậy nó mang tính
chất liên chính phủ nhiều hơn là tính chất siêu quốc gia. Thực chất của sự h
ội
nhập là việc các quốc gia thành viên tự nguyện tham gia vào các hiệp định
nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề chung trên cơ sở sự đồng thuận và nhất trí
giữa họ.
Cuối những năm 80, đầu những năm 90 thế kỷ XX, sự phát triển của xu
thế toàn cầu hóa và những tiến triển trong quá trình hội nhập trên thực tế giữa
1
Trần Khánh, Liên kết ASEAN - Xét từ góc độ lý luận của khu vực hóa, Tạp chí Cộng sản , số 47 - 2003
14
các quốc gia ở khu vực châu Á, châu Phi và châu Mỹ với sự ra đời của rất nhiều
các tổ chức khu vực, các khối kinh tế khu vực và tiểu khu vực, các khu vực mậu
dịch tự do,… khiến cho những lý luận về chủ nghĩa khu vực được bổ sung và có
bước phát triển mới trên cơ sở chắt lọc các tư tưởng lý luận về hội nhập khu
vực, được gọi là "ch
ủ nghĩa khu vực mới" để phân biệt với những lý luận của
thời kỳ trước (còn được gọi là lý luận cổ điển về chủ nghĩa khu vực).
"Chủ nghĩa khu vực mới" được giới học giả nhìn nhận và phân tích từ
nhiều góc độ. Trong mối quan hệ giữa chủ nghĩa khu vực với toàn cầu hóa,"chủ
nghĩa khu vực mới" là phản ứ
ng, và ở một chừng mực nào đó, là sự điều chỉnh
những tác động tiêu cực có thể phát sinh từ tiến trình toàn cầu hóa. Từ góc độ
kinh tế-chính trị, "chủ nghĩa khu vực" những năm 90 của thế kỷ XX là sự biểu
hiện tập trung của cạnh tranh quyền lực kinh tế-chính trị trong nền kinh tế toàn
cầu, trong bối cảnh đan xen giữa các dòng chảy liên khu vực và trong nội b
ộ
khu vực
2
. Chủ nghĩa khu vực mới không chỉ thuần túy coi nhà nước là chủ thể
chi phối tiến trình hội nhập mà còn đề cập đến vai trò của các nhân tố phi nhà
nước như mạng lưới các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia và các lực lượng
xã hội trong khu vực. Không chỉ nhấn mạnh yếu tố sự phụ thuộc lẫn nhau về
kinh tế - chính trị đối với tiến trình hội nhập khu vực, chủ ngh
ĩa khu vực mới
còn thừa nhận vai trò không nhỏ của các yếu tố tư tưởng và bản sắc văn hóa.
Một đặc trưng khác biệt với chủ nghĩa khu vực cổ điển trước đây là chủ
nghĩa khu vực mới mang tính chất "mở", toàn diện và đa dạng về hình thái và
thành phần (chủ nghĩa khu vực cổ điển mang nặng tính chất đóng và bảo hộ
với
những hạn chế trong các lĩnh vực hợp tác và tập trung vào nhân tố nhà nước).
Tính chất mở của chủ nghĩa khu vực thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất là xu thế mở rộng số lượng thành viên của các tổ chức hợp tác
khu vực. Dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa, trong hai thập kỷ gần đây, thị
trường thế giới và khu v
ực phát triển mạnh mẽ cả về tốc độ và quy mô, các tổ
chức khu vực đều có nhu cầu nội tại tăng cường ảnh hưởng của mình trên
trường quốc tế và điều này kéo theo việc các tổ chức khu vực không còn khép
kín với số lượng thành viên ban đầu nữa (trường hợp của EU, NAFTA,
ASEAN,…).
