Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

LUẬN VĂN: Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.92 KB, 65 trang )






LUẬN VĂN:

Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng Công thương Thanh Xuân







LỜI MỞ ĐẦU

Nền kinh tế càng phát triển thì ngành dịch vụ càng phát triển đặc biệt là lĩnh vực tài chính
ngân hàng - lĩnh vực đóng vai trò huyết mạch cho sự phát triển của nền kinh tế. Ngành
ngân hàng Việt Nam đang ở chặng đầu của sự phát triển đang cần có nhiều đổi mới và
phát triển để đạt được những chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng.
Trong kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam thì lợi nhuận từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong thu nhập của hầu hết các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên đây cũng
là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng. Do đó việc quản lý rủi ro tín dụng là một đòi hỏi bức thiết để
đảm bảo hạn chế rủi ro và xử lý rủi ro sao cho thiệt hại mà ngân hàng gặp phải là thấp
nhất đồng thời phải hướng đến chuẩn mực quốc tế và phù hợp với môi trường hội nhập.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu trên, sau thời gian thực tập ở trường
cũng như qua thời gian thực tập tại Phòng Quản lý rủi ro thuộc Ngân hàng Công thương
Thanh Xuân, em đã chọn đề tài:


" Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân".
Kết cấu đề tài của em gồm 3 phần:
 Chương 1: Rủi ro tín dụng và Quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
 Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại NHCT Thanh Xuân
 Chương 3: Hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng tại NHCT Thanh Xuân.









CHƯƠNG 1
RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.

1.1. Tổng quan về NHTM và hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, và thực
hiện các chính sách kinh tế,các chính sách tiền tệ vì vâỵ là kênh quan trọng trong chính
sách kinh tế của Chính phủ nhằm phát triền kinh tế ổn định.
Hiện nay có rất nhiều các khái niệm khác nhau nói về NHTM
Theo Peter .S.Rose thì : “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ
thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Theo luật các Tổ chức tín dụng của nước Việt Nam thì “ Hoạt động Ngân hàng là hoạt
dộng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền

gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2. Hoạt động tín dụng của NHTMĐ
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỉ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM vào khoảng 70%
tổng tài sản, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng có nghĩa là sự tin
tưởng và tín nhiệm lẫn nhau.
Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hànng cho khách hàng. Đây là quan hệ vay mượn
gồm cả đi vay và cho vay. Đây là hoạt động sinh lời lớn nhất nhưng cúng mang lại rủi ro
cao nhất cho NHTM.
Theo luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam thì “ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín
dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”.
“ Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền
với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
1.1.3. Đặc trưng cơ bản của hoạt động tín dụng:
Hoạt động tín dụng của NHTM là một lĩnh vực hết sức đa dạng và phức tạp. Để có thể tìm
hiểu về nó, chúng ta cần nghiên cứu những nét đặc trưng quan trọng của nó:
- Tín dụng là hoạt dộng sinh lời lớn nhất của ngân hàng: Ngân hàng sử dụng phần
lớn nguồn tiền huy động của mình để cho vay và thu lãi. Do vậy, hiệu quả từ hoạt động
cho vay rất quan trọng và ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của Ngân hàng, ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
- Đây là hoạt động có mức độ rủi ro tiềm ẩn rất cao. tổn thất xảy ra sẽ làm giảm thu
nhập dự kiến của ngân hàng, có thể gây thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng. Có rất nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng của
khách hàng. Hơn nữa trình độ nghiệp vụ, chuyên môn và đạo đức của cán bộ tín dụng
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả cho vay của NH. Vì vậy, rủi ro khi cho vay là
điều không thể tránh khỏi.
- Ngân hàng thực hiện cấp tín dụng dưới hai hình thức chủ yếu là cho vay và cho
thuê. Trong những năm gần đây hoạt động tín dụng của ngân hàng còn bao gồm : chiết
khấu giây tờ có giá, bảo lãnh ( tái bảo lãnh)…
- Tín dụng ngân hàng tuân theo nguyên tắc hoàn trả: Người đi vay phải cam kết hoàn

trả vốn và lãi trong thời gian xác định. Các khoản tín dụng của Ngân hàng đều sử dụng
chủ yếu các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn, Ngân hàng
luôn phải hoàn trả các khoản vay này đúng hạn vì vậy ngân hàng luôn yêu cầu người sử
dụng tín dụng phải hoàn trả khoản vay đúng hạn.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị khoản vay: ( tính đến giá trị thời
gian của tiền). Để thực hiện được nguyên tắc này, ngân hàng cần tính đến nhiều yếu tố
như: tỷ lệ lạm phát, các thay đổi lãi suất.
1.1.4. Phân loại tín dụng NHTM
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỉ trọng lớn nhất trong bảng mục tài sản tại các NHTM,
phản ánh hoạt dộng đặc trưng của Ngân hàng. Tín dụng cũng được chia theo nhiều tiêu
thức khác nhau:
1.1.4.1. Phân chia theo thời gian : Tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
Việc phân chia này cũng ảnh hưởng lớn và có ý nghĩa quan trọng với ngân hàng
Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống , và tín dụng ngắn hạn nhàm tài trợ cho tài sản
lưu động, nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, doanh nghiệp hoặc cá nhân
Tín dụng trung hạn: Từ 1 năm đén 5 năm và tài trợ cho phương tiện vận tài, một số giống
cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng bị hao mòn…
Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm và tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà cửa, sân
bay, cầu đường, các công trình có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu dài…
Tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt
và khan hiếm hơn.
1.1.4.2. Cho vay theo hình thức tài trợ: Bao gồm cho vay, bảo lãnh, cho thuê, chiết
khấu…
Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Đây là việc ngân hàng đưa tiền cho
khách hàng với cam kết khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian đã cam
kết.
Chiết khấu là việc ngân hàng ứng trước cho khách hàng một khoản tiền tương ứng với giá
trị của thương phiếu mà khách hàng mang đến trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
hữu thương phiếu chưa đến hạn.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền của mình ra mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng

