1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, với việc thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới
kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn với tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, trên 8%/năm. Trong quá trình hội nhập mạnh mẽ với nền kinh tế thế
giới, nền kinh tế trong nước đang có những chuyển biến tích cực phù hợp với xu
thế phát triển chung. Đặc biệt, kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO
thì dấu ấn của sự hội nhập càng trở nên rõ nét hơn trong nền kinh tế nước ta.
Trong hoàn cảnh nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống người dân
ngày càng tăng cao, nhu cầu vay tiêu dùng của người dân cũng ngày một lớn.
Những năm trở lại đây, hoạt động cho vay tiêu dùng mang một vai trò quan trọng
trong dịch vụ ngân hàng, cho vay tiêu dùng đóng góp một phần lợi nhuận không
nhỏ trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Người tiêu dùng với mức thu nhập
ngày càng ổn định và được cải thiện, cùng với trình độ dân trí và mức sống cao,
hứa hẹn sẽ thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng ngày càng phát triển.
Tuy vậy, hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam vẫn có những hạn chế
nhất định như định mức cho vay tiêu dùng tối đa còn thấp, thời hạn cho vay tiêu
dùng ngắn, chính sách và thủ tục cho vay tiêu dùng còn phức tạp và hạn chế,
chưa hấp dẫn được lượng đông đảo KH tương xứng với vị thế và tiềm năng của
các ngân hàng tại Việt Nam.
Ngân hàng Công Thương Việt Nam là Ngân hàng thương mại Quốc
doanh , cũng là một trong những ngân hàng hàng đầu về quy mô và chất lượng
đang hoạt động tại Việt Nam. Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình là
đơn vị thành viên của hệ thống Ngân Hàng Công Thương trên cả nước, có nhiệm
vụ thay mặt Ngân Hàng Công Thương trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Quận Ba
2
Đình. Trên thực tế, tiềm năng phát triển của kinh tế Quận Ba Đình và nhu cầu
vay tiêu dùng tại đây còn rất lớn. Sự phát triển của nền kinh tế cũng như nhu cầu
tiêu dùng của người dân nhất thiết phải có sự hỗ trợ của các ngân hàng. Bởi vậy,
cho vay tiêu dùng là một thị trường tiềm năng đối với các NHTM nói chung và
Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình nói riêng trong thời gian tới.
Trước bối cảnh đó, Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình cũng
đã nhận thức được tầm quan trọng của việc thiết lập quan hệ với khu vực KH
vay tiêu dùng tại địa bàn. Chi nhánh là đơn vị tiên phong trong khối NHTM Nhà
nước thành lập phòng tín dụng dành riêng cho KH cá nhân, nhằm nâng cao chất
lượng của hoạt động cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên, cho đến nay, hoạt động cho
vay tiêu dùng của chi nhánh vẫn còn nhiều tiềm năng cần khai thác. Do đó, việc
tìm hiểu thực trạng cho vay tiêu dùng của chi nhánh và đưa ra những giải pháp
nhằm khắc phục hạn chế, nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng là rất cần thiết.
Vì lý do trên, đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Chi Nhánh
Ngân Hàng Công Thương Ba Đình” đã được lựa chọn nghiên cứu.
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, kết cấu đề tài được chia thành 3 chương:
• Chương 1: Hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM - những vấn đề lý luận
cơ bản
• Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng của Chi nhánh Ngân Hàng Công
Thương Ba Đình
• Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của Chi nhánh
Ngân Hàng Công Thương Ba Đình
3
CHƯƠNG 1. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI - NHỮNG VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Trong hệ thống tài chính, vốn được chuyển từ người cho vay đến người
đi vay theo hai con đường: tài chính trực tiếp và tài chính gián tiếp. Tài chính
trực tiếp được thực hiện trên thị trường tài chính. Còn tài chính gián tiếp được
thực hiện thông qua các trung gian tài chính. Trung gian tài chính bao gồm các
ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng như công ty bảo hiểm, công ty
tài chính…
Ngân hàng(NH) là tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc chuyển tiết
kiệm thành đầu tư. Các loại NH bao gồm: Ngân hàng thương mại(NHTM), NH
phát triển, NH đầu tư, NH chính sách, NH hợp tác… Trong đó, NHTM là loại
hình chiếm tỷ trọng lớn nhất về số lượng, thị phần và quy mô tài sản. Dựa trên
những loại hình dịch vụ mà NH cung cấp thì có thể định nghĩa NH là “tổ chức
tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt
là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Các
dịch vụ tài chính mà NHTM cung cấp là đa dạng nhất. Do đó, NHTM có vai trò
rất quan trọng trong nền kinh tế.
4
Ðiều 20 Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/QH 10): Ngân hàng
thương mại là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các công ty, xí nghiệp, tổ
chức kinh tế, cơ quan đoàn thể và các cá nhân bằng việc nhận tiền gửi, tiền tiết
kiệm… cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
Ðạo luật ngân hàng của Pháp (1941): Ngân hàng thương mại là những xí
nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng
dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó
cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính.
Như vậy ngân hàng thương mại là định chế tài chính trung gian quan
trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế này
mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to
lớn để có thể cho vay phát triển kinh tế.
Hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam:
• Ngân hàng thương mại Quốc doanh: Là ngân hàng thương mại được thành lập
bằng 100% vốn ngân sách nhà nước. Thuộc loại này bao gồm:
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Bank for
Agriculture and Rural Development - AGRIBANK), hiện nay 100% vốn của
Nhà nước và đến 2008 sẽ cổ phần hóa.
Ngân hàng công thương Việt nam (Vietnam Industrial and commercial
Bank – VietIncombank) hiện nay 100% vốn của Nhà nước và dự định cổ phần
hóa vào năm 2008.
Ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam (Bank for Investement and
Development of Viet nam – BIDV), hiện nay 100% vốn của Nhà nước, dự định
sẽ cổ phần hóa vào năm 2008.
5
Ngân hàng ngoại thương Việt nam (Bank for Foreign Trade of Viet nam –
Vietcombank), trong tình hình hiện nay để tăng nguồn vốn và phù hợp với xu thế
hội nhập tài chính với thế giới Ngân hàng ngoại thương Việt nam đã thực hiện cổ
phần hóa nhằm tăng sức cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và
các ngân hàng cổ phần hiện nay. Sau phiên đấu giá cổ phần ngày 27/12/2007(1)
Vietcombank chính thức trở thành Ngân hàng thương mại cổ phần quốc doanh
đầu tiên tại Việt Nam.
• Ngân hàng thương mại cổ phần (Joint Stock Commercial bank): Là ngân hàng
thương mại được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Trong đó một cá
nhân hay pháp nhân chỉ được sở hữu một số cổ phần nhất định theo qui định của
ngân hàng nhà nước Việt nam.
• Ngân hàng liên doanh (thuộc loại hình tổ chức tín dụng liên doanh)
Là Ngân hàng được thành lập bằng vốn liên doanh giữa một bên là ngân hàng
thương mại Việt nam và bên khác là ngân hàng thương mại nước ngoài có trụ sở
đặt tại Việt nam, hoạt động theo pháp luật ở Việt nam
• Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo pháp luật
nước ngoài, được phép mở chi nhánh tại việt nam, hoạt động theo pháp luật việt
nam
(1) www.vneconomy.vn
Vai trò của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào
loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. NHTM thúc đẩy hiệu quả hoạt động
của hệ thống tài chính. Thông qua NHTM những người có món tiết kiệm nhỏ
nhận được thu nhập từ tiền lãi cho vay, đồng thời những người cần vay các món
6
tiền nhỏ có thể vay được tiền. Điều này không thể có được ở thị trường tài chính.
NH làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng
thời giảm chi phí đi vay cho người đầu tư, từ đó khuyến khích sản xuất, đầu tư.
Chính vì thế, luồng vốn được luân chuyển dễ dàng và thường xuyên hơn, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
NHTM là tổ chức thu hút tiền gửi tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi
nền kinh tế. Tất cả các chủ thể trong nền kinh tế, từ cá nhân, hộ gia đình đến các
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội đều có tiền gửi tại NH. Do đó, các nguồn tiền
nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội được tập trung lại, được sử dụng để đáp ứng
nhu cầu vốn kinh doanh, vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu
dùng của xã hội.
Tín dụng NHTM là nguồn tài chính quan trọng đối với các công ty, các
cá nhân, hộ gia đình và cả Chính phủ. Các khoản tín dụng mà NH cung cấp được
sử dụng để mua hàng hóa dịch vụ, đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây
dựng cơ sở hạ tầng…
Ngày nay, NHTM là thủ quỹ và trung gian thanh toán lớn nhất ở mỗi
quốc gia. NHTM đứng ra làm trung gian thanh toán giữa các KH. Nhiều hình
thức thanh toán hiện đại đã góp phần làm giảm lượng tiền mặt lưu hành, giảm
chi phí in ấn, bảo quản tiền, tiết kiệm chi phí về giao dịch thanh toán. Chính vì
thế, NHTM có đóng góp lớn trong việc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển tiền –
hàng, thúc đẩy sự phát triển của quan hệ thương mại, tài chính quốc tế.
Bên cạnh đó, NHTM thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính
sách tiền tệ. Vì vậy, NHTM là kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của
Chính phủ.
7
Tóm lại, sự có mặt của NHTM trong hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội
đã khẳng định rằng: NHTM là định chế tài chính không thể thiếu được trong nền
kinh tế. Hoạt động của NHTM có vai trò lớn đối với sự hoàn thiện của hệ thống
tài chính, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
1.1.1.2 Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
* Hoạt động huy động vốn
Nghiệp vụ huy động nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với
bản thân NH cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, NHTM được phép
sử dụng những công cụ và biện pháp cần thiết mà luật pháp cho phép để huy
động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn tín dụng để cho vay
đối với nền kinh tế.
