Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phương pháp tính giá trên cơ sở hoạt động (abc ) trong doanh nghiệp sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.49 KB, 9 trang )

Kế toán Quản trị

GVHD: ThS. Lê Văn
Nam
PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ TRÊN CƠ SỞ HOẠT ĐỘNG (ABC ) TRONG
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
(ACTIVITY BASED COSTING METHOD IN MANUFACTURING BUSINESS)
Mục lục
I. Giới thiệu bài luận ......................................................................................................................... 1
II.Khái quát về phương pháp ABC ................................................................................................. 2
1. Tổng quan ................................................................................................................................. 2
2. Những bất cập trong phương pháp kế toán chi phí truyền thống ............................................ 2
3. Những ưu điểm của phương pháp ABC ................................................................................. 4
III. Ví dụ minh họa cho việc áp dụng phương pháp ABC ............................................................... 6
IV. Kết luận ..................................................................................................................................... 8
V. Tài liệu tham khảo: ..................................................................................................................... 8
******************************************************************
I. Giới thiệu bài luận
Trong quá trình hội nhập kinh tế ngày nay, sự cạnh tranh diễn ra một cách khốc liệt và
mạnh mẽ. Các doanh nghiệp không ngừng cải tiến và đổi mới nếu không muốn bị đào thải và
bật ra khỏi vòng quay của sự phát triển đó. Để có thể tồn tại và phát triển, các nhà quản trị cần
có những quyết định chính xác, kịp thời nắm bắt được cơ hội kinh doanh. Đồng thời để giúp
cho doanh nghiệp có thể tồn tại một cách vững chắc, các nhà quản trị cần nhận thức rõ vai trò
của chi phí phát sinh trong doanh nghiệp mình. Chi phí là một trong những nhân tố trung tâm
trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà quản trị. Chính chi phí ảnh hưởng
đến lợi nhuận, tài sản, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, đối với một doanh
nghiệp sản xuất, vai trò của kế toán quản trị chi phí ngày càng được đề cao.
Kế toán quản trị ở nước ta mới hình thành trong vài năm gần đây. Một câu hỏi đặt ra là việc áp
dụng các phương pháp tính giá sản phẩm hiện đại liệu có thể được thực hiện. Bài viết nhằm giới
thiệu phương pháp tính giá theo hoat động, giúp cho người đọc làm quen với một phương pháp
khác về kế toán chi phí, từ đó có thể cung cấp những kiến thức hữu ích cho các nhà quản trị


doanh nghiệp để có định hướng vận dụng một công cụ quản lý hiệu quả hơn. Với sự phát triển
không ngừng của kế toán quản trị, việc áp dụng phương pháp kế toán chi phí truyền thống ngày
càng tỏ ra không phù hợp và đang gặp nhiều những bất cập. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến
việc ra quyết định của nhà quản trị rằng nên chọn phương án này hay phương án kia, nên đầu tư
vào sản phẩm này hay sản phẩm kia…Như vậy, quản trị doanh nghiệp cần có một phương pháp
kế toán mới khoa học hơn, hiện đại hơn để có thể đáp ứng được những nhu cầu cấp thiết trên.
Ý thức được tầm quan trọng đó, bài luận đã đi sâu vào nghiên cứu phương pháp kế toán
chi phí mới, đó là phương pháp kế toán chi phí dựa trên hoạt động (ABC – Activity Based
Costing). Phương pháp này cung cấp thông tin cần thiết và chính xác để các nhà quản trị đưa ra
những quyết định kinh doanh sáng suốt, dẫn dắt doanh nghiệp vững bước trên con đường kinh
doanh của mình.
SVTH: Huỳnh Công Danh – 35K16.1