và cho khách hàng thuê lại theo thỏa thuận, sau 1 thời gian thì khách hàng vẫn phải trả lại
cho ngân hàng cả gốc và lãi
Bảo lãnh ( tái bảo lãnh) là việc ngân hàng đứng lên cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng của mình khi khách hàng của mình không thực hiện được đúng
nghĩa vụ như cam kết.
1.1.4.3. Tín dụng theo hình thức đảm bảo
Thông thường, về mặt nguyên tắc, thì mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có tài sản
đảm bảo. Đây là một cam kết đảm bảo của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản của
mình đang sở hữu hoặc sử dụng để trả nợ cho ngân hàng. Ngoài ra thì có trường hợp các
khoản tín dụng của ngân hàng không có tài sản đảm bảo, trường hợp này chỉ áp dụng đối
với các khoản cho vay đối với chính phủ hoặc các tổ chức tài chính lớn, các công ty mà
ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng
1.1.4.4. Tín dụng phân loại theo rủi ro:
Đây là những khoản tín dụng gồm các khoản có mức độ an toàn cao, khá trung bình và
thấp. Phân loại các khoản tín dụng này bao gồm: tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề,
Tín dụng lành mạnh : Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
Tín dụng có vấn đề : bao gồm các khoản nợ qúa hạn khó đòi hoặc các khoản nợ không có
khả năng thu hồi vốn. Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như : khách hàng
chậm trả lãi và gốc do tiêu thụ châm hàng hóa, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách
hàng bị gặp thiên tai
1.1.4.5. Phân loại khác
Xét theo các ngành kinh tế : có ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ…
Xét theo đối tượng tín dụng có : Tài trợ cho tài sản cố định hay tài sản lưu động
Xét theo mục đích vay vốn có: Vay vốn cho sản xuất, tiêu dùng…
Như vậy, việc phân loại tín dụng theo nhiều tiêu chí khác nhau sẽ cho thấy tính đa dạng
hoặc chuyên môn hóa trong các cấp tín dụng của các ngân hàng và đây sẽ là căn cứ để
ngân hàng mở rộng phạm vi tài trợ và duy trì thế mạnh sẵn có của mình.
1.1.5. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
1.1.5.1. Khái niệm rủi ro:
Trong cuộc sống ta thường xuyên nghe tháy thuật ngữ “rủi ro” và cũng thường xuyên phải

đối mặt với “rủi ro”. Vậy rủi ro là gì? Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến.,
đây là sự bất trắc cụ thể lien quan đến việc xuất hiện một biến cố ngoài dự kiến và không
mong đơi của con người. Rủi ro luôn xuất hiện trong bất cứ lúc nào và bất cứ lĩnh vực nào
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Kinh doanh tiền tệ - tín dụng cũng phải cháp nhận điều đó, và
thực tế thì không một ngành kinh doanh nào mà rủi ro lại lớn như kinh doanh tiền tệ
1.1.5.2. Các loại rủi ro phổ biến trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Rủi ro luôn gắn liền với hoạt động của NHTM, phản ánh các tình huống có thể xảy ra có
thể gây tổn thất cho ngân hàng. Rủi ro làm tăng nguy cơ gây phá sản ở các ngân hàng, có
thể phân các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng thành:
- Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng do khách hàng vay trả
không đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ cả vốn cả lãi. Khi thực hiện khoản vay
cho một khách hàng, ngân hàng thường không dự kiến khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất.
Tuy nhiên hầu hết những khoản cho vay đều hàm chứa rủi ro.Vì vậy tỉ lệ tổn thất dự kiến
đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn được xác định trong chiến lược hoạt động,
thành công trong quản lí, rủi ro tín dụng, chính là khi tổn thất dưới mức tỉ kệ tổn thất dự
kiến.
- Rủi ro thanh khoản:
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản
vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán và
dẫn đến phá sản.
- Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng khi tí giá hối đoái thay
đổi so với dự tính. Trong cơ thế thị trường hiện nay thì tỉ giá thường xuyên dao động.
Điều này sẽ tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên vẫn có những
thay đổi tỉ giá ngoài dự kiến gây tổn thất cho ngân hàng.
- Rủi ro lãi suât
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi xuất thay đổi ngoài dự
tính. Lãi suất của ngân hàng thường xuyên biến đổi với các mức độ khác nhau dưới tác động
của nhiều yếu tố khác nhau và có thể dẫn đến tổn thất.

- Rủi ro do thay đổi của yếu tố lạm phát và sự thay đổi của chính sách và rủi ro khác như
các khả năng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán, hoả hoạn và các trường
hợp khác.
1.1.6 Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.6.1. Khái niệm và bản chất của rủi ro tín dụng
Theo xu hướng phát triển của các ngân hàng thì các NHTM không chỉ muốn mở rộng hoạt
động tín dụng mà còn muốn nâng cao chất lượng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các
khoản tín dụng. Để có thể cấp 1 khoản tín dụng cho hách hàng, ngân hàng luôn phải xét
đến các yếu tố rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng và xét các biện pháp mà khách hàng đảm
bảo cho khoản vay đó. Tuy nhiên thì chưa có một nhà kinh doanh ngân hàng nào có thể
dự đoán chính xác có thể xảy ra cũng như ngăn chặn được hoàn toàn những rủi ro đó. Do
vậy có thể nói rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, là bạn đường trong
kinh doanh, chỉ có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ.Vì vậy việc xác định rủi
ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của các ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến mà ngân hàng buộc phải
chịu do khách hàng vay không trả nợ đúng hạn, không trả hoặc trả không đầy đủ vốn và
lãi vay
Theo qui định của NHNNVN “ Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam
kết.”
1.1.6.2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
- Nguyên nhân bất khả kháng:
Trong những hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày, các nhà đầu tư, kinh doanh luôn
phải đối mặt với các biến cố không mong muốn như : thiên tai, chiến tranh hoặc những
thay đổi tầm vĩ mô của chính phủ, chính sách kinh tế, chính sách thuế… và đều vượt quá
tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Thông thường, khách hàng vay luôn có ý định trả nợ đúng hạn cho ngân hàng tuy nhiên
họ laị không thể trả vì nhiều lý do, điều kiện sản suất kinh doanh không thuận lợi, trình độ

