Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá thể tích tồn lưu dạ dày của dung dịch maltodextrin 12,5% uống 2 giờ trước gây mê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 24 * Số 3 * 2020

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ THỂ TÍCH TỒN LƯU DẠ DÀY
CỦA DUNG DỊCH MALTODEXTRIN 12,5% UỐNG 2 GIỜ TRƯỚC GÂY MÊ
Lý Huyển Hòa1, Nguyễn Thị Quý2

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Việc nhịn ăn uống kéo dài trước phẫu thuật làm tăng dị hóa và tăng đề kháng insulin. Dung
dịch maltodextrin 12,5% có ích lợi cho chuyển hóa mà khơng làm tăng nguy cơ hít sặc liên quan đến thể tích tồn
lưu dạ dày khi cho bệnh nhân uống 2 giờ trước gây mê.
Mục tiêu: So sánh thể tích tồn lưu dạ dày và cảm giác khát giữa bệnh nhân uống maltodextrin và bệnh nhân
nhịn uống kéo dài.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng
được thực hiện trên 60 bệnh nhân phẫu thuật tuyến giáp theo chương trình và được chia thành nhóm can thiệp
và nhóm chứng. Bệnh nhân thuộc nhóm can thiệp ( n = 30 ) uống 400ml maltodextrin 12,5% 2 giờ trước khởi
mê. Bệnh nhân thuộc nhóm chứng ( n = 30) nhịn uống dịch trong hơn 2 giờ. Thể tích tồn lưu dạ dày của 2 nhóm
bệnh nhân sẽ đo dựa vào siêu âm trước khởi mê. Mức độ khát được đánh giá bằng thang điểm VAS ở 2 thời điểm
trước khởi mê và hậu phẫu 2 giờ.
Kết quả: Nghiên cứu cho thấy khơng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm (p>0,05). Điểm VAS
đánh giá mức độ khát ở nhóm can thiệp cũng thấp hơn điểm của nhóm chứng ở cả 2 thời điểm ngay trước khởi
mê và hậu phẫu 2 giờ. Không ghi nhận trường hợp nào trào ngược hít sặc.
Kết luận: Việc cho bệnh nhân uống 400ml maltodextrin 12,5% 2 giờ trước gây mê là an tồn, khơng làm
tăng thể tích tồn lưu dạ dày cũng như nguy cơ hít sặc trong phẫu thuật tuyến giáp. Không những thế, bệnh nhân
sau khi uống dung dịch này cũng giảm cảm giác khát trước gây mê và sau phẫu thuật 2 giờ.
Từ khóa: nhịn ăn uống trước mổ; liều nạp đường; maltodextrin; thể tích tồn lưu dạ dày

ABSTRACT
RESIDUAL GASTRIC VOLUME EVALUATION AFTER INGESTION
OF 400ML MALTODEXTRIN 12.5% 2 HOUR BEFORE INDUCTION


Ly Huyen Hoa, Nguyen Thi Quy
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 24 - No. 3 - 2020: 76 - 82
Background: The traditional practice of prolonged fasting, by ít catabolic action, may increase insulin
resistance. 2 hour - preoperatively intake of maltodextrin beverage 12.5% instead of fasting is expected to have
potential benefits to the metabolism without increasing the risk of aspiration related to residual gastric volume.
Objectives: To compare the residual gastric volume and feeling of thirst between patients ingested
maltodextrin beverage and prolong fasted patients .
Methods:In this randomized – controlled trial, sixty patients scheduled for thyroidectomy were assigned to
the treatment or control group. Patients in the treatment group ( n=30 ) received 400 ml maltodextrin 12.5% 2h
before the induction. Conversely, control patients (n=30 ) underwent fasting of clear fluid over 2h. Before the
induction, the residual gastric volume of two groups was measured by ultrasonography. Besides, Visual Analogue
Scale scores for thirst were recorded at two periods (before induction and 2h postoperatively).
2Viện Tim Thành phố Hồ Chí Minh
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Lý Huyển Hòa ĐT: 0776795725
Email:
1

76

Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 24 * Số 3 * 2020

Results: There was no statistical difference of residual gastric volume between the two groups (p >0.05).
Moreover, in treatment group, the visual analogre scale for thirst was significantly lower before the induction and
2h postoperatively No case of aspiration recorded.