Thành phần nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Vốn điều lệ
- Các quỹ dự trữ
- Vốn huy động
- Vốn đi vay
- Vốn tiếp nhận
- Vốn khác
• Vốn điều lệ và các quỹ:
Vốn điều lệ, các quỹ của NH được gọi là vốn tự có của NH là nguồn vốn
khởi đầu và được bổ sung trong quá trình hoạt động
Vốn điều lệ của NH trước hết được dùng để:
8
Xây dựng nhà cửa, văn phòng làm việc, mua sắm tài sản, trang thiết bị nhằm tạo
cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng, số còn lại để đầu tư, liên
doanh, cho vay trung và dài hạn
Các quỹ dự trữ của NH: đây là các quỹ bắt buộc phải trích lập trong quá
trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng, các quỹ này được trích lập theo tỷ lệ
qui định trên số lợi nhuận ròng của ngân hàng, bao gồm:
- Quỹ dự trữ : được trích từ lợi nhuận ròng hằng năm để bổ sung vốn điều lệ
- Quỹ dự phòng tài chính: Quỹ này để dự phòng bù đắp rủi ro, thu lỗ trong hoạt
động của ngân hàng
- Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ
- Quỹ khen thưởng phúc lợi.
- Lợi nhuận để lại để phân bổ cho các quỹ. Chênh lệch tỷ giá, đánh giá lại tài sản,
nguồn vốn đầu tư XDCB.
Vốn tự có của NH là yếu tố tài chính quan trọng bậc nhất, nó vừa cho
thấy qui mô của NH vừa phản ánh khả năng đảm bảo các khoản nợ của NH đối
với KH.
• Vốn huy động:
Ðây là nguồn vốn chủ yếu của các NHTM, thực chất là tài sản bằng tiền
của các sở hữu chủ mà NH tạm thời quản lý và sử dụng nhưng phải có nghĩa vụ
hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi KH yêu cầu. Nguồn vốn huy động là nguồn tài
nguyên to lớn nhất, bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức, cá nhân
9
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
- Tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
- Các khoản tiền gửi khác
Ðối với tiền gửi của cá nhân và đơn vị, ngoài lãi suất, thì nhu cầu giao
dịch với những tiện lợi nhanh chóng và an toàn là yếu tố cơ bản để thu hút nguồn
tiền này. Ðối với tiền gửi tiết kiệm, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu thì lãi suất
là yếu tố quyết định và người gửi tiết kiệm hay mua kỳ phiếu đều nhằm mục
đích kiếm lời
Tiền gửi của KH là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, thường chiếm tỷ
trọng hơn 50% tổng nguồn vốn của NH. Nghiệp vụ đầu tiên của NH khi đi vào
hoạt động là mở tài khoản TG để giữ hộ và thanh toán hộ cho KH. Chính nhờ
nghiệp vụ này mà NH huy động được lượng tiền nằm rải rác trong xã hội.
NHTM nhận TG từ các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác.
Đặc điểm chung của TG là phải được thanh toán khi có yêu cầu của KH,
ngay cả khi đó là TG có kỳ hạn chưa đến hạn. Quy mô và cơ cấu TG cũng phụ
thuộc nhiều vào những biến động về lãi suất, tỷ lệ lạm phát và thu nhập của KH.
Vì thế, đây là nguồn kém ổn định, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ của NH. Đặc biệt,
sự cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn ngày càng gay gắt, các NH phải
không ngừng đa dạng hoá các loại hình TG, đưa ra chế độ lãi suất hấp dẫn để gia
tăng số lượng và nâng cao chất lượng các khoản TG từ KH.
• Vốn đi vay:
Nguồn vốn đi vay có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
thương mại. Thuộc loại này bao gồm:
10
- Vốn vay trong nước:
- Vay ngân hàng trung ương: NHTW sẽ tiếp vốn cho ngân hàng thương mại
thông qua biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu nếu các hồ sơ tín dụng cùng các
chứng từ xin tái chiết khấu có chất lượng. Làm như vậy, NHTW sẽ trở thành chỗ
dựa và là người cho vay cuối cùng đối với ngân hàng thương mại. Việc vay vốn
NHTW còn tuỳ thuộc vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ
- Vay các ngân hàng thương mại khác thông qua thị trường liên ngân hàng
- Vốn vay ngân hàng nước ngoài
Khác với việc nhận TG, NHTM không thường xuyên đi vay mà chỉ vay
khi cần thiết. Việc đi vay chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng
huy động bị hạn chế.
NHTM phát hành các giấy nợ như tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền
gửi để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Với nghiệp vụ
này, NH có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn. Đây
là nguồn tài trợ quan trọng cho nhu cầu vay trung dài hạn của KH. Khả năng huy
động vốn loại này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài
chính và uy tín của mỗi NH.
So với tiền gửi, tỷ trọng của tiền vay trong tổng nguồn vốn thường thấp hơn.
Song, tiền vay lại có tính ổn định cao hơn bởi nó chỉ phải hoàn trả khi đến hạn.
Hơn nữa, các khoản vay có thời hạn và quy mô xác định trước, NH hoàn toàn
chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu của mình.
• Vốn tiếp nhận:
Ðây là nguồn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính ngân hàng, từ ngân sách
nhà nước… để tài trợ theo các chương trình, dự án về phát triển kinh tế xã hội,
11
cải tạo môi sinh… nguồn vốn này chỉ được sử dụng theo đúng đối tượng và mục
tiêu đã được xác định.