quản lý còn hạn chế về tổ chức, về khả năng nắm bắt thông tin, dự báo các biến động của
nên kinh tế thế giới… do vậy họ làm ăn thua lỗ và không thể thực hiện được nghĩa vụ trả
nợ của mình đối với ngân hàng
+ Nguyên nhân khách quan
 Thị trường đầu vào không ổn định: Giá cả của các yếu tố đầu vào chịu tác động
của nhiều yếu tố khách quan như giá xăng dầu, tỷ giá, giá nguyên vật liệu nhập khẩu. Khi
giá của các yếu tố này tăng bất lợi sẽ làm giảm lợi nhuận và ảnh hưởng đến khả năng trả
nợ của doanh nghiệp.
 Thị trường đầu ra biến động: Thị trường đầu ra bị thu hẹp dẫn tới việc không
tiêu thụ được sản phẩm hoặc giá cả thị trường của sản phẩm giảm thấp cũng làm nguồn
thu của khách hàng bị giám sút.
+ Nguyên nhân chủ quan;
 Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích: Đó là việc khách hàng sử dụng vốn vay
không đúng với mục đích đã ghi trong đơn xin vay vốn. Khách hàng có thể sử dụng vốn
vào kinh doanh không dung đối tượng, sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn
hay vào các mục đích kinh doanh mà bị cấm không được kinh doanh, vào những lĩnh vực
có nhiều rủi ro
 Khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng gặp nhiều yếu kém; Do trình độ
tổ chức, quản lý của người quản lý còn yêu kém, thiếu kinh nghiệm trong quản lý và kinh
doanh , không nhanh nhạy trước những diến biến của thị trường do đó sẽ bị rơi vào thế bị
động. Kết quả là doanh nghiệp không phát triển được, dự án thất bại và không có khả
năng trả nợ ngân hàng.
 Khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng: Khách hàng cung cấp những thông tin
sai lệch để được vay vốn, sau khi vay xong có thể sẽ cố tình không trả nợ ngân hàng mà
chạy trốn,
 Ngoài ra còn 1 số nguyên nhân khác như: người vay không thực hiện được
nghĩa vụ vì chết, mất tích hoặc các tài sản đảm bảo bị mất, bị giảm giá….
- Nguyên nhân thuộc về phía ngân hàng:
Ngân hàng có thể đưa ra quyết định sai lầm do không nắm bắt được đầy đủ hoặc chuẩn
xác các thông tin về khách hàng, khả năng tài chính, quản trị, kết quả hoạt động kinh

doanh, hiệu quả dự án,…
Ngoài ra còn do chính sách cho vay của ngân hàng không phủ hợp, quy trình thẩm định
thiếu chặt chẽ. Nếu chính sách tín dụng không rõ ràng, đầy đủ và hợp lý và thống nhất thì
dễ dẫn đến việc những khoản cấp tín dụng thấp, thiếu hiệu quả hay như việc mở rộng tín
dụng mà không quan tâm đến chất lượng tín dụng.
Trình độ năng lực của cán bộ thẩm định còn yếu kém dẫn đến những nhận định sai lầm
và cho vay không đạt hiệu quả. Cán bộ tín dụng không am hiểu vể lĩnh vực mình sẽ cho
vay nên sẽ xác định sai hiệu quả và dự án và khả năng trả nợ của khách hàng. Trình độ
đạo đức và nghề ngiệp của cán bộ tín dụng không tốt cũng là nguyên nhân lớn dẫn đến rủi
ro tín dụng. Trong tình hình kinh tế thị trường hiện nay, nhiều cán bộ ngân hàng phẩm chất
yếu kém đã chạy theo đồng tiền, tham ô, tiếp tay cho khách hàng rút vốn của ngân hàng gây
nên rủi ro tín dụng.
- Nguyên nhân khác:
+ Thông tin không cân xứng:
Đó là tình trạng mà khi có một giao dịch mà một bên không biết rõ ràng, đầy đủ những
thông tin mà họ cần biết về bên kia thì được gọi là thông tin không cân xứng
+ Lựa chọn đối nghịch: Xảy ra khi người đi vay có khả năng không trả được nợ, gây rủi
ro cho ngân hàng nhưng lại luôn tìm mọi cách để có thể được vay vốn tại ngân hàng. Do
vậy khoản vay được cung cấp cho khách hàng sẽ bị rủi ro.
+ Rủi ro đạo đức:
Đó là việc khách hàng sau khi đã vay được tiền của ngân hàng thì sử dụng sai mục đích,
hoặc cố tình không trả nợ ngân hàng gây nên tình trạng không trả được tiền cho ngân
hàng.
Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng rủi ro tín dụng cho ngân hàng bao
gồm cả những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan và khó có thể kiểm soát
được. Vì vậy các ngân hàng cần phải có những biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro ở
mức thấp nhất.
1.1.6.3 Các chỉ tiêu phản ánh và đo lường rủi ro tín dụng
Bản chất của rủi ro tín dụng là khách quan và ngân hàng không thể loại trừ song ngân
hàng phải quản lý tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra

được mà chỉ có thể hạn chế. Vì vậy trong hoạt động quản lý ngân hàng cần đặt ra các chỉ
tiêu phản ánh rủi ro tín dụng để thông qua đó có thể quản lý rủi ro hiệu quả hơn. Các ngân
hàng khác nhau thì có thể sử dụng các chỉ tiêu khác nhau để phù hợp với ngân hàng mình
, tuy nhiên có các chỉ tiêu cơ bản sau:
- Nợ quá hạn / Nợ xấu và tỷ lệ nợ quá hạn / Nợ xấu trên tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ nợ xấu trên quỹ dự phòng tổn thất
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng
không trả được khi đến hạn thỏa thuận đã được ghi trên hợp đồng tín dụng cho ngân hàng.
Nợ quá hạn là biểu hiện đặc trưng của rủi ro tín dụng. Việc phát sinh nợ quá hạn là điều
khó tránh khỏi nhưng nếu nợ quá hạn phát sinh quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến tình trạng mất
khả năng thanh toán của ngân hàng
Ngoài ra có thể hiểu nợ quá hạn là một phần hoặc toàn bộ nợ gốc hoặc/và lãi không được
khách hàng trả như trên hợp đồng. Nếu không được điều chỉnh kỳ hạn nợ, hoặc gia hạn nợ
thì số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn khi đó khách hàng phải chịu lãi suất nợ
quá hạn.
Công thức xác định nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá han = Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu rất cần thiết, và theo tiêu chuẩn hiện nay thì nợ quá hạn ở dưới mức 5% là
có thể chấp nhận được
Nợ quá hạn có thể phân chia thành nhiều tiêu thức khác nhau:
 Căn cứ và khả năng thu hồi
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ tuy đã quá hạn nhưng khách hàng
có thiện chí muốn trả nợ và xét về tiềm lực tài chính của khách hàng thì có thể trả nợ
được. Bao gồm
. Nợ quá hạn có khả năng thu hồi 100%
. Nợ quá hạn có khả năng thu hồi 1 phần
+ Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: Mặc dù ngân hàng đã tìm mọi cách thu hồi
nhưng không thể thu hồi được vốn cho vay. Đối vói loại này , khả năng thu hồi vốn của
ngân hàng là cao vì vậy cần phải có biện pháp để đề phòng rủi ro.