Thứ hai là sự đa dạng về thể chế chính trị và trình độ phát triển củ
a các
thành viên tham gia vào tổ chức khu vực. Đây cũng là một yếu tố mới của tiến
trình hợp tác khu vực gắn liền với sự thay đổi của cục diện thế giới thời kỳ sau
chiến tranh lạnh.
2
Đinh Thị Hiền Lương, Chủ nghĩa khu vực các trường phái tiếp cận lý thuyết, www.hocvienngoaigiao.org.vn
15
Thứ ba là sự mở rộng hợp tác, liên kết giữa các tổ chức khu vực với nhau,
hình thành khái niệm về sự hợp tác liên khu vực. Các tổ chức khu vực không
chỉ giới hạn sự hợp tác, liên kết kinh tế của mình trong nội bộ khu vực mà còn
mở rộng hợp tác kinh tế với các khu vực khác hoặc là sự ra đời của các tổ chức
mang tính liên khu vực (APEC là một ví dụ).
Thứ t
ư là hiện tượng một quốc gia có thể đồng thời là thành viên của vài
tổ chức hợp tác kinh tế khu vực khác nhau (Ví dụ như Mỹ và Ca-na-đa vừa là
thành viên của NAFTA vừa là thành viên của APEC hay Việt Nam vừa là thành
viên của ASEAN vừa là thành viên của APEC).
* Các hình thức biểu hiện của chủ nghĩa khu vực trong quan hệ quốc
tế đương đại
Chủ nghĩa khu vực được thể hiện trên thực tế thông qua sự
hình thành các
tổ chức khu vực và liên khu vực. Sự hình thành các tổ chức này có thể dựa trên
sự gần gũi về địa lý hoặc sự tương đồng về ngôn ngữ và văn hóa và sự liên kết,
hợp tác giữa các yếu tố cấu thành tổ chức có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực như
kinh tế, chính trị, quân sự,…
Các liên kết theo khu vực dựa trên cơ sở gần gũi về đị
a lý: Đặc điểm các
nước tham gia vào liên kết này có thể có trình độ phát triển và chế độ chính trị
khác nhau. Ví dụ như trường hợp Liên minh châu Âu: thành viên của tổ chức
này bao gồm cả các nước có trình độ phát triển cao (Anh, Pháp, Đức), các nước
có trình độ phát triển trung bình (như Bồ Đào Nha, Hy Lạp) và các nước đang
phát triển (như Bun-ga-ri, Ru-ma-ni). Các nước thành viên của tổ chức ASEAN
cũng có trình độ phát triển không đồng đều như vậy và trong đ
ó còn có các
nước có thể chế chính trị khác nhau.
Các liên kết khu vực và liên khu vực dựa trên cơ sở gần gũi về truyền
thống lịch sử, văn hóa tôn giáo: Đây là xu thế lâu dài nhất trong các liên kết,
liên minh. Nó dựa trên cơ sở khách quan là sự gần gũi giữa các dân tộc về mặt
tôn giáo như Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC), Nhóm 8 nước Hồi giáo đang
phát triển (D-8); hay sự tương đồng về vă
n hóa và ngôn ngữ như Cộng đồng
Pháp ngữ (La Francophonie), Khối các nước nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha gồm 27 nước (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và 25 nước ở Trung Mỹ và Mỹ
La-tinh),
Các hình thức liên kết khu vực theo lĩnh vực, gồm:
- Liên kết trong lĩnh vực kinh tế: Là hình thức liên minh phổ biến nhất.
Nó chủ yếu gắn với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất nhưng cũng chịu
chi phố
i của các nhân tố khác. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức
16
độ nhất định cùng với việc quốc tế hóa đời sống kinh tế của các dân tộc thì cũng
bắt đầu hình thành các liên kết tập hợp đa phương của các nước trên lĩnh vực
kinh tế. Nói đến liên kết trên lĩnh vực kinh tế có thể kể đến một số tổ chức sau :
Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Thị
trường chung Đông và Nam Phi (COMESA), Cộng đồng phát triể
n miền Nam
châu Phi (SADC), Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), Hiệp định thương
mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Hiệp hội Nam Á vì sự hợp tác khu vực
(SAARC) Một số liên kết khu vực không chỉ giới hạn trong liên kết trên lĩnh
vực kinh tế mà còn mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực khác là chính trị - ngoại
giao và quân sự (như tổ chức EU và ASEAN).