• Vốn khác:
Bên cạnh tiền gửi và tiền vay, NH còn có một lượng vốn khác, tuy chiếm
tỷ trọng nhỏ nhưng cũng góp phần làm tăng nguồn vốn cho các NHTM. Đó là
các nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng: đại lý, chuyển
tiền, các dịch vụ ngân hàng, vốn uỷ thác, vốn trong thanh toán… Các loại vốn
này có thời gian sử dụng đôi khi rất ngắn nhưng NH không phải tốn chi phí huy
động, lại có điều kiện tốt để phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ khác, phục vụ tốt
nhất nhu cầu của KH.
Như vậy nghiệp vụ huy động vốn là hoạt động tạo ra nguồn chủ yếu của
các NHTM. Bởi vậy, hoạt động huy động và quản lý vốn luôn là vấn đề mà các
NHTM đặt lên hàng đầu. Chất lượng và số lượng của nguồn vốn huy động được
chính là nhân tố tác động lớn nhất tới hoạt động sử dụng vốn của NHTM.
* Hoạt động sử dụng vốn
Trên cơ sở lượng vốn huy động được, NHTM tiến hành sử dụng vốn để
tạo ra lợi nhuận. Nghiệp vụ cho vay và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan
trọng nhất, quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của ngân hàng thương
mại. Các hoạt động sử dụng vốn của NHTM bao gồm:
- Dự trữ
- Cấp tín dụng
- Ðầu tư
- Các hoạt động sử dụng vốn khác
• Dự trữ:
12
Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời, song cần
phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của KH. Muốn có được sự tin
cậy về phía KH, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán: đáp ứng được nhu
cầu rút tiền của KH. Muốn vậy các ngân hàng phải để dành một phần nguồn vốn
không sử dụng nó để sẵng sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành
này gọi là dự trữ. NHTW được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo từng
thời kỳ nhất định, việc trả lãi cho tiền gởi dự trữ bắt buộc do chính phủ qui định.
Dự trữ bao gồm:
- Dự trữ sơ cấp: bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại ngân hàng TƯ, tại các
ngân hàng khác
- Dự trữ thứ cấp: dự trữ không tồn tại bằng tiền mà bằng chứng khoán,
nghĩa là các chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển thành tiền một cách
thuận lợi. Thuộc loại này gồm: tín phiếu kho bạc, hối phiếu đã chấp nhận, các
giấy nợ ngắn hạn khác. Dự trữ thứ cấp chỉ được sử dụng khi các khoản mục dự
trữ sơ cấp bị cạn kiệt.
• Cấp tín dụng:
Số nguồn vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các ngân hàng
thương mại có thể dùng để cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân. Các hoạt động
cấp tín dụng bao gồm:
- Cho vay
Là nghiệp vụ tín dụng của NHTM. Trong đó NHTM sẽ cho người đi vay
vay một số vốn để sản xuất kinh doanh, đầu tư hoặc tiêu dùng trong một khoảng
thời gian thoả thuận trước. KH muốn vay được vốn phải tuân thủ những điều
kiện nhất định, những ràng buộc pháp lý để đảm bảo NH có thể thu hồi vốn khi
đến hạn. Người đi vay có ý thức trả nợ cho nên bắt buộc họ phải quan tâm đến
13
việc sử dụng vốn có hiệu quả để hoàn trả nợ vay. Các khoản cho vay là loại tài
sản kém lỏng hơn so với các tài sản khác, lại có rủi ro vỡ nợ cao hơn, tuy nhiên
NH lại có được lợi tức cao nhất từ chính các món cho vay. Để đảm bảo hoạt
động cho vay của NH an toàn và đạt hiệu quả cao,khi cho vay các ngân hàng sử
dụng các biện pháp bảo đảm vốn vay như: thế chấp, cầm cố …
- Chiết khấu
Ðây là nghiệp vụ cho vay gián tiếp, NH sẽ cung ứng vốn tín dụng cho
một chủ thể và một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng. Các loại
chiết khấu bao gồm hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy nợ có giá khác.
- Cho thuê tài chính
Là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó NH dùng vốn của mình
hay vốn do phát hành trái phiếu để mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người đi
thuê và tiến hành cho thuê trong một thời gian nhất định.
- Bảo lãnh ngân hàng
Trong loại hình nghiệp vụ này KH được NH cấp bảo lãnh được vay vốn ở
ngân hàng khác hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết
- Các hình thức khác
• Ðầu tư
Hoạt động đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau hoạt động cho vay, nó
mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể cho NHTM. Trong nghiệp vụ này, NH
dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình
thức như:
14
- Hùn vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các Công ty; hùn vốn mua cổ
phần chỉ được phép thực hiện bằng vốn của ngân hàng
- Mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty…
Tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu
nhập, mặt khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ
được phân tán, mặt khác đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất
thấp. Khi cần thiết, NH có thể bán chúng đi để gia tăng ngân quỹ. Các NHTM
cũng thường nắm giữ chứng khoán công ty để có quyền tham dự, kiểm soát hoạt
động của các công ty đó.