Conclusion: The 2-hour preoperative intake of 400ml maltodextrin 12.5% does not appear to alter the
amount of residual gastric volume before the induction of thyroidectomy, suggesting that this is a safe procedure,
in terms of aspiration risk. Furthermore, the intake of such fluid might improve the feeling of thirst preoperatively
and 2h - postoperatively.
Keywords: preoperative fasting; carbohydrate loading; maltodextrin; residual gastric volume
lưu dạ dày của bệnh nhân nhịn hồn tồn trong
ĐẶT VẤN ĐỀ
phẫu thuật tuyến giáp hay khơng ?” và giả thiết
Từ năm 1999 đến nay, Hiệp hội gây mê của
nghiên cứu rằng “Việc uống lượng dung dịch
Mỹ (ASA) khuyến cáo nhịn ăn 6 đến 8 giờ đối
maltodextrin như trên khơng làm tăng thể tích
với thức ăn đặc nhưng cho phép uống dịch trong
tồn lưu dạ dày so với thể tích tồn lưu dạ dày của
đến 2 giờ trước mổ(1). Điều này cũng được đề cập
bệnh nhân nhịn hồn tồn”, với các mục tiêu
đến trong chương trình hồi phục sớm sau mổ
nghiên cứu:
(ERAS)(2) khi mà có những bằng chứng mạnh mẽ
cho thấy lợi ích uống dung dịch maltodextrin
12,5% đến 2 giờ trước gây mê làm giảm đề
kháng insulin và đường huyết sau mổ(3).

So sánh thể tích tồn lưu dạ dày trước khởi
mê của nhóm uống 400ml dung dịch
maltodextrin 12,5% và nhóm nhịn hồn tồn.

Tuy nhiên thực tế tại một số nơi, bệnh nhân
vẫn còn phải nhịn uống kéo dài đến 10 đến 12
giờ. Và một trong những rào cản đó là nỗi lo

ngại về việc ăn uống trước gây mê sẽ làm tăng
thể tích tồn lưu dạ dày và giảm pH dịch dạ dày
dẫn đến nguy cơ cao hít sặc khi khởi mê(4).
Nghiên cứu đa trung tâm chưa ghi nhận về biến
chứng nguy hiểm này ở những bệnh nhân uống
dung dịch maltodextrin trước mổ(5). Các nghiên
cứu đánh giá thể tích tồn lưu dạ dày dựa vào
nhiều phương pháp khác nhau như xạ hình,
cộng hưởng từ, hút qua ống dẫn lưu dạ dày đặt
qua đường mũi hoặc miệng. Siêu âm dạ dày là
một kĩ thuật chẩn đốn hình ảnh khơng xâm lấn,
nhanh chóng và hữu ích cho việc cung cấp thơng
tin về thể tích dịch dạ dày. Dựa vào diện tích
mặt cắt ngang của hang vị, các nghiên cứu đã dự
đốn khá chính xác thể tích tồn lưu và đánh giá
tương đối nguy cơ hít sặc lúc dẫn mê(6).

So sánh mức độ khát giữa nhóm uống 400ml
dung dịch maltodextrin 12,5% và nhóm nhịn
hồn tồn.

Chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh
giá thể tích tồn lưu dạ dày của dung dịch
maltodextrin 12,5% uống 2 giờ trước gây mê”
nhằm trả lời câu hỏi “bệnh nhân uống 400 ml
maltodextrin 12,5% 2 giờ trước khởi mê có làm
tăng thể tích tồn lưu dạ dày so với thể tích tồn

Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức


ĐỐI TƯỢNG– PHƯƠNG PHÁP NGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân được lên chương trình
phẫu thuật tuyến giáp tại bệnh viện Nhân Dân
Gia Định từ tháng 12/2018 – tháng 05/2019.