Trang
1
Kế toán Quản trị

GVHD: ThS. Lê Văn
Nam
II.Khái quát về phương pháp ABC
1. Tổng quan
Sơ đồ dưới đây trình bày khái quát quy trình và nguyên tắc cơ bản của phương pháp ABC.
Bước 1: Toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ được tập hợp và phân bổ cho từng hoạt động theo
mức tiêu hao chi phí thích hợp.
Bước 2: Căn cứ vào mức độ tham gia của từng hoạt động vào quá trình sản xuất, kinh doanh sản
phẩm để phân bổ chi phí các hoạt động vào giá thành sản phẩm.
Như vậy, về cơ bản phương pháp ABC khác với phương pháp truyền thống ở hai điểm. Thứ
nhất, giá thành sản phẩm theo ABC bao gồm toàn bộ các chi phí phát sinh trong kỳ, kể cả các
chi phí giá tiếp như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Thứ hai, phương pháp ABC
phân bổ chi phí phát sinh vào giá thành mỗi sản phẩm dựa trên mức chi phí thực tế cho mỗi hoạt

động và mức độ đóng góp của mỗi hoạt động vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nói
cách khác, phương pháp ABC phân bổ chi phí vào giá thành sản phẩm dựa trên mối quan hệ
nhân quả giữa chi phí - hoạt động - sản phẩm. Kết quả là giá thành sản phẩm phản ánh chính
xác hơn mức chi phí thực tế kết tinh trong mỗi đơn vị sản phẩm.
2. Những bất cập trong phương pháp kế toán chi phí truyền thống
Theo phương pháp kế toán chi phí truyền thống, giá thành sản phẩm chỉ bao gồm chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, và chi phí sản xuất chung. Trong đó, chi
phí sản xuất chung thường được phân bổ cho từng sản phẩm dựa trên một tiêu thức phân bổ cố
định (ví dụ: phân bổ theo tỷ lệ chi phí nhân công trực tiếp). Việc phân bổ toàn bộ chi phí chung
theo một tiêu thức phân bổ cố định như vậy là không phù hợp bởi chi phí chung bao gồm nhiều
khoản mục có bản chất khác nhau, có vai trò và tham gia với mức độ khác nhau vào quá trình
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ: chi phí khấu hao máy móc, chi phí khởi động dây chuyền
sản xuất, chi phí nghiên cứu phát triển sản phẩm không tỷ lệ thuận với chi phí nhân công trực
SVTH: Huỳnh Công Danh – 35K16.1

Trang
2
Kế toán Quản trị

GVHD: ThS. Lê Văn
Nam
tiếp. Vì vậy, áp dụng một tiêu thức phân bổ cố định cho toàn bộ chi phí chung khiến cho giá
thành thực tế của sản phẩm bị phản ánh sai lệch.
Vấn đề thứ hai đối với phương pháp kế toán chi phí truyền thống là khái niệm giá thành sản
phẩm chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là “giá thành sản xuất”, theo đó các chi phí gián tiếp như chi
phí quản lý, chi phí bán hàng không được tính vào giá thành sản phẩm. Trên thực tế các doanh
nghiệp khi tính “giá thành toàn bộ” có phân bổ các chi phí quản lý và chi phí bán hàng vào giá
thành sản phẩm. Tuy nhiên, tiêu thức phân bổ thường dựa trên sản lượng tiêu thụ, tức là cũng
không phù hợp như phân tích ở trên. Ngoài ra, trong các phân tích có sử dụng thông tin về giá
thành sản phẩm thì các doanh nghiệp thường sử dụng giá thành sản xuất chứ không sử dụng giá