 Căn cứ vào nguyên nhân gây ra nợ quá hạn
+ Nguyên nhân từ phía khách hàng
Do khách hàng cố tình lừa đảo để chiếm dụng vốn của ngân hàng hoặc do trình độ quản lý
của khách hàng còn quá nhiều yếu kém dẫn đến làm ăn thua lỗ, kinh doanh kém hiệu quả
mất khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng
+ Nguyên nhân từ phía ngân hàng:
Do nhiều cán bộ ngân hàng trình độ còn nhiều yếu kém, không phân tích đúng khả năng
tài chính của khách hàng. Hoặc có thể do những cán bộ ngân hàng bị đồng tiền cám dỗ bị
mua chuộc để chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
+ Nguyên nhân khách quan:
Do nhiều nguyên nhân như: Thiên tai, hỏa hoạn… những thay đổi từ môi trường khách
quan.
 Căn cứ vào thành phần kinh tế:
+ Nợ quá hạn thuộc thành phần kinh tế quốc doanh
+ Nợ quá hạn thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
- Nợ có vấn đề
Để đảm bảo an toàn, sau khi cấp tín dụng cho khách hàng ngân hàng cần thưòng xuyên
giám sát câc khỏan tín dụng đã cấp để theo dõi việc khách hàng có sử dụng vốn vay đúng
mục đích hay không và hiệu quả hoạt động của đồng vốn cho vay ra sao. Hoạt động giám
sát của ngân hàng để phát hiện ra các khoản vay có vấn đề để có những hành động và biện
pháp kịp thời để ngăn ngừa và xử lý.
Nợ có vấn đề là những khoản tín dụng cấp cho khách hàng không thu hồi được hoặc có
dấu hiệu không thu hồi được theo đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. Nợ có vấn đề
bao gồm những khoản vay trong hạn, nợ gia hạn nhưng không thu hồi được, nợ không
thanh toán đúng kỳ hạn, đã quá hạn thanh toán.
Nợ xấu bao gồm nợ nhóm 3,4,5
Hạng III
( Nợ dưới tiêu
chuẩn)
Tình hình hoạt động kinh doanh hoặc tình hình công nợ của

khách hàng tại tất cả cá TCTD có một trong những tiêu thức sau:

- Tình hình hoạt động kinh doanh bị lỗ
- Tình hình công nợ tại tất cả các tổ chức tín dụng có vất kỳ
khoản nợ nào quá hạn 6 tháng hoặc có lãi chưa thu, hoặc có bất
kỳ khoản nợ nào được gia hạn nợ không đúng
Hạng IV
( Nợ khó đòi)
Tình hình hoạt động kinh doanh và tình ình công nợ của khách
hàng tại tất cả các TCTD một trong những tiêu thức sau đây
- Tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng xấu đi nghiêm
trọng , vốn chủa sở hữu bị âm hoặc bị khởi kiện, bị khởi tố hoặc
người vay bỏ trốn hoạc chết, mất tích, hay bị thu hồi giấy phép
kinh doanh, giấy phép hành nghề,…
- Tình hình công nợ tại tất cả các tổ chức tín dụng: có bất kỳ
khoản nợ nào đã quá hạn trên 6 tháng, hoặc nợ khoanh, nợ chờ
xử lý, hoặc nợ tồn đọng, nợ khó đòi, nợ cho vay thanh toán công
nợ
Hạng V
( Nợ mất vốn)
Có đầy đủ các thông tin của hạng IV và có thêm các thông tin
khác như không được Chính phủ bảo lãnh, hoặc không có TSĐB
hoặc có TSĐB nhưng không đúng quy định tại các văn bản quy
định về bảo đảm tiền vay như NĐ178/1999/NĐ-CP, thông tư
06/2000/TT-NHNN, nghị định 85/2002/NĐ-CP của chính phủ
thông tư 07/2003/TT-NHNN…
(Nguồn: Ngân hàng Công thương Việt Nam)
- Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng:
Khách hàng có quan hệ lâu dài với ngân hàng, có uy tín thị trường thì được xem là có
mức rủi ro tín dụng tiềm ẩn thấp

Các khoản nợ gốc và lãi của khách hàng không thanh toán đầy đủ hoặc chậm thanh toán
Xin ngân hàng kéo dài thời gian trả nợ hoặc xin gia hạn nợ
Có sự chậm trễ trong thanh toán tiền lương cho nhân viên
Vốn vay bị sử dụng với mục đích sai khác so với trong hợp đồng
- Tình hình tài chính và phương pháp quản lý tổ chức của khách hàng
Chậm trễ hay trì hoãn việc nộp các báo cáo tài chính, các số liệu trong báo cáo tài chính
không hợp lý hoặc thiếu chính xác
Doanh số bán hàng tăng nhưng lãi lại giảm hoặc bị lỗ
Tiền mặt giảm, vốn lưu động giảm
Hoạt động sản xuất kinh doanh không được như kế hoạch
Thu nhập không ổn định hoặc không thường xuyên
Hệ số quay vòng vốn lưu động thấp, khả năng thanh toán giảm
Các khoản nợ thương mại gia tăng một cách bất thường
Không có sự thống nhất trong hội đồng quản trị hay ban điều hành về quan điểm, mục
đích hay cách thức quản lý
Quản lý nhân sự còn nhiều yếu kém. Cơ câu không hợp lý do vậy những người có năng
lực sẽ rời khỏi công ty
Nội bộ không đoàn kết, có nhiều mâu thuẫn và tranh giành quyền lực
Nhiều chi phí không hợp lý phát sinh
- Đảm bảo tiền vay:
Hầu hết các khoản vay ngân hàng hầu hết đều có tài sản đảm bảo. Đây là một cách làm
giảm thiệt hại rủi ro của ngân hàng.Thông thường ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá TSĐB
và cho vay theo một tỷ lệ nhất định dựa trên TSĐB.Trong trường hợp khách hàng không
có khả năng hoàn trả vốn vay thì ngân hàng có thể phát mại để thu hồi vốn.
- Môi trường hoạt động của người vay
Đó là lĩnh vực kinh doanh của người vay, lĩnh vực có những ngành nghề kinh doanh
không thuộc chuyên môn của mình, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao. Hay có những yếu tố
đầu vào không thuận lợi như giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng, không nhập được
nguyên liệu đặc chủng…
- Tính đa dạng hóa trong tài sản của ngân hàng:

Cùng với việc mở rộng hoạt động tín dụng là việc ngân hàng ngày càng đa dạng hóa sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng. Rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỉ nên việc tập trung cho
một nhóm khách hàng, một ngành nghề, một lĩnh vực thì khi gặp rủi ro sẽ gây ra rủi ro
lớn cho ngân hàng vì vậy ngân hàng cần đa dạng hóa tài sản đề hạn chế rủi ro
1.1.6.4. Một sô chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
- Tổn thất tín dụng cho vay:
Tổn thất tín dụng cho vay = Giá trị bị mất trong hoạt động cho vay.
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô, giá trị tuyệt đối của tổn thất.
- Tỷ lệ tổn thất tín dụng
Tổng giá trị tổn thất trong kỳ
Tỷ lệ tổn thất tín dụng =
Doanh số cho vay trong kỳ
Chi tiêu này cho biết với mỗi một đồng vốn cho vay trong kỳ thì giá trị bị tổn thất là bao
nhiêu, chỉ số này dùng để so sánh phản ánh giá trị giữa các kỳ.
- Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng tín dụng, đo độ an toàn và đánh giá rủi ro tín dụng ,ở
Việt Nam thì tỷ lệ này là dưới 5% là chấp nhận được.
- Tỷ lệ nợ khó đòi
Nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Tổng doanh số cho vay
- Tỷ lệ nợ khoanh, xóa nợ
Nợ khoanh, xóa nợ
Tỷ lệ nợ khoanh =
Tổng doanh số cho vay
Nợ khoanh là những khoản cho vay không thu hồi được, thường là các khoản cho vay
chính sách và nhà nươc phải khoanh lại.

- Tỷ lệ miễn giảm lãi
Miễn giảm lãi
Tỷ lệ miễn giảm lãi =
Tổng doanh số cho vay
- Tỷ trọng nợ khó đòi
Nợ khó đòi
Tỷ trọng nợ khó đòi =
Nợ quá hạn
Các tỷ lệ này càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng càng cao, ngân hàng có nguy cơ mất một
phần hoặc toàn bộ nợ không thu hồi được, thậm chí ngân hàng có nguy cơ phá sản.
1.1.6.5 Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng:
a. Dấu hiệu từ phía khách hàng:
- Dấu hiệu từ các báo cáo tài chính
+ Bảng tổng kết tài sản:
o Ngân hàng không nhận được các báo cáo tài chính từ khách hàng kịp thời
o Những thay đổi rõ rệt về cơ cấu tai sản kinh doanh. Ví dụ như trong trường hợp tỷ
trọng tài sản tăng nhanh, nguyên nhân có thể là do đồng thời hàng tồn kho, tài sản cố định
tăng nhanh trong khi quá trình hoạt dộng sản xuất kinh doanh bình thường của doanh
nghiệp không yêu cầu như vậy. Hay ngược lại trong trường hợp này đó là tỷ trọng giảm
thì nguyên nhân có thể là do doanh nghiệp rút bớt tài sản dùng cho hoạt động sản xuất
kinh doanh chính do hoạt động này không sinh lời như dự tính.
o DN Tập trung vào nhiều tài sản vô hình
o Thay đổi tài khoản ngân hàng
o Thời gian thu hồi công nợ trung bình gia tăng nhanh
o Xuất hiện thêm các điều kiện gia hạn vay nợ ngân hàng hoặc khách hàng
o Chi phí chờ kết chuyển gia tăng đột biến.
+ Báo cáo về thu nhập và chi phí
o Doanh số bán hàng giảm
o Doanh số bán hàng gia tăng một cách nhanh chóng
o Mức độ chênh lệc lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng

o Doanh thu bán hàng tăng nhưng lợi nhậun lại giảm nhiều
o Các khỏan lỗ từ nợ quá hạn tăng lớn
o Xuất hiện lỗ từ hoạt động kinh doanh
o Lưu chuyển tiền ròng từ hoạt động kinh doanh âm và có kết quả âm từ 2 đến 3 kỳ
kinh doanh.
- Dấu hiệu từ hoạt động kinh doanh
o Thay đổi về phạm vi kinh doanh (ví dụ ngành hàng kinh doanh truyền thống bị thu
hẹp trong khi mở rộng các hoạt động ở các lĩnh vực mà doanh nghiệp chưa có nhiều kinh
ngiệm)
o DN Khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ người bán
o Sử dụng nguồn nhân lực kém hiệu quả
o Mất mát những dây chuyền sản xuất chínhn, quyền phân phối sản phẩm hoặc
nguồn cung cấp
o Xuất hiện những việc mua hàng tồn kho mang tính đầu cơ nằm ngoài nguyên tắc
mua hàng thông thường của doanh nghiệp.
o Hàng tồn kho có những dấu hiệu kém chất lượng, lưu hàng tồn kho với số lượng
lớn hoặc cơ cấu hàng tồn kho không phù hợp
o Khách hàng trả lại hàng hóa do chất lượng không đảm bảo
- Dấu hiệu từ giao dịch ngân hàng
o Số dư tài khỏan tiền gửi tại ngân hàng giảm
o Thời hạn của đơn xin vay thay đổi theo mùa vụ đáng kể
o Xuất hiện những chủ nợ khác đặc biệt là những chủ nợ chi nhận tài sản đảm bảo
o Khó khăn khi thanh toán với ngân hàng đặc biệt là phải gia hạn nợ
o Thanh tóan không kịp thời các khoản nợ đến hạn, phải điều chỉnh kỳ hạn nợ liên
tục
- Dấu hiệu liên quan đến quản trị doanh nghiệp
o Thay đổi thái độ đối với ngân hàng, cán bộ ngân hàng, đặc biệt là có cảm giác
thiếu tính hợp tác
o Không có khả năng thực hiện kế hoạch
o Báo cáo tài chính yếu kém