Tiêu chí nhận vào
Bệnh nhân độ tuổi từ 18 – 70 , ASA I – III,
đồng ý tham gia nghiên cứu và được lên chương
trình phẫu thuật tuyến giáp.
Tiêu chí loại trừ
Đái tháo đường phụ thuộc insulin hoặc
không phụ thuộc insulin, bệnh nhân có thai, béo
phì nặng (BMI >35 kg
), nuốt khó, hẹp thực
quản, tắc ruột, trào ngược dạ dày-thực quản
hoặc sử dụng các thuốc ảnh hưởng đến nhu
động ruột, tiền căn phẫu thuật dạ dày, chẩn
đốn bướu giáp thịng trung thất.
Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối
chứng, khơng mù.

77


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 24 * Số 3 * 2020
Cỡ mẫu

Cỡ mẫu được tính dựa trên cơng thức so
sánh trung bình 2 dân số, độ mạnh nghiên cứu
80%, độ tin cậy 95%, độ lệch chuẩn lấy từ nghiên
cứu của Bouvet L(6) là 18,6 ml. Độ chênh lệch
trung bình dự đốn giữa 2 nhóm là 15ml. Mỗi
nhóm ước tính cần tối thiểu 25 bệnh nhân. Kết
luận chúng tôi lấy cỡ mẫu là 60 với 30 bệnh nhân
thuộc mỗi nhóm nghiên cứu.

Nghiên cứu Y học

tồn với thời gian nhịn ăn hơn 8 giờ và thời gian
nhịn uống dịch trong hơn 2 giờ.

Phương pháp thực hiện
Nhóm can thiệp
Bệnh nhân được cho phép uống dịch trong
đến 2 giờ trước mổ theo khuyến cáo của ASA.
3 giờ trước mổ, 400 ml maltodextrin 12,5%
được mang đến cho bệnh nhân. Bệnh nhân uống
dần đến hết trong thời gian trước mổ 2 giờ.
Tại phòng mổ, trước khi dẫn mê, bệnh nhân
được đánh giá mức độ khát theo thang điểm
VAS. Bác sĩ gây mê có chứng chỉ siêu âm tổng
quát sẽ thực hiện siêu âm hang vị bằng máy siêu
âm GE Logiq E và đầu dò lồi 4C ở 2 tư thế, đầu
tiên là nằm ngửa, sau đó đến tư thế nghiêng
phải để đánh giá phân độ thể tích tồn lưu dạ dày
theo 3 độ của Perlas(7). Người nghiên cứu sẽ thu
thập số liệu. 3 trường hợp có thể xảy ra:

Trống: thể tích tồn lưu dạ dày = 0.
Thức ăn đặc: Đánh giá lại việc tuân thủ nhịn
ăn của bệnh nhân.
Dịch: bắt đầu xoay nhẹ đầu dò để lấy mặt cắt
tròn và nhỏ nhất để tính đường kính trước sau
và đường kính trên dưới của hang vị cắt ngang,
sau đó tính được diện tích mặt phẳng cắt ngang
hang vị, dựa vào cơng thức của Perlas(8), ta có
được thể tích tồn lưu dạ dày ước đốn.
Để tránh sai số, bác sĩ siêu âm khơng biết
bệnh nhân thuộc nhóm nào. Lưu ý hỗn mổ khi
hang vị chứa thức ăn đặc và bệnh nhân không
tuân thủ thời gian nhịn ăn hoặc thể tích dịch >1,5
ml/kg vì nguy cơ hít sặc cao(7).
Tại phịng hồi tỉnh, bệnh nhân được bác sĩ
gây mê theo dõi và đánh giá mức độ khát 2 giờ
sau mổ bằng VAS.
Nhóm chứng bao gồm bệnh nhân nhịn hồn

78

Hình 1. Hình ảnh hang vị chứa dịch trong với đường
kính trên dưới (đường chấm vàng 1) và đường kính
trước sau (đường chấm vàng 2). Nguồn: ảnh thu
thập từ nghiên cứu
Biến số nghiên cứu

Biến số chính
Là thể tích tồn lưu dạ dày trước khởi mê,
được tính theo công thức của Perlas(8):