thành toàn bộ.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá và dịch vụ, của kinh tế thị trường, phương pháp kế
toán chi phí truyền thống với hai đặc điểm nêu trên đã tỏ ra không còn phù hợp, làm giảm giá trị
của thông tin kế toán đối với công tác quản lý kinh doanh. Trong nền kinh tế còn kém phát triển,
chi phí trực tiếp cấu thành phần lớn giá trị sản phẩm. Do đó, việc phân bổ chi phí gián tiếp dù
không hợp lý, thậm chí bỏ qua không phân bổ vào giá thành sản phẩm các chi phí bán hàng, chi
phí quản lý cũng không ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm. Ngày nay, cùng với sự phát
triển của kinh tế thị trường, sự ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, chi phí
gián tiếp này càng đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng cao trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp. Ví dụ: chi phí nghiên cứu phát triển của các công ty dược, chi phi
quảng cáo của các công ty nước giải khát, các nhà sản xuất phim. Do mức độ trọng yếu của các
chi phí gián tiếp này, việc không phân bổ hay phân bổ không hợp lý sẽ khiến cho giá thành sản
phẩm bị phản ánh sai lệch, cản trở việc ra quyết định tối ưu của các nhà quản lý.
Thứ hai, trong một nền kinh tế chưa phát triển, cạnh tranh chưa gay gắt, các doanh nghiệp (đặc
biệt là các doanh nghiệp có sản phẩm đặc thù) có thể chủ động trong việc xác định giá bán cao
hơn nhiều so với giá thành sản phẩm. Mức lợi nhuận cao đó khiến cho thiệt hại do những quyết
định kinh doanh không tối ưu trở nên khó nhận biết hơn. Ví dụ, do xác định giá thành không
chính xác nên một doanh nghiệp có thể định giá bán thấp hơn giá thành thực tế cho một sản
phẩm. Tuy nhiên mức lỗ do định giá sai đó sẽ được bù đắp bởi mức lãi cao của các sản phẩm
khác. Kết quả là thiệt hại được giảm đi đáng kể. Ngược lại, trong một nền kinh tế thị trường
phát triển, mức độ cạnh tranh khốc liệt khiến cho các doanh nghiệp không thể tự do xác định giá
bán sản phẩm (trừ một số ít doanh nghiệp độc quyền). Thay vào đó, thị trường sẽ quyết định
mức giá bán. Trong điều kiện đó, những sai sót trong việc xác định giá thành sản phẩm có thể
khiến cho các doanh nghiệp phải trả giá đắt.
Ví dụ: Doanh nghiệp A sản xuất 2 mặt hàng R và V. Giá thành thực tế (tính theo ABC) và giá
thành tính theo phương pháp truyền thống như sau:
Sản phẩm R
(1.000đ)
Sản phẩm V
(1.000đ)

Giá thành thực tế (ABC) 87 (45+20+22) 90 (25+20+45)
Giá thành theo phương pháp truyền thống 95 75
Như vậy phương pháp tính giá thành truyền thống đã làm cho giá thành sản phẩm R bị phản ánh
cao hơn thực tế 8.000 đồng, đồng thời giá thành sản phẩm V bị phản ánh thấp hơn thực tế
15.000 đồng. Điều này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chiến lược kinh doanh của Doanh nghiệp
SVTH: Huỳnh Công Danh – 35K16.1

Trang
3
Kế toán Quản trị

GVHD: ThS. Lê Văn
Nam
A? Giả sử giá thị trường của hai sản phẩm R và V lần lượt là 92.000 đồng và 85.000 đồng. Nếu
dựa trên thông tin về giá thành sản phẩm (không chính xác) theo phương pháp truyền thống thì
Doanh nghiệp A có thể quyết định sai lầm: ngừng sản xuất sản phẩm có lãi là R và tập trung sản
xuất sản phẩm thực chất không có lãi là V (giả định hai loại sản phẩm sử dụng nguồn lực giống
nhau). Kết quả là càng sản xuất Doanh nghiệp A càng bị lỗ.
3. Những ưu điểm của phương pháp ABC
Phương pháp ABC được giới thiệu đầu tiên vào giữa thập kỷ 80, bởi Robert Kaplan và
Robin Cooper, trước hết nhằm giải quyết hai nhược điểm của phương pháp kế toán chi phí
truyền thống nêu trên. Theo phương pháp ABC, giá thành sản phẩm không chỉ bao gồm chi phí
sản xuất mà là toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh, bao gồm cả các chi phí gián tiếp như chi phí
bán hàng, chi phí quản lý. Như trình bày ở trên, do tỷ trọng chi phí gián tiếp ngày càng lớn, việc
không phân bổ các chi phí này vào giá thành sản phẩm có thể dẫn tới những ngộ nhận về mức
lợi tức sản phẩm và do đó sai lầm trong ra quyết định kinh doanh. Ví dụ, một sản phẩm mới có
thể có giá thành công xưởng nhỏ hơn các sản phẩm hiện tại, nhưng đòi hỏi một khoản chi phí
marketing lớn để đưa ra thị trường. Nếu chỉ căn cứ vào giá thành công xưởng thì có thể thấy sản
xuất sản phẩm đó sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn, nhưng nếu phân bổ đủ cả chi phí marketing
tăng thêm thì có thể sản phẩm đó sẽ bị lỗ.