o Mạo hiểm khi mua bán, khi thực hiện công vịêc kinh doanh mới
o Nhân vật chủ chốt của doanh ngiệp ốm dài hạn hoặc chết
o Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường họăc các điều kiện
kinh tế
o Có dấu hiệu nợ lương công nhân viên
o Trình độ quản lý của doanh nghiệp kém
o Độ tín nhiệm của doanh nghiệp thấp
o Sắp có sự thay đổi về hình thức sở hữu doanh nghiệp
o b. Các dấu hiệu liên quan đến công tác quản lý tín dụng
o Quy trình cho vay không đựơc tuân thủ theo đúng quy định của ngân hàng
o Cán bộ tín dụng có mối quan hệ với khách hàng
o Lãnh đạo ngân hàng quá độc đoán trong khi xét duyệt khoản vay
o Không thể kiểm tra tài sản kinh doanh của người vay
o Giản ngân trước khi hoàn thiện hồ sơ cho vay
o Cho vay thêm nhưng lại không dùng tài sản đảm bảo hợp lý
o Không phân tích hoặc phân tích không chính xác khả năng trả nợ của ngừơi vay
o Cán bộ cho vay không kiểm tra tình trạng khoản vay một cách thường xuyên
o Vốn vay không được sử dụng đúng mục đích
o Kế hoạch trả nợ không được rõ ràng và không được ký kết bằng văn bản
- Dấu hiệu từ khoản vay
o Hồ sơ thiếu sự chặt chẽ, thiếu tính pháp lý, độ tin cậy của những thông tin trong bộ
hồ sơ bị nghi ngờ
o Giá trị thực tế của tài sản đảm bảo thấp
o Nguồn trả nợ không đúng với kế hoạch vay vốn
- Các dấu hiệu khác
o Cơ chế chính sách thay đổi làm ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh của
khách hàng vay
o Giá cả thị trường thay đổi làm ảnh hưởng trực tiếp đến đầu ra của sản phẩm mà
khoản vay đó đã đầu tư
o Tỷ giá thay đổi làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của khách hàng

1.1.6.6. Hậu quả của rủi ro tín dụng:
Ngân hàng là một ngành kinh tế rất nhạy cảm, hoạt động ngân hàng có thể chịu rất nhiều
rủi ro đặc biệt là rủi ro tín dụng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra thì sẽ gây thiệt hại trước hết
đến ngân hàng và sau đó là đến nền kinh tế.
- Rủi ro tín dụng là giảm hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra thìi một phần vốn của ngân hàngbị tồn đọng hay thất thoát trong
khoản nợ này, điều này làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng, làm giảm doanh số cho
vay và dẫn đến việc làm giảm hiệu quả hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận
Ngân hàng cho vay chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động trên thị trường và phải trả chi
phí cho khỏan vay này. Nếu hoạt động cho vay của ngân hàng có vấn đề thì ngân hàng
không những sẽ không thu đựơc lãi bù đắp chi phí mà còn có nguy cơ bị thất thoát vốn.
Khi đó lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm đáng kể
- Rủi ro làm giảm khả năng thanh toán
Nếu nhiều doanh nghiệp vay vốn ngân hàng bị đổ vỡ nhất là những doanh nghiệp vay vốn
lớn thì ngân hàng sẽ bị thất thoát một khỏan vốn lớn, trong khi ngân hàng chưa tìm được
cách khắc phục mà những người gửi tiền lại yêu cầu rút tiền thì ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong việc thanh toán với khách hàng gửi tiền, ngân hàng có khả năng lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán.
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng
Khi chất lượng tín dụng thấp, tỷ lệ nợ quá hạn cao, tức là hiệu quả hoạt động của ngân
hàng kém, người dân sẽ mất lòng tin vào ngân hàng, gây khó khăn cho việc huy động vốn,
vì vậy sẽ làm giảm lợi nhuận và ảnh hưởng tới vị thế của ngân hàng
- Rủi ro tín dụng có thể đưa ngân hàng đến bờ vực phá sản
Khi rủi ro ở mức độ cao có thể dẫn đến hàng loạt các tổn thất nêu trên, nếu không có biện
pháp kịp thời để hạn chế thì ngân hàng có thể rơi vào tình trạng phá sản
1.1.6.7. Hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM
1.1.6.7.1. Các nguyên tắc cần thiét để đảm bảo an toàn tín dụng
a, Ngân hàng chỉ cho vay khi đã hiểu rõ về khách hàng
Các ngân hàng cần xác định một cách chính xác các điều kiện cho vay phfu hợp với các