• Các hoạt động sử dụng vốn khác
Các hoạt động sử dụng vốn còn lại mà NHTM được phép thực hiện là:
liên doanh với tổ chức tín dụng nước ngoài, tham gia thị trường tiền tệ, kinh
doanh vàng, ngoại hối, thành lập công ty trực thuộc, xây dựng hoặc mua thêm
nhà cửa để làm trụ sở văn phòng, trang thiết bị, máy móc, phương tiện vận
chuyển, xây dựng hệ thống kho quỹ…….Tuy nhiên, ngành NH là lĩnh vực nhạy
cảm, có tác động đến mọi mặt của nền kinh tế nên các hoạt động kinh doanh của
NH đều chịu sự quản lý rất chặt chẽ của pháp luật.
* Hoạt động dịch vụ
Các dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể
cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu
nhập cho ngân hàng bàng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí… có vị trí xứng đáng
trong giai đoạn phát triển hiện nay của ngân hàng thương mại. Các hoạt động
này bao gồm:
15
- Các dịch vụ thanh toán thu chi hộ cho KH (chuyển tiền, thu hộ séc, dịch
vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán..)
- Nhận bảo quản các tài sản quí giá, các giấy tờ chứng thư quan trọng của
công chúng
- Bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo uỷ nhiệm của KH
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc đá quí
- Tư vấn tài chính, giúp đỡ các công ty, xí nghiệp phát hành cổ phiếu, trái
phiếu…
Ba mặt hoạt động của NHTM có tác động qua lại lẫn nhau. Huy động
vốn là tiền đề cho hoạt động dịch vụ và sử dụng vốn. Sử dụng vốn an toàn, hiệu
quả, đem lại lợi nhuận cao là cơ sở để NH huy động được nhiều vốn hơn. Hoạt
động dịch vụ có tác dụng thu hút thêm KH và quảng bá hình ảnh. Vì vậy, nó hỗ
trợ rất nhiều công tác huy động và sử dụng vốn. Thực hiện ba mảng hoạt động
này một cách đồng bộ, hiệu quả chính là chìa khoá cho sự thành công của
NHTM trên thị trường.
1.1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm hoạt động cho vay
Cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu
(NHTM) sang người sử dụng (KH), sau một thời gian nhất định lại quay về với
lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất của NHTM.
Để NH tồn tại và phát triển vững chắc, hoạt động cho vay phải an toàn và hiệu
quả. Muốn vậy, nó phải được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định. Thứ
nhất, KH vay vốn phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận.
16
Điều này giúp hạn chế rủi ro tín dụng cho NH. Thứ hai, KH phải đảm bảo hoàn
trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng. Thứ ba,
NH cho vay đối với những dự án khả thi, có hiệu quả và có khả năng hoàn trả
nợ. Nhờ đó, NH mới có được lợi nhuận từ việc cho vay.
Phân loại hoạt động cho vay
Cho vay được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Theo mục đích sử dụng vốn vay
• Cho vay nhằm mục đích sản xuất kinh doanh.
• Cho vay tiêu dùng.
Theo thời gian
• Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng.
• Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn từ trên 12 đến 60 tháng.
• Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn trên 60 tháng trở lên.
Theo hình thức bảo đảm
• Cho vay có bảo đảm bằng tài sản
• Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
Theo cách thức cho vay
• Cho vay trực tiếp
• Cho vay gián tiếp
Theo phương thức cho vay
• Cho vay thấu chi
• Cho vay trực tiếp từng lần
17
• Cho vay theo hạn mức
• Cho vay luân chuyển
• Cho vay trả góp
Hoạt động cho vay của NHTM có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế. Nó có
tác dụng khuyến khích tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo động lực cho
sự tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn vay từ các NH rất quan trọng đối với sự phát
triển của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức kinh tế, đặc biệt nguồn vốn
vay từ NH thúc đẩy tiêu dùng và góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của người dân. Vậy tiêu dùng và nhu cầu tiêu dùng của người dân có vai trò như
thế nào trong nền kinh tế? Vì sao hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM lại có
tầm quan trọng đặc biệt? Điều này sẽ được trình bày ở phần tiếp theo.
1.2 Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Cho vay tiêu dùng(CVTD) là việc Ngân Hàng Cho Vay giao cho KH một
khoản tiền theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi trong một
thời gian nhất định để sử dụng cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt và các nhu cầu
phục vụ đời sống(1). Nhìn chung, CVTD được coi là khoản tiền vay cấp cho các
cá nhân, hộ gia đình để chi dùng cho các mục đích không kinh doanh.
CVTD cho phép cá nhân, hộ gia đình được sử dụng trước khả năng mua
hàng hoá của mình trong tương lai, tức là tạo điều kiện thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng trước khi họ có khả năng chi trả. Do đó ngoài việc nâng cao mức sống về
mặt vật chất, thì CVTD còn gián tiếp kích thích sản xuất.
Tại Việt Nam, cho vay tiêu dùng ra đời và phát triển muộn hơn thế giới
rất nhiều. Hoạt động cho vay tiêu dùng đã xuất hiện từ những năm đầu thập kỷ
18
90 của thế kỷ 20. Nhưng phải đến sau năm 2000, khi nền kinh tế nói chung và
đời sống của người dân nói riêng có những bước chuyển rõ rệt, sắc nét thì loại
hình tín dụng này mới thực sự phát triển. Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng cũng
nằm trong chiến lược đa dạng hoá các loại hình tín dụng, mở rộng danh mục sản
phẩm dịch vụ cũng như phân tán rủi ro của ngân hàng. Điều đó giúp ngân hàng
gia tăng lợi nhuận và quảng bá thương hiệu.