V (ml) = 27 + 14,6 x CSA (nghiêng phải) –
1,28 x tuổi.
CSA (Cross-sectional area of the antrum) là
diện tích mặt phẳng cắt ngang hang vị tính bằng
cơng thức sau: (AP x CC x )/4 (
).
Trong đó:
AP (Anteroposterior diameter) = đường kính
trước sau của hang vị (cm)
CC (Craniocaudal diameter) = đường kính
trên dưới của hang vị (cm)
Biến số phụ
Là mức độ khát tính theo thang điểm VAS
(Visual analogue score) ngay trước khởi mê và 2
giờ sau phẫu thuật, phân độ Perlas(7) với
Độ 0: dạ dày trống khi siêu âm hang vị ở cả 2
tư thế nằm ngửa và nằm nghiêng;
Độ 1: dịch chỉ xuất hiện ở tư thế nghiêng
phải;
Độ 2: dịch xuất hiện ở 2 tư thế. Các biến số
kiểm soát như tuổi, giới, phân loại sức khỏe theo
ASA, cân nặng, chiều cao, chỉ số khối cơ thể BMI

Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 24 * Số 3 * 2020


(Body Mass Index), tổng thời gian nhịn uống
trước khởi mê, lượng dịch nhập trung bình trong
phẫu thuật cũng được ghi nhận.

nghĩa thống kê với giá trị p <0,05.
Y đức
Nghiên cứu đã được thông qua bởi Hội
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học của
Đại học Y Dược TP. HCM số 316/ĐHYD-HĐĐĐ
ngày 19/09/2018.

Xử lý và phân tích số liệu
Các dữ liệu thu nhận trong nghiên cứu được
phân tích theo phân phối chuẩn hoặc khơng chuẩn.
Biến số định tính được so sánh bằng phép
kiểm Chi bình phương. Tất cả các khác biệt có ý

Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn
(n=61)
1 bệnh nhân từ
chối tham gia
Chọn ngẫu nhiên ( n = 60)
Nhóm can thiệp
(n=30)

Nhóm chứng
(n=30)

Nhóm can thiệp
(n=30)


Theo dõi
(n = 60)

Nhóm chứng
(n=30)

Nhóm can thiệp
(n=30)

Phân tích
(n = 60)

Nhóm chứng
(n=30)

Hình 2. Lưu đồ nghiên cứu
khởi mê. Theo cơng thức của Perlas, chúng tơi
KẾT QUẢ
ước tính được thể tích tồn lưu dạ dày của hai
Các đặc điểm chung như tuổi, tỷ lệ nam/nữ,
nhóm lần lượt là 30,27±16,70 (ml) và 33,88±15,43
chiều cao, cân nặng, BMI, phân độ ASA được
(ml). Chúng tơi thấy rằng khơng có sự khác biệt
thống kê và mơ tả theo Bảng 1.
có ý nghĩa thống kê với p >0,05 (Bảng 2).
Nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận
trường hợp nào trào ngược, hít sặc trong lúc
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân của hai nhóm trong nghiên cứu
Tên biến

Tuổi (năm
Nam/Nữ *
Chiều cao (m) *
Cân nặng (kg) †
BMI (kg.
)†
Phân loại ASA ‡
n (%)
I
II
III

* Trung bình ± độ lệch chuẩn

Nhóm can thiệp (n=30)
48,47 ± 13,37
4/26
1,56 ± 0,06
54,5 (50 – 61,5)
23(20,59 – 25,53)

Nhóm chứng (n=30)
42,13 ± 12,62
5/25
1,58 ± 0,07
55 (50 – 57,75)
21,4(20,55-23,07)

8 (26,67)
21 (70)

1 (3,33)

15 (50)
14 (46,67)
1 (3,33)

† Trung vị (khoảng tứ phân vị)

p
0,06
0,95
0,21
0,79
0,24
0,11

‡ Số bệnh nhân (%)

BMI (Body max index): chỉ số khối cơ thể, ASA (American Society of Anaesthesiologists): Hiệp hội Gây mê hồi sức Hoa Kỳ

Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức

79


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 24 * Số 3 * 2020

Nghiên cứu Y học

Bảng 2. Đánh giá ảnh hưởng của dung dịch maltodextrin lên thể tích tồn lưu dạ dày