tài sản có mức độ rủi ro khác nhau và các khách hàng khác nhau. Để có điều này, thì họ
cần bỏ ra một chi phí khá lớn để tìm hiểu thông tin về khách hàng cũng như công việc của
họ, các dự án kinh doanh của khách hàng.
- Tìm hiểu về chu kỳ kinh doanh của khách hàng ở hiện tại và dự đoán được sự thay đổi
của chu kỳ trong tương lai
- Đánh giá chất lượng quản lý , tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp ngoài các
báo cáo tài chính vì để có thể dễ dàng được vay vốn thì các ngân hàng có thể nộp các báo
cáo đã chỉnh sửa mà không đúng với tình hình kinh doanh thực tế của doanh nghiệp
b, Nâng cao chất lượng tín dụng quan trọng hơn mở rộng tín dụng
Ngân hàng cần quan tâm đến điều này vì dù cho vay có được nhiều, với lãi suất cao mà
không được nợ thì cũng có thể bị phá sản.
c, Cho vay đối với các doanh nghiệp lớn thường có rủi ro thấp hơn so với doanh nghiệp
nhỏ
Mặc dù biết rằng phân tán rủi ro bằng cách đa dạng hoá nhưng thực tế thì ngân hàng
thường thích cho các doanh nghiệp lớn vay thì sẽ cảm thấy “an toàn” hơn. Ở các doanh
nghiệp lớn thường có tổ chức quản lý rộng hơn, chắc chắn hơn cũng như tiềm lực tài
chính mạnh hơn và uy tín lớn hơn các doanh nghiệp nhỏ.Do vậy khả năng tiếp cận vốn
ngân hàng của các doanh nghiệp lớn thường dễ hơn so với các doanh nghiệp nhỏ
d, Tất cả các khoản vay đểu phải có hai phương án trả nợ riêng biệt và phải ghi vào hợp
đồng tín dụng
Thông thường thì thì tài sản đảm bảo sẽ được xem là nguòn trả nợ thứ hai khi nguồn trả
nợ thứ nhất không có hay không đủ, và sẽ được phát mại khi khách hàng không trả được
nợ.
e, Các ngân hàng địa phương phải là ngân hàng cho các doanh nghiệp địa phương vay
Đó là thực hiện theo nguyên tắc ngân hàng hiểu rõ về khách hàng. Chỉ có ngân hàng địa
phương mới là người hiểu rõ nhất doanh nghiệp ở địa phương mình đồng thời có hể dê
dàng kiểm ra, giám sát cũng như nhận thấy sự thay đổi của khách hàng mình
f, Tài sản dùng làm vật thế chấp, cầm cố cho khoản vay đểu phải có tính khả thi và định
giá được
Khi định giá tài sản đảm bảo nhất thiết phải không có sự xung dột về quyền lợi nào đối

với người định giá đồng thời phải tách bạch được các loại giá trị thị trường, gía trị thanh
lý, giá trị bán bắt buộc
g, Thời gian tài trợ càng dài thì rủi ro càng lớn đòi hỏi cán bộ ngân hàng cần có chiến lược
dự báo trong dài hạn và có những theo dõi sát với biến động của người đi vay
h, Cán bộ tín dụng, người quyết định cho vay phải chịu trách nhiệm với quyết định của
mình
Mỗi một cán bộ tín dụng cần phải có trách nhiệm với khoản vay của mình, do vậy cần
phải có sự nhạy cảm, khả năng phân tích, đánh giá chính xác đồng thời phải có đạo đức
tốt. Việc đánh giá khoản vay của cán bộ tín dụng có nguy cơ đẩy ngân hàng đến tình trạng
phá sản.
i, Phải tuân thủ các điều kiện cũng như nguyên tắc cho vay theo quy định của luật và các
qui định của Nhà nước.
1.1.6.7.3 Xử lý nợ quá hạn, nợ có vấn đề
Ngân hàng thường xuyên phải phân loại các khoản nợ quá hạn hoặc nợ có vấn đề theo
nhiều tiêu thức và tiến hành xử lý các khoản nợ bằng các biện pháp thích hợp
- Cho vay thêm
Khi phương án đâu tư của khách hàng gặp khó khăn, có thể ảnh hưởng đến việc thu nợ mà
nguyên nhân do thiếu vốn, ngân hàng xét thấy khả năng phương án có thể trả nợ tốt nếu
được đầu tư thêm vốn thì có thẻ xem xét cho vay , tuy nhiên việc cho vay thêm phải dựa
theo nguyên tắc:
+ Phải thẩm định khách hàng và phương án vay thật kỹ để đảm bảo các điều kiện về
nguyên tắc cấp tín dụng theo quy chế hiện hành.
+ Phương án vay vốn phải khả thi và đảm bảo thu hồi gốc và lãi cho vay
- Bổ sung tài sản đảm bảo
Việc bổ sung tài sản đảm bảo chỉ được thực hiện khi khoản vay có nhiều biểu hiện bất ổn,
nguồn thu không rõ ràng, giá trị TSĐB cókhả năng bán thấp hơn dự nợ vay
- Chuyển nợ quá hạn
Khi xác minh những lý do xin gia hạn của khách hàng là không hợp lệ hoặc nếu chuyển
sang gia hạn thì khách hàng vẫn không có khả năng trả được nợ thì phải chuyển sang nợ
quá hạn, đồng thòi lập thông báo gửi khách hàng, bám sát nguồn thu để trả nợ

- Cơ cấu lại thời hạn trả nợ: Theo quyết định 493, có định nghĩa cụ thể: “ Nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ” là khoản nợ mà tổ chức tín dụng chấp thuận điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc
gia hạn nợ cho khách hàng do tổ chức tín dụng đánh giá khách hàng suy giảm khả năng
trả nợ gốc hoặc lãi đúng thời hạn ghi trong hợp đồngtín dụng nhưng tổ chức tín dụng có
đủ cơ sở để đánh giá khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ
đã cơ cấu lại.”
- Giảm nợ : Là những khoản vay của khách hàng dang trong hạn hoặc đã đến hạn trả nợ
nhưng khách hàng vay gặp phải rủi ro bất khả kháng như thiên tai, lũ lụt hạn hán hay các
đại dịch làm cho khách hàng bị lỗ hay tình trạng tài chính không thể trả đầy đủ và kịp
thời khoản vay.
- Xoá nợ: Đây là khoản vay củakhách hàng đang trong hạn hoặc hết hạn, ngân hàng đã sử
dụng hai biện pháp trên nhưng khách hàng vẫn không thể trả được nợ hoặc phải xoá nơ
cho những đối tượng theo chỉ thị của chính phủ.
1.1.7 Quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
1.1.7.1. Sự cần thiết của quản lý rủi ro tín dụng:
Hoạt động tín dụng ngân hàng bao gồm 2 mặt: sinh lời và rủi ro. Phần lớn các thua lỗ của
ngân hàng đều từ hoạt động tín dụng. Xong rủi ro tín dụng luôn tồn tại song song cùng
hoạt động của ngân hàng vì vậy đòi hỏi phải quản lí cẩn thận. Trước một quyết định cho
vay, cán bộ ngân hàng phải cân nhắc cẩn thận giữa sinh lời và rủi ro. Vì vậy phải quản lí
rủi ro tín dụng luôn được coi là nội dung quản lí quan trọng của hoạt động ngân hàng.
1.1.7.2 Các nguyên tắc chung trong quản lý rủi ro tín dụng
- Phân tán rủi ro:
Không nên tập trung cấp tín dụng cho một khách hàng hoặc một nhóm khách hàng có liên
quan với nhau hay các ngành nghề kinh tế có liên quan tới nhau. Theo Quyết định số
457/2005/QĐ ban hành ngày 19 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước
Việt Nam có qui định về tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt
quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, tổng mức dư nợ cho vay, bảo lãnh là 25%. Đối
với một nhóm khách hàng thì tổng dư nợ cho vay đối với một nhóm khách hàng không
được vượt quá 50% vốn tự có, tổng dư nợ và bảo lãnh là 60%
- Quy trình xét duyệt cấp tín dụng phải thông qua nhiều cấp nhiều người hoặc qua tập thể