- Liên kết về chính trị: Hình thành chủ yếu t
ừ sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai trên cơ sở nước có trùng lợi ích trong cuộc đấu tranh cho một hệ thống
quan hệ quốc tế về chính trị và kinh tế công bằng hơn. Đại diện cho hình thức
liên minh này có Nhóm G7, Nhóm G77.
- Liên kết về quân sự: Trong thời kỳ chiến tranh lanh, sự đối đầu giữa hai
hệ thống TBCN và XHCN đã dẫn đến hình thành các liên kết quân sự trong nội
bộ các hệ thố
ng như Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Tổ chức
Hiệp ước VACSAVA. Sau khi trật tự hai cực kết thúc, một câu hỏi được đặt ra
là liệu có cần tồn tại một tổ chức quân sự gắn liền với sự đối đầu đông tây như
NATO nữa hay không, và thực tiễn đã cho thấy, tổ chức không những được duy
trì mà còn được củng cố và m
ở rộng.
Trong trường hợp hình thành liên minh khu vực thì đối với một liên minh
kinh tế, các chính sách kinh tế của các quốc gia thành viên được điều hòa và
được cấu trúc chung. Đối với liên minh tiền tệ, các quốc gia thành viên chấp
nhận một dạng tỉ giá hối đoái cố định, hoặc là đạt tới một tài chính ngoại hối
chung. Đối với liên minh chính trị, các Nhà nước có liên quan từ bỏ những chủ
quyền chính trị của h
ọ và ủy quyền quyết định cho các thể chế trên quốc gia.
1.2. Lý thuyết khu vực hoá
Khu vực hoá đã trở thành một xu thế phát triển mạnh trên toàn thế giới
với sự ra đời của trên 40 tổ chức kinh tế, thương mại khu vực, trong đó đáng
chú ý là sự ra đời và phát triển của EU, ASEAN, APEC, ASEM, NAFTA
Hiện nay, các tổ chức kinh tế - thương mại khu vực đều dựa trên nền tảng của
Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tuân thủ các nguyên tắc của WTO, được
WTO công nhận, đều nhằm mục tiêu đẩy mạnh hợp tác, thực hiện tự do hoá,
thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, tạo lập lợi thế cạnh tranh trên trường quốc
tế, nhưng mỗi tổ chức đều chọn những lĩnh vực mà mình có lợi thế hơn để tập
17
trung nguồn lực, hợp tác chiều sâu, theo những phương thức đa dạng nhằm tạo
lợi thế cạnh tranh riêng cho khu vực.
Có thể nói bản chất của các tổ chức quốc tế và khu vực như đã nói trên là
để giải quyết vấn đề thị trường. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá là sản phẩm
của quá trình cạnh tranh giành giật thị trường gay gắt giữa các quốc gia và giữa
các thực thể kinh tế quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ, sức sản xuất ngày càng phát triển kéo theo sự đòi hỏi cấp bách
của vấn đề thị trường tiêu thụ. Với sự hợp tác quốc tế, những hàng rào cản trở
giao lưu thương mại và đầu tư ngày càng giảm đi, kinh tế thế giới ngày càng trở
thành một th
ị trường chung.
Tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, đều nỗ lực
hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển
của chính mình. Đây thực chất là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh phân chia
thị trường. Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính - tiền tệ ở châu Á và trên thế
giới trong thời gian vừa qua không những không
đảo ngược xu thế liên kết khu
vực, liên kết quốc tế về thương mại, đầu tư trên thế giới mà thậm chí còn có
phần kích thích xu thế đó phát triển.