Tên biến
Phân độ Perlas *
Độ 0
Độ 1
Độ 2
CSA (

Thể tích tồn lưu dạ dày ( ml) ‡

*Số bệnh nhân (%)

Nhóm can thiệp (n=30)

Nhóm chứng (n=30)

0
23 (76,67)
7 (33,33)
4,27 (3,33 – 5,39)
30,27 ± 16,70

2 (6,67)
23 (76,67)
5 (16,66)
4,28 (3,49 – 4,69)
33,88 ± 15,43

† Trung vị (khoảng tứ phân vị)

p

0,42

0,69
0,39

‡ Trung bình ± độ lệch chuẩn

CSA – Diện tích mặt phẳng cắt ngang hang vị

Bảng 3. Mức độ khát theo VAS
Tên biến
Mức khát trước phẫu thuật (mm)
Mức khát sau phẫu thuật 2 giờ (mm)
Lượng dịch nhập trung bình trong phẫu thuật (ml.

.

)

Số liệu được trình bày bằng trung vị (khoảng tứ phân vị)

Dựa vào Bảng 3, mức khát ở hai nhóm khác
nhau ở cả hai thời điểm trước và sau phẫu thuật
(p <0,05). Ở cả hai nhóm, điểm VAS mức độ khát
sau phẫu thuật đều cao hơn điểm VAS mức độ
khát trước phẫu thuật.

BÀN LUẬN
Chúng tơi ghi nhận thể tích tồn lưu dạ dày
của bệnh nhân uống 400ml maltodextrin 12,5%

trước gây mê 2 giờ và bệnh nhân nhịn uống
trước phẫu thuật >2 giờ khơng có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, bệnh nhân thuộc
nhóm chứng có cảm giác khát nhiều hơn bệnh
nhân uống maltodextrin.
Trong nghiên cứu của chúng tơi, thời gian
nhịn uống trung bình của bệnh nhân thuộc
nhóm chứng là 9 ± 3 giờ, trong khi khuyến cáo
của ASA là cho phép uống dịch trong đến 2 giờ
trước phẫu thuật. Việc nhịn đói kéo dài dẫn đến
rối loạn về chuyển hóa chu phẫu với bằng chứng
nghiên cứu của Crow PJ về hiệu quả của truyền
đường glucose làm giảm lượng Nitrogen mất do
chuyển hóa(9). Một vấn đề khác được đặt ra là
những loại đường thông thường để cung cấp
năng lượng trước phẫu thuật có nồng độ thẩm
thấu cao, vì thế, có thể dẫn đến chậm làm trống
dạ dày, tăng nguy cơ hít sặc. Cho đến khi năm
1995, bằng kỹ thuật xạ hình dạ dày, Nygren J
nghiên cứu về maltodextrin 12,5% ghi nhận rằng
khi bệnh nhân uống 400ml dung dịch này thì

80

Nhóm can thiệp (n=30)
40 (30 – 47,5)
55 (32,5 – 60)
8,28 (6,96 – 10,8)

Nhóm chứng (n=30)

50 (40 – 60)
80 (52,5 – 80)
8,43 (7,24 – 10,82)

p
0,04*
0,002*
0,74

* p <0,05

thời gian làm trống dạ dày là 90 phút(7), chứng
minh được rằng sau 2 giờ, dạ dày khơng cịn
dịch tồn lưu. Kết quả nghiên cứu của tác giả là
tiền đề cho nghiên cứu của chúng tôi và nghiên
cứu của các tác giả khác về lợi ích của
maltodextrin trước phẫu thuật.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương
đồng với những nghiên cứu của các tác giả khác
về sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê của
thể tích tồn lưu dạ dày ở người uống dung dịch
maltodextrin và bệnh nhân nhịn hồn tồn. Thể
tích tồn lưu dạ dày chúng tơi ghi nhận được ở
nhóm can thiệp và nhóm chứng lần lượt là
30,27±16,70 ml và 33,88±15,43 ml (p >0,05). Thể
tích tồn lưu ở tất cả bệnh nhân đều 1,5 ml/kg
và khơng có trường hợp nào có nguy cơ hít sặc
cao theo đánh giá của Perlas(7). Thống kê cho
thấy khơng có sự khác biệt về tỷ lệ bệnh nhân
theo phân độ nguy cơ hít sặc ở 2 nhóm. Điều đó