để tránh tình trạng quyền quyết định cho vay chỉ do cán bộ tín dụng xem xét và quyết
định.
- Kiểm tra, giám sát thường xuyên: Quy trình tín dụng và các khoản cấp tín dụng phải
chịu sự giám sát và kiểm soát chặt chẽ của cán bộ và các cấp liên quan tới cấp tín dụng và
bộ phận giám sát tín dụng độc lập. Đây là các biện pháp kiểm soát hoặc điều chỉnh thích
hợp nhằm hạn chế những vi phạm nguyên tắc hoặc tổn thất gây ra do thay đổi so với nhận
định ban đầu khi cho vay. Kiểm soát phải được thực hiện xuyên suốt trước – trong và sau
khi cho vay, kiểm soát tuân thủ đúng các chính sách và quy định tín dụng, theo dõi và
đánh giá việc thực hiện phương án/ dự án vay so với nhận định ban đầu và các ảnh hưởng
có thể xảy ra nhằm điều chỉnh phù hợp với các điều kiện quản lý.
1.1.7.3 Nội dung quản lí rủi ro tín dụng:
- Quản lí các khoản tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi:
Ngân hàng luôn xây dựng chính sách sống chung cùng rủi ro vì rủi ro là tất yếu của quá
trình kinh doanh. Ngân hàng chỉ có thể hạn chế rủi ro hoặc chất lượng rủi ro. Để có thể
quản lí rủi ro, ngân hàng cần phân loại nợ quá hạn, nợ khó đòi, hoặc nợ có vấn đề. Sau đó
cần phân tích nguyên nhân, thực trạng, cách giải quyết vấn đề.
Trong trường hợp người vay có khó khăn tài chính tạm thời, xong vấn còn khả năng và ý
muốn trả nợ, ngân hàng áp dụng chính sách hỗ trợ như: cho vay thêm, ra hạn nợ, giảm lãi.
Trong trường hợp người vay lừa đảo, không có khả năng trả nợ, ngân hàng áp dụng chính sách
thanh lí như bán tài sản thế chấp, phong toả tiền gửi trên tài khoản
Xây dựng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất, dựa trên tỉ lệ rủi ro chấp nhận và danh mục
các khoản cho vay rủi ro, ngân hàng sẽ xây dựng các quỹ dự phòng. Qũy này không
những có tác dụng giảm rủi ro mà còn chống đỡ cho vốn chủ khi tổn thất xảy ra. Theo
quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đống ngân hàng nhà nước thì
các ngân hàng thương mại sẽ phải chịu các khoản dự phòng chung và dự phòng cụ thể.
Dự phòng chung: là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác
định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể hoặc trong các trường
hợp khó khăn về tài chính của ngân hàng khi chất lượng các khoản vay suy giảm. Dự
phòng
Dự phòng cụ thể: là khoản tiền được thiết lập dựa trên cơ sở phân loại nợ cụ thể để dự

phòng cho những tổn thất có thể xảy ra. Số tiền dự phòng cụ thể được tính theo công thức
dưới đây:

R=Max [0; ( ∑A - ∑C )] *r


Trong đó R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị của khoản nợ
C: giá trị của tài sản bảo đảm cho khoản nợ A tương ứng
r: tỉ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Thực hiện các qui định về an toàn tín dụng được ghi trong luật các tổ chức tín dụng và
trong các qui định của ngân hàng nhà nước.
Các qui định về những trường hợp không được cho vay đối với những đối tượng như bố
mẹ, vợ chồng, con cũng như thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát hay tổng giám
đốc (giám đốc), Phó tổng giám đốc ( Phó Giám đốc), cán bộ nhân viên của tổ chức tín
dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định hay quyết định. Các qui định về hạn chế cho vay
đối với những đối tượng như tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán
tại tổ chức tín dụng cho vay, thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại chỗ tổ chức
tín dụng cho vay, kế toán trưởng của tổ chức tín dụng cho vay. Các qui định về nhu cầu
vốn không được cho vay như để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản
bị pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, hay dùng để thanh toán các chi phí cho việc
thực hiện các giao dịch, nhu cầu mà pháp luật cấm và dùng để thực hiện việc đảo nợ…
- Xác định danh mục các khoản tài trợ với các mức rủi ro khác nhau:
Các loại khách hàng khác nhau, các đối tượng cho vay khác nhau sẽ có những mức độ rủi
ro khác nhau
+ Tín dụng thương mại: Thì rủi ro sẽ liên quan tới khả năng đánh giá tình trạng kinh
doanh và tài chính của người vay, ví dụ như khách hàng truyền thống tốt, có quan hệ lâu
năm với ngân hàng sẽ có mức độ rủi ro thấp hơn. Đối với cho vay thương mại thì rủi ro
chủ yếu sẽ là do những tác động của thị trường đối với người vay như hàng bán giảm sút,
giá nguyên liệu tăng, thiên tai, sự cạnh tranh trong thị trường hàng hoá

+ Cho vay tiêu dùng: Đây sẽ là những rủi ro liên quan đến thu nhập của người vay và khả
năng kiểm soát thông tin về người vay vì trong những trường hợp này thì thông tin thường
ít, ngân hàng sẽ khó kiểm soát thông tin của người vay và sẽ khó thu nợ, công ăn việc làm
của người vay thường không ổn định
+ Cho vay đối với các trung gian tài chính như các ngân hàng thương mai, các tổ chức tài
chính phi ngân hàng. Phần lớn các khoản vay này không có tài sản đảm bảo do vậy nếu
các tổ chức này bị phá sản thì ngân hàng cho vay sẽ bị phá sản

×