Liên kết khu vực theo hướng khu vực hoá là một trong những hình thức
liên kết, liên minh, tập hợp lực lượng đa phương giữa các nước, nhóm nước,
dựa trên cơ sở gần gũi về mặt địa lý, và thường được bắt
đầu từ lĩnh vực kinh tế.
Nền tảng lý luận của nó bắt nguồn từ thuyết lợi thế so sánh trong thương mại
quốc tế mà người khởi xướng là David Ricardo (1772-1823). Lý thuyết này xác
định những cái lợi của thương mại bằng cách chứng minh rằng trao đổi, với
những sự chuyên môn hóa mà nó tạo nên, đem lại lợi ích cho tất cả các bên
tham gia trao đổi. Mỗi nền kinh tế địa phương
ắt sẽ có lợi trong việc chuyên
môn hóa trong một hay một số khu vực có một lợi thế so sánh, cho dù đó là
nguồn nhân công dồi dào, rẻ tiền hay là tài nguyên khoáng sản và các tiềm năng
về năng lượng như than đá, dầu mỏ, …
Lý thuyết lợi thế so sánh đối lập với lý thuyết về tự cung tự cấp. John
Stuart Mill viết: Nếu hai nước mua bán với nhau tìm cách tập trung cả khả năng
vật chất c
ủa mình để sản xuất ra những thứ mà họ hiện đang nhập của nhau, thì
nhân công và tư bản hai nước sẽ không được sử dụng có hiệu quả, cả hai nước
gộp lại sẽ không thể thu được từ nền công nghiệp của mình một lượng hàng hóa
lớn như khi mỗi nước tìm cách sản xuất, cả cho bản thân mình cũng như cho
nước kia, những của cải mà nhân công sản xuấ
t của mính thành thạo hơn. Số
18
của cải sản xuất trội ra của hai nước kết hợp với nhau tạo thành cái lợi của
thương mại.
Dựa trên lí thuyết về lợi thế so sánh, ngày nay trên thế giới đã và đang
hình thành rất nhiều tổ chức liên kết về kinh tế nhằm phát huy lợi thế tối đa của
mình. Bắt nguồn từ lí thuyết này liên kết khu vực trở thành xu hướng tất yếu
trong quá trình hội nhập, xu thế khu vực hóa là một phần của xu thế toàn cầu
hóa đang diễn ra sôi động trên thế giới.
Theo quan điểm kinh tế - chính trị, xét trên quan hệ cung - cầu, thì hội
nhập khu vực có thể được xem như là một tiến trình tác động qua lại giữa cung
và cầu ở hai cấp: cấp quốc gia và cấp khu vực. Nói cách khác, ban đầu các quốc
gia có ước vọng thu được lợi ích thông qua hợp tác với nhau, tiếp đế
n họ tiến
hành thương lượng với nhau để làm sao biến các ước vọng đó thành hiện thực.
Như vậy là nhu cầu hợp tác của các quốc gia trong khu vực chính là yếu
tố gắn kết họ lại với nhau trong quá trình hợp tác. Nhu cầu này được hình thành
trên cơ sở là sự tổng hợp của nhiều nhân tố như kinh tế, chính trị, an ninh, lịch
sử, văn hóa,… Tùy từng trường hợp mà nhân tố này hay nhân tố
khác có ý
nghĩa quyết định tuyệt đối hay tương đối đối với quá trình hợp tác khu vực.