Cùng với việc phân bổ toàn bộ các chi phí vào giá thành sản phẩm, phương pháp ABC
sử dụng một hệ thống các tiêu thức phân bổ được xây dựng trên cơ sở phân tích chi tiết mối
quan hệ nhân quả giữa chi phí phát sinh cho từng hoạt động và mức độ tham gia của từng hoạt
động vào quá trình sản xuất và kinh doanh sản phẩm, thay vì chỉ sử dụng một tiêu thức phân bổ
(ví dụ chi phí nhân công trực tiếp) như phương pháp truyền thống. Các tiêu thức phân bổ do đó
phản ánh chính xác hơn mức độ tiêu hao nguồn lực thực tế của từng sản phẩm. Theo đó, ABC
sẽ giúp các nhà quản lý tránh được những quyết định sai lầm do sử dụng thông tin không chính
xác về giá thành như trình bày ở trên. Ngoài ra, bên cạnh việc cung cấp thông tin chính xác về
giá thành, ABC còn cung cấp thông tin chi tiết về cơ cấu chi phí của từng sản phẩm, giúp cho
nhà quản lý có thể linh hoạt hơn trong việc lập kế hoạch ngân sách cũng như điều chỉnh các
chính sách, chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp trong điều kiện thị trường luôn biến động.
Như vậy, có thể thấy phương pháp ABC cung cấp thông tin giá thành chính xác và hợp
lý hơn so với phương pháp kế toán chi phí truyền thống. Tuy nhiên, đó chỉ là một trong những
mục tiêu của ABC. Việc áp dụng ABC còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả công tác quản lý
doanh nghiệp thông qua các ứng dụng sau.
Để xây dựng được hệ thống các tiêu thức phân bổ chi phí, yêu cầu đầu tiên là phải xác
định được toàn bộ các hoạt động diễn ra trong doanh nghiệp trong một chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Bước thứ hai, doanh nghiệp cần xác định mức chi phí cho mỗi hoạt động trong từng kỳ.
Cuối cùng, mức đóng góp của từng hoạt động vào từng sản phẩm được xác định. Với những
thông tin chi tiết như vậy, các nhà quản lý có thể dễ dàng phân loại các hoạt động trong doanh
nghiệp theo các nhóm: các hoạt động có mức đóng góp cao vào giá trị sản phẩm (high value
adding activities), các hoạt động có mức đóng góp thấp (low value adding activities), và các
hoạt động không đóng góp, thậm chí là nhân tố cản trở quả trình sản xuất kinh doanh (non-value
adding activities/constraints). Trên cơ sở hiểu rõ tầm quan trọng của các hoạt động, nhà quản lý
có thể đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bằng cách loại bỏ
những hoạt động không có đóng góp vào giá trị sản phẩm, tổ chức lại các hoạt động có mức
SVTH: Huỳnh Công Danh – 35K16.1