(1) Quy định cho vay tiêu dùng trong hệ thống NHCT
Đặc điểm cho vay tiêu dùng
Dịch vụ cho vay tiêu dùng của NHTM có thể là một trong những dịch vụ
mang chi phí cao nhất với nhiều rủi ro nhất vì tình hình tài chính của các cá nhân
và hộ gia đình không ổn định, có thể thay đổi nhanh chóng tuỳ theo tình trạng
công việc hay sức khoẻ của họ. Do đó các khoản cho vay tiêu dùng luôn được
quản lý một cách chặt chẽ và linh hoạt.
• Đối tượng cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình. Nhu cầu vay vốn của
những người này phụ thuộc vào tình hình thu nhập, tài chính của họ. Do đó có
thể chia ra thành 3 trường hợp phổ biến sau :
Các cá nhân có mức thu nhập thấp: nhu cầu tín dụng thường không cao,
nó chỉ xuất hiện nhằm thoả mãn nhu cầu gia đình tạo sự cân đối giữa thu nhập và
chi tiêu.
Các cá nhân có mức thu nhập trung bình: nhu cầu tín dụng tiêu dùng phát
triển mạnh do ý muốn vay mượn để mua hàng tiêu dùng lớn hơn khoản tiền dự
phòng của mình.
19
Các cá nhân có mức thu nhập cao: nhu cầu tín dụng tiêu dùng nảy sinh
nhằm tăng thêm khả năng thanh toán hoặc tài trợ chi tiêu khi mà nguồn vốn của
họ đã nằm trong tài khoản đầu tư.
• Qui mô và số lượng các khoản vay tiêu dùng Các khoản CVTD thường có qui
mô tương đối nhỏ so với các khoản cho vay kinh doanh. Cho vay bất động sản
có thể có giá trị lớn hơn, nhưng giá trị so sánh vẫn nhỏ hơn các món vay khác tại
Ngân hàng. Nguyên nhân chủ yếu do KH chỉ vay tiêu dùng khi đã có một lượng
vốn tương đối, chỉ vay ngân hàng để bổ sung số tiền còn thiếu. Tuy nhiên số
lượng các khoản CVTD lại rất lớn do đối tượng của loại hình cho vay này là mọi
cá nhân trong xã hội với nhu cầu tiêu dùng đa dạng. Khi nền kinh tế phát triển,
nhu cầu tiêu dùng tăng cao, số lượng các khoản vay tiêu dùng sẽ càng nhiều
thêm.
• Thời hạn vay Các khoản CVTD thường là ngắn và trung hạn do món vay
có giá trị nhỏ và độ rủi ro cao.
• Nguồn trả nợ Nguồn trả nợ chủ yếu của khoản vay tiêu dùng chính là thu
nhập của người đi vay, NH thường xem xét mức thu nhập thường xuyên của KH
để ra quyết định cho vay.
• Lãi suất cho vay tiêu dùng
Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất cao hơn lãi suất cho vay trong
các lĩnh vực khác. Nguyên nhân là do quy mô của hợp đồng cho vay nhỏ lại khó
quản lý hơn vì vậy chi phí cho vay của ngân hàng cao. Để bù đắp chi phí này, tất
nhiên, lãi suất cho vay sẽ cao. Bên cạnh đó, không như hầu hết các khoản cho
vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường, lãi suất
cho vay tiêu dùng thường được cố định ở một mức nhất định.
20
• Rủi ro cho vay tiêu dùng
Hình thức cho vay tiêu dùng chứa đựng độ rủi ro cao hơn so với việc tài
trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Rủi ro khách quan: Nguồn trả nợ chủ yếu của khoản vay tiêu dùng là từ
thu nhập ổn định tại thời điểm hiện tại của người vay, khả năng trả nợ của KH sẽ
bị ảnh hưởng khi nền kinh tế gặp khó khăn, hoặc xảy ra những biến động tiêu
cực chung như thiên tai, mất mùa, thất nghiệp. Khả năng trả nợ vay tiêu dùng
còn phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của KH, đặc biệt khi người vay chết thì
NH sẽ rất khó để thu hồi được khoản nợ.
Ngoài ra CVTD có tính nhạy cảm theo chu kì kinh tế. Khi kinh tế tăng
trưởng, người dân lạc quan về tương lai, nhu cầu vay ngân hàng nhiều hơn,
nhưng khi nền kinh tế suy thoái, đời sống trở nên khó khăn,người dân sẽ hạn chế
vay mượn NH hơn.
Rủi ro chủ quan: Thông tin tài chính của cá nhân và hộ gia đình thường
khó đầy đủ và rõ ràng như thông tin về doanh nghiệp (thông qua báo cáo tài
chính thường niên, hoặc kiểm tra công tác kế toán), dẫn đến rủi ro đạo đức và rủi
ro thông tin không cân xứng. KH có thể không có thiện chí trả nợ cho NH mặc
dù có khả năng thanh toán, hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và trung thực
nhằm đạt mục đích vay vốn.