Ngày nay, các chủ thể của tiến trình liên kết khu vực do những đòi hỏi cần tôn
trọng bản sắc và tính đặc thù của nhau nên cần phải tiến hành thương lượng với
nhau. Quá trình thương lượng này được quyết định bởi các yếu tố sau:
Thứ nhất là sự phân bố quyền lực giữa các bên tham gia th
ương lượng:
khi sự phân bố quyền lực giữa các bên tham gia là cân bằng hoặc tương đối cân
bằng thì quá trình thương lượng sẽ gặp nhiều thuận lợi, nhưng trên thực tế thì
trường hợp này ít khi xảy ra. Thông thường thì sự phân bố quyền lực giữa các
bên tham gia thương lượng là không cân nhau, có bên mạnh hơn, bên yếu hơn,
và điều này thường dẫn đến tình thế là bên mạnh hơn tìm cách gây áp lực với
bên yế
u hơn để giành thêm lợi thế, và khi đó thường dẫn đến tranh chấp giữa
các bên, gây cản trở cho quá trình hợp tác.
Thứ hai là cơ chế tiến hành thương lượng: bao gồm các thể chế và thể lệ
ra quyết định. Sự dàn xếp giữa các chủ thể về mặt thể chế sẽ tạo điều kiện cho
các bên được tiếp cận thông tin một cách tốt nhất, quá trình thương lượ
ng diễn
ra tốt hơn và các bên có điều kiện giám sát việc thực hiện các thỏa thuận của
các thành viên khác.
Thứ ba là nội dung thương lượng (còn gọi là chương trình nghị sự): đây
là nhân tố quan trọng của quá trình thương lượng. Chương trình nghị sự mà mỗi
nước đưa ra thể hiện lợi ích quốc gia và thương lượng là một tiến trình hoà giải
19
các lợi ích đó. Sự đồng nhất lợi ích giữa các quốc gia càng lớn thì nội dung hợp
tác giữa hai khu vực mở rộng hơn
Thứ tư là vấn đề thành viên: đây là một vấn đề nan giải trong các cuộc
thương lượng, bởi vì số lượng thành viên tăng lên đồng nghĩa với việc tính đa
dạng của các quốc gia thành viên và lợi ích quốc gia tăng lên, và điều đó gây
cả
n trở cho việc tìm ra giải pháp chung thỏa mãn lợi ích của các bên trong các
vến đề liên quan.
1.3. Lý thuyết “về sự phụ thuộc" trong liên kết kinh tế khu vực
Liên kết kinh tế khu vực là quá trình gắn kết nền kinh tế thị trường của
một quốc gia với nền kinh tế thị trường khu vực thông qua các biện pháp tự do
hóa và mở rộng thị trường ở các cấp độ đơn phương, song phương và đa
ph
ương. Quá trình liên kết khu vực là quá trình hội nhập từ hai quốc gia riêng
biệt trở lên cùng nhau hình thành các khối kinh tế khu vực rộng lớn.
Về hình thức, liên kết kinh tế khu vực được diễn ra theo hai hình thức:
liên kết thể chế và liên kết phi thể chế. Hình thức liên kết thể chế là một hình
thức liên kết chặt chẽ nhất trong một tổ chức mà ở đó buộc các nền kinh tế
thành viên phải cam kết th
ực hiện theo đúng quy định của tổ chức. Hình thức
phi thể chế là hình thức tham gia của các nền kinh tế trên cơ sở tự nguyện và
không có tính pháp lí chặt chẽ như hình thức theo thể chế. Hình thức này
thường phổ biến nhất theo hình thức diễn đàn.
Về các cấp độ liên kết, theo nhà kinh tế học người Anh Balassa, thì có 5
cấp độ liên kết kinh tế từ thấp đến cao như sau : khu vực th
ương mại tự do, liên
minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế và liên minh toàn diện. theo
5 cấp độ này, liên kết trong khu vực hiện nay chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc
hình thành khu vực thương mại tự do. Các cấp độ khác cũng đang được các
nước trong khu vực quan tâm hướng tới.
Nội dung liên kết kinh tế khu vực hiện nay được thể hiện rõ qua các lĩnh
vực chủ yếu như thươ
ng mại, đầu tư, tài chính tiền tệ.