Trang
4

Kế toán Quản trị

GVHD: ThS. Lê Văn
Nam
đóng góp thấp nhằm nâng cao hơn mức đóng góp của các hoạt động này. Ngay đối với các hoạt
động có mức đóng góp cao, ABC cũng cung cấp thông tin về quá trình phát sinh chi phí, nguyên
nhân phát sinh chi phí cho các hoạt động, qua đó tạo cơ hội cắt giảm chi phí kinh doanh. Cần
lưu ý việc cắt giảm chi phí kinh doanh ở đây được xét trên phạm vi tổng thể. Tức là nhà quản lý
có thể tăng chí phí cho một hoạt động cụ thể nào đó nhằm nâng cao mức đóng góp của hoạt
động đó vào quá trình sản xuất kinh doanh, qua đó giảm giá thành sản phẩm.
Ngày nay, trong một nền kinh tế thị trường phát triển, một xu hướng khá phổ biến là
việc các doanh nghiệp không còn tự mình thực hiện toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh
nữa mà chỉ tập trung vào một số khâu có hiệu quả nhất. Các công đoạn khác sẽ được thuê ngoài
(outsource). Ví dụ, năm 2005 hãng sản xuất máy bay Airbus công bố outsource 70% các công
đoạn trong quá trình sản xuất máy bay. Để ra quyết định outsource, các doanh nghiệp cần có các
thông tin chi tiết về toàn bộ các hoạt động của mình, chi phí cho từng hoạt động, vai trò của
từng hoạt động trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó các nhà quản lý có
thể xác định được các hoạt động nào không thể thuê ngoài vì lý do bảo mật công nghệ hoặc vì
đó là các hoạt động có tính chất sống còn nên doanh nghiệp phải luôn chủ động kiểm soát, các
hoạt động doanh nghiệp có lợi thế so sánh nên tự thực hiện sẽ hiệu quả hơn thuê ngoài, và các
hoạt động thuê ngoài sẽ hiệu quả hơn. Có thể thấy rằng phương pháp ABC cung cấp toàn bộ các
thông tin này với mức độ tin cậy cao hơn nhiều so với phương pháp truyền thống.
Một ưu điểm nữa của phương pháp ABC so với phương pháp truyền thống là trong khi
phương pháp truyền thống chỉ cung cấp thông tin về mức chi phí thì phương pháp ABC còn
cung cấp thông tin về quá trình và nguyên nhân phát sinh chi phí. Việc hiểu rõ quá trình và
nguyên nhân phát sinh chi phí không chỉ giúp tìm ra biện pháp thích hợp để cắt giảm chi phí mà
còn giúp cho nhà quản lý có thể xây dựng được một cơ chế đánh giá và khuyến khích nhân viên
phù hợp, góp phần quan trọng nâng cao hiệu suất làm việc của nhân viên, qua đó cải thiện hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể, các thông tin do ABC cung cấp cho phép
nhà quản lý có thể thấy rõ mối liên hệ giữa ba yếu tố: chi phí phát sinh - mức độ hoạt động -

mức độ đóng góp vào sản phẩm. Việc hiểu rõ mối liên hệ này sẽ làm thay đổi tư duy quản lý từ
chỗ tìm cách cắt giảm chi phí sang nâng cao giá trị doanh nghiệp. Theo đó, một sự tăng chi
phí sẽ không phải là không tốt nếu như lợi ích tăng thêm (incremental benefit) cao hơn chi phí
tăng thêm (incremental cost), và do đó tạo ra giá trị tăng thêm (incremental value). Theo phương
pháp kế toán truyền thống, mối liên hệ này là không rõ ràng, theo đó các doanh nghiệp có xu
hướng xây dựng cơ chế khuyến khích gắn với việc giảm chi phí, gián tiếp hạn chế các cơ hội
làm tăng giá trị doanh nghiệp do nhân viên chỉ trú trọng tiết kiệm chi phí thay vì tìm cách tạo ra
giá trị gia tăng. Việc áp dụng phương pháp ABC sẽ cho phép doanh nghiệp có thể xây dựng một
cơ chế đánh giá và khuyến khích nhân viên dựa trên mức độ tạo ra giá trị gia tăng thay vì dựa
trên chí phí, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp.
Cuối cùng, việc áp dụng phương pháp ABC còn góp phần hỗ trợ hoạt động marketing
trong việc xác định cơ cấu sản phẩm cũng như chính sách giá. Đặc biệt trong trường hợp doanh
nghiệp có nhiều mặt hàng thì việc đàm phán với khách hàng hay xử lý đơn hàng một cách
nhanh chóng đòi hỏi phải có thông tin chi tiết về giá thành cũng như cơ cấu chi phí của từng sản
phẩm, qua đó có thể xác định các mức giá tối ưu cho các đơn hàng khác nhau với cơ cấu sản
phẩm khác nhau. Nắm được các thông tin chi tiết và chính xác về chi phí cho các sản phẩm còn
giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc cải tiến (customization) sản phẩm của mình nhằm
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường bằng cách đưa thêm vào sản phẩm những giá trị gia
tăng trong điều kiện chi phí còn cho phép. Đồng thời, doanh nghiệp cũng có thể chủ động xây
SVTH: Huỳnh Công Danh – 35K16.1

Trang
5

×