• Chi phí cho vay tiêu dùng CVTD là một trong những khoản mục có chi phí lớn
nhất trong danh mục cho vay của NH. Do số lượng món vay nhiều, KH đông
nhưng quy mô nhỏ, NH phải huy động nhiều nhân lực, từ khâu tiếp nhận hồ sơ,
21
thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân, kiểm soát và thu nợ. Công tác quản lý
các khoản CVTD với số lượng lớn cũng phát sinh nhiều chi phí.
• Lợi nhuận từ cho vay tiêu dùng
Hiện nay mức lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng của các
NHTM khá cao, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của NH. Số lượng các
khoản vay tiêu dùng là rất lớn, thêm vào đó mức lãi suất CVTD cao nên lợi
nhuận của NH từ CVTD khá lớn.
Vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi KH trong lĩnh vực CVTD
là rất lớn nên đối với hầu hết các nước phát triển hiện nay, CVTD đã trở thành
một trong những nguồn thu chủ chốt của các NHTM, đóng vai trò chủ đạo trong
dịch vụ NH, mang ý nghĩa quan trọng trong quản lý NH. Khai thác lĩnh vực
CVTD vẫn tiếp tục hứa hẹn nhiều triển vọng trong tương lai. Tại các nước đang
phát triển, CVTD cũng đang dần khẳng định được vai trò của mình, đem lại
những lợi nhuận không nhỏ trong hoạt động cho vay của NHTM.
• Các hình thức cho vay tiêu dùng
Rất nhiều phương thức cho vay được NHTM đưa ra nhằm tạo thuận lợi
cho KH. Dựa vào nhu cầu vay của KH, mức độ tín nhiệm của NH đối với KH,
hai bên thoả thuận để lựa chọn một phương thức cho vay trong số các phương
thức sau:
Đối với cho vay tiêu dùng trực tiếp
Cho vay trả theo định kỳ: là phương thức trong đó KH vay vốn và trả trực
tiếp cho NH với mức trả và thời gian trả mỗi lần được quy định khi cho vay.
Thấu chi: là nghiệp vụ cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản vãng lai
của mình vượt quá số dư có tới một hạn mức được thoả thuận.
22
Thẻ tín dụng: là nghiệp vụ trong đó NH phát hành thẻ cho những người
có tài khoản ở NH đủ điều kiện cấp thẻ, ấn định mức giới hạn tín dụng tối đa mà
người có thẻ được phép sử dụng.
Đối với cho vay tiêu dùng gián tiếp
Tài trợ truy đòi toàn bộ: là hình thức khi bán cho Ngân hàng các khoản
nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu, công ty bán lẻ sẽ cam kết thanh toán cho
Ngân hàng toàn bộ nếu đến khi hết hạn người tiêu dùng không thanh toán cho
Ngân hàng.
Tài trợ truy đòi hạn chế: là phương thức trong đó công ty bán lẻ sau khi
bán các khoản nợ do người tiêu dùng đã mua chịu cho Ngân hàng sẽ cam kết
thanh toán cho Ngân hàng một phần khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng
không thanh toán cho Ngân hàng.
Tài trợ miễn truy đòi: là hình thức tài trợ mà sau khi bán các khoản nợ
cho Ngân hàng, công ty bán lẻ không chịu trách nhiệm cho việc chúng có được
hoàn trả hay không. Phương thức này chứa đựng rủi ro rất cao nên khoản nợ
được lựa chọn rất kỹ và chỉ có các công ty bán lẻ đáng tin cậy mới áp dụng
phương pháp này.
Tài trợ có mua lại: Khi thực hiện theo phương pháp này, nếu xảy ra rủi ro
người tiêu dùng không trả nợ thì Ngân hàng sẽ bán trở lại cho công ty bán lẻ
phần nợ mình chưa được thanh toán kèm với tài sản đã được tiêu thụ trong một
thời gian nhất định.
Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng
Hoạt động cho vay của NHTM có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế xã hội. Hoạt động cho vay giúp khai thông dòng tài chính, để những
23
luồng vốn được luân chuyển liên tục. Đối với nền kinh tế, việc NHTM cho KH
cá nhân vay vốn cho mục đích tiêu dùng còn có nhiều ý nghĩa hơn thế.
• Đối với Ngân hàng: Trước hết, CVTD giúp NH nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Như đã phân tích, CVTD tuy có chi phí cao nhưng đồng thời cũng tạo ra lợi
nhuận lớn hơn trên đồng vốn bỏ ra so với các hình thức cho vay khác. CVTD
cũng giúp NH thu hút KH sử dụng thêm các hình thức dịch vụ khác như
chuyển tiền hoặc sử dụng dịch vụ trả lương qua tài khoản tại Ngân hàng để thuận
lợi cho hoạt động thanh toán lãi theo kỳ hạn, sử dụng các dịch vụ thẻ, quảng bá
thương hiệu NH thông qua KH. Khách hàng cũng có xu hướng sử dụng kèm các
dịch vụ tại NH mình đã có quan hệ tín dụng. Đây là điều kiện giúp NH nâng cao
năng lực cạnh tranh và mở rộng thị phần. Ngoài ra CVTD góp phần đa dạng hoá
các lĩnh vực đầu tư, nâng cao thu nhập, phân tán rủi ro cho NH.