Trong lĩnh vực thương mại: Tự do hóa thương mại khu vực là nội dung
đầu tiên và quan trọng nhất trong tất cả các liên kết kinh tế của khu vực. Mức
đầu tiên và thấp nhất của liên kết trong lĩnh vực thương mại là việc hình thành
các khu vực thương mại tự do (FTA) trong đó loại bỏ các hàng rào thuế quan
giữa các đối tác mà không cần đến một chính sách chung ho
ặc sự di chuyển tự
do các yếu tố tài chính, lao động. Hầu hết tất cả các quốc gia có nền kinh tế
tương đối phát triển trong khu vực đều đã chủ động tham gia vào các FTA này.
Liên kết trong lĩnh vực thương mại không chỉ là tham gia vào các FTA, các nền
20
kinh tế trong khu vực cũng ngày càng ký kết nhiều các hiệp định thương mại
song phương. Hiệp định thương mại thường mang ý nghĩa chính trị giữa hai bên
ký kết và là công cụ để mặc cả, vì vậy nó không chỉ được kí kết giữa hai đối tác
thương mại ở gần nhau mà có thể cách xa nhau về địa lí, trên nguyên tắc dành
cho nhau những ưu đãi hơn hẳn so với liên kết khu vực và đa phương.
Trong lĩnh vực đầu tư: Liên kết đầu tư cũng ngày càng được chú ý trong
khu vực. Mục tiêu liên kết đầu tư của các nền kinh tế là xây dựng một môi
trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng và hấp dẫn, thu hút được ngày càng nhiều
các nhà đầu tư nước ngoài và tăng cường dòng lưu chuyển vốn đầu tư lẫn nhau
trong khu vực.
Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ: Đây là hình thức thiế
t lập các thỏa thuận
tài chính khu vực dần hướng tới xây dựng các chính sách tỉ giá thống nhất giữa
các nước. Tổ chức liên kết khu vực có sự liên kết về tài chính tiền tệ sớm nhất
là EU. Kể từ ngày 1/1/2002 đồng Euro đã chính thức được lưu hành trong 12
quốc gia thành viên (khu vực đồng Euro).
Những thay đổi về kinh tế, xã hội và kĩ thuật cùng với sự gia tăng của
toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng làm cho nh
ững kết cấu của trật tự thế
giới trở nên phức tạp hơn và phần nào đã làm suy yếu (mặc dù có thể không chủ
định) quyền tự trị của mỗi quốc gia.
Trong trường hợp hình thành các khu vực tự do trao đổi, các rào cản
thương mại bị hủy bỏ giữa các nước có liên quan đối với toàn bộ sự lưu thông
hàng hóa, và không tồn tại chính sách thương mại chung đối v
ới các nước thứ
ba. Điều này diễn ra trong trường hợp một liên minh thuế quan mà ở đó các
biểu thuế hải quan chung đối với các nước thứ ba được thỏa thuận trong khi đối
với các quốc gia ở bên trong nội khối, thuế hải quan và các rào cản thương mại
phi quan thuế (hạn ngạch nhập khẩu, những hạn chế xuất khẩu tự nguyện) đã bị
hủy b
ỏ. Một thị trường chung thể hiện một liên minh quan thuế trong đó các
dịch chuyển của các nhân tố sản xuất như là lao động và vốn giữa các nhà nước
thành viên hoàn toàn được tự do hóa.
1.4. Liên kết ASEAN xét từ góc độ lý thuyết khu vực hoá, so sánh liên kết
ASEAN với các loại hình liên kết khu vực khác (EU, Mỹ La-tinh, châu Phi, Nam Á)
* Liên kết ASEAN xét từ góc độ lý thuyết khu vực hoá
Như đã đề cập ở trên, nền tảng của lý thuyế
t khu vực hóa bắt nguồn từ
thuyết “Lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế” với các bước tạo lợi thế so
sánh đó là:
- Ký kết và thực thi các Hiệp định ưu đãi mậu dịch song phương