• Đối với người tiêu dùng: CVTD giúp người tiêu dùng thoả mãn và nâng cao
chất lượng tiêu dùng, cho phép người tiêu dùng sử dụng trước khả năng thanh
toán của mình trong tương lai, hưởng các dịch vụ tiện ích trước khi có đủ nguồn
tài chính, đặc biệt trong trường hợp chi tiêu cấp bách.
Trong những trường hợp cần gấp thì lãi suất cho vay của NH hợp lý hơn
nhiều so với lãi suất vay “nóng” bên ngoài thị trường. Thời hạn cho vay và
phương thức trả nợ linh hoạt căn cứ vào khả năng trả nợ của KH. Điều kiện và
thủ tục để có được khoản vay tiêu dùng không quá phức tạp.
• Đối với nhà sản xuất: CVTD tạo điều kiện để người tiêu dùng có thể mua
hàng hoá nhiều hơn và nhanh hơn, giúp thúc đẩy quá trình sản xuất, rút ngắn
vòng quay vốn, gia tăng lợi nhuận.
24
• Đối với toàn bộ nền kinh tế: Có thể nói, hoạt động CVTD là đòn bẩy
kích thích sản xuất phát triển, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải
thiện đời sống dân cư, góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo.
CVTD góp phần cải thiện môi trường thanh toán, giảm lượng tiền mặt
lưu thông trên thị trường. Xét trên góc độ kinh tế vĩ mô: dịch vụ ngân hàng bán
lẻ đẩy nhanh quá trình lưu chuyển tiền tệ, tận dụng tiềm năng lớn trong dân cư
để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống người dân, hạn chế dùng tiền mặt và tiết
kiệm chi phí thời gian, tiền bạc cho xã hội
1.2.2 Quy trình cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Quy trình cho vay là tổng hợp các công việc cụ thể mà cán bộ tín dụng và
các phòng ban có liên quan trong NH phải thực hiện khi cấp vốn cho KH. Để
chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ, mỗi NHTM thường
xây dựng cho mình một quy trình cho vay. Giữa các NH, quy trình ấy có thể có
sự khác biệt, tuỳ thuộc vào đặc điểm và khả năng tổ chức quản lý của NH, tuy
nhiên nhìn chung đều bao gồm 6 bước sau:
Bước 1 Nhận hồ sơ tín dụng: KH có nhu cầu vay vốn đến NH làm thủ tục xin
vay. Tại đây cán bộ tín dụng hướng dẫn cho KH cách lập hồ sơ đầy đủ và đúng
quy định, hồ sơ tín dụng thường bao gồm: hồ sơ pháp lý, hồ sơ kinh tế và hồ sơ
vay.
Bước 2 Thẩm định tín dụng: Đây là khâu quan trọng trong quá trình cho vay
tiêu dùng, quyết định đến chất lượng tín dụng. Cán bộ tín dụng thẩm định sai sẽ
đưa ra quyết định sai. Quá trình thẩm định bao gồm :
- Thẩm định đặc điểm nguồn vay
- Thẩm định mục đích sử dụng vốn vay
25
- Thẩm định tình hình tài chính và khả năng thanh toán của KH
- Thẩm định tài sản đảm bảo
Bước 3 Xét duyệt và quyết định cho vay: Sau quá trình thẩm định, cán bộ tín
dụng thông báo lại với cấp trên để trình lên hội đồng xét duyệt, đưa ra quyết định
cho vay. Sau khi đã quyết định, Ngân hàng phải lập văn bản thông báo cho KH
biết rõ nội dung (nếu không cho vay phải ghi chi tiết lý do).
Bước 4 Hoàn tất thủ tục pháp lý và tiến hành giải ngân:
Sau khi xét duyệt và quyết định cho vay, NH và KH tiến hành kí kết hợp đồng
tín dụng
Các yếu tố chủ yếu của một hợp đồng tín dụng là:
• Khách hàng: họ tên, địa chỉ, tư cách pháp nhân (nếu có).
• Mục đích sử dụng: KH phải ghi rõ khoản vay được sử dụng để làm gì.
• Số tiền hoặc hạn mức tín dụng mà NH cam kết cấp cho KH.
• Lãi suất áp dụng: mức lãi suất mà KH phải trả, lãi suất cố định hay thay đổi,
các điều kiện thay đổi lãi suất.
• Mức phí để có được cam kết tín dụng từ NH, tính theo tỷ lệ phần trăm trên
hạn mức cam kết.
• Thời hạn cho vay: là thời hạn mà trong đó NH cấp tín dụng cho KH, tính từ
lúc đồng vốn đầu tiên của NH được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng
được NH thu về.
• Các loại đảm bảo: các nội dung như định giá, bảo hiểm, quyền sở hữu, quyền
chuyển nhượng hoặc bán, quyền sử dụng các đảm bảo… đều phải được quy định
rõ trong hợp đồng.
• Điều kiện và kỳ hạn giải ngân.