chứng tỏ việc nhịn đói khơng có nghĩa là dạ dày
trống, phù hợp với nghiên cứu của Van de Putte
P(10) khảo sát thể tích tồn lưu dạ dày bằng siêu
âm ở 538 bệnh nhân phẫu thuật chương trình
gây mê tổng quát đã tuân thủ theo khuyến cáo
nhịn ăn của ASA, kết quả cho thấy có 26 bệnh
nhân có nguy cơ hít sặc cao theo phân độ Perlas,
mặc dù họ khơng có yếu tố nguy cơ về chậm làm
trống dạ dày. Điều đó đưa ra giả thuyết rằng
việc nhịn đói kéo dài vẫn khiến dạ dày tăng bài

Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 24 * Số 3 * 2020

tiết dịch và làm tăng thể tích tồn lưu dạ dày ở
những bệnh nhân mổ chương trình.
So sánh với các nghiên cứu khác, thể tích tồn
lưu dạ dày trong nghiên cứu chúng tôi cao hơn
các nghiên cứu của Yagci G(11), Yilmaz N(12),
Brianez L(14), Lobo D(15). Chúng tôi nghĩ rằng
nguyên nhân của sự khác biệt này do phương
pháp đo lường thể tích tồn lưu khác nhau.
Các tác giả sử dụng phương pháp khảo sát
thể tích tồn lưu dạ dày khác nhau như Yagci G,
Yilmaz N sử dụng ống thông dạ dày để hút dịch
sau khi khởi mê, Brianez L và Lobo D dùng MRI

dạ dày. Mỗi phương pháp đều có ưu và khuyết
điểm riêng. Các kết quả từ thể tích dịch hút từ
ống thông dạ dày chênh lệch và phụ thuộc vào
tư thế bệnh nhân và vị trí đầu tận, MRI có thể là
phương pháp tin cậy hơn, không xâm lấn, tương
quan tốt với xạ hình dạ dày - vốn được xem là
tiêu chuẩn vàng trong đo thể tích dịch dạ dày.
Tuy nhiên, cả MRI và xạ hình đều tốn kém và
khơng thực tế trên lâm sàng vì mất nhiều thời
gian để đánh giá trước phẫu thuật nên chỉ thích
hợp trong nghiên cứu. Và gần đây, nhiều nghiên
cứu về ứng dụng của siêu âm trong tính tốn thể
tích tồn lưu dạ dày được cơng bố trên các tạp chí
gây mê thế giới. Kết quả thể tích tồn lưu dạ dày
đo được bằng MRI của tác giả Brianez L và Lobo
D gần tương đồng với thể tích tồn lưu dạ dày đo
được từ siêu âm của chúng tôi cho thấy siêu âm
đánh giá tương đối chính xác thể tích dịch dạ
dày nhưng có thể được thực hiện nhanh trước
gây mê so với MRI. Các tác giả ghi nhận rằng
dựa vào diện tích mặt phẳng cắt ngang hang vị,
siêu âm cho kết quả tương đối tin cậy về thể tích
dịch trong dạ dày.
Tuy nhiên, thể tích tồn lưu dạ dày của
chúng tơi cao hơn thể tích tồn lưu dạ dày cũng
ước tính bằng siêu âm trong nghiên cứu của
tác giả Gomes C do tác giả tính tốn thể tích
tồn lưu dạ dày dựa theo cơng thức tốn học
thể tích hình e-líp, cịn chúng tơi dựa theo
thuật tốn từ nghiên cứu Perlas đã được cơng

bố. Cơng thức chúng tơi căn cứ vào diện tích
mặt phẳng cắt ngang hang vị và biến số nền

Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức

ảnh hưởng nên cá thể hóa hơn.
Về mức độ khát, nghiên cứu chúng tôi và các
tác giả Helminen H(16), Wang Z(17), Sada F(18) đều
đồng thuận về việc uống dung dịch
maltodextrin 12,5% trước gây mê 2 giờ làm giảm
cảm giác khát cho bệnh nhân trước và sau mổ.
Tuy nhiên, điểm VAS mức độ khát ở nghiên cứu
chúng tôi cao hơn các nghiên cứu của các tác giả
khác. Nguyên nhân có thể vì các nghiên cứu
khác thực hiện ở khí hậu ôn đới, lượng dịch mất
qua mồ hôi của bệnh nhân thấp hơn bệnh nhân
chúng tơi, nhu cầu dịch tính theo cân nặng và
thể tích dịch bồi hồn trong mổ cũng cao hơn
nên sau mổ bệnh nhân sẽ có điểm VAS khát
thấp hơn.
Nghiên cứu chúng tơi cịn tồn tại một số giới
hạn sau: Việc siêu âm chỉ thực hiện một lần bởi
một bác sĩ siêu âm nên giảm độ chính xác. Ở
những bệnh nhân có bất thường giải phẫu học,
kết quả thể tích dịch dạ dày đo được bằng siêu
âm sẽ không đáng tin cậy. Hiện nay, tiêu chuẩn
vàng để đánh giá thể tích tồn lưu dạ dày trước
mổ trên lâm sàng cịn đang bàn cãi. Vai trị và độ
chính xác của siêu âm trong lĩnh vực này nên
được nghiên cứu sâu hơn nhằm so sánh với các

kĩ thuật xâm lấn khác như xạ hình dạ dày, nội
soi dạ dày hút dịch v.v. Cuối cùng, nghiên cứu
này chỉ tập trung trên thể tích tồn lưu dạ dày ở
phương diện hít sặc chu phẫu liên quan mật
thiết với chuyên môn gây mê hồi sức nên ảnh
hưởng của maltodextrin trên đường huyết và
chuyển hóa trước mổ ở bệnh nhân Việt Nam cần
được nghiên cứu thêm.
Chúng tôi kiến nghị dung dịch maltodextrin
trong công tác chuẩn bị bệnh nhân trước phẫu
thuật cần được nghiên cứu sâu hơn với cỡ mẫu
lớn hơn ở các loại phẫu thuật đa dạng hơn.

KẾT LUẬN
Trong thời gian từ tháng 12/2018 đến tháng
05/2019, nghiên cứu của chúng tơi cho bệnh
nhân nhóm can thiệp uống 400 ml dung dịch
maltodextrin 12,5% trước gây mê 2 giờ là an tồn
và có lợi ích giảm mức độ khát trong phẫu thuật

81


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 24 * Số 3 * 2020
tuyến giáp so với nhóm chứng. Vì thế, dung dịch
này có thể được chỉ định thường quy cho các
bệnh nhân uống trước gây mê 2 giờ nếu khơng
có chống chỉ định về các yếu tố nguy cơ làm
chậm làm trống dạ dày.


9.

10.
11.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

82

ASA (2017). "Practice Guidelines for Preoperative Fasting and
the Use of Pharmacologic Agents to Reduce the Risk of
Pulmonary Aspiration: Application to Healthy Patients
Undergoing Elective Procedures: An Updated Report by the
American Society of Anesthesiologists Task Force on
Preoperative Fasting and the Use of Pharmacologic Agents to

Reduce the Risk of Pulmonary Aspiration". Anesthesiology,
126(3):376-393.
Lassen K, Soop M, Nygren J, et al (2009). "Consensus review of
optimal perioperative care in colorectal surgery: Enhanced
Recovery After Surgery (ERAS) Group recommendations". Arch
Surg, 144(10):961-9.
Faria MS, de Aguilar-Nascimento JE, Pimenta OS, et al (2009).
"Preoperative fasting of 2 hours minimizes insulin resistance
and organic response to trauma after video-cholecystectomy: a
randomized, controlled, clinical trial". World J Surg, 33(6):115864.
Mendelson CL (1946). The aspiration of stomach contents into
the lungs during obstetric anesthesia. American Journal of
Obstetrics and Gynecology, 52:191–205.
Awad S, Varadhan KK, Ljungqvist O, et al (2013). "A metaanalysis of randomised controlled trials on preoperative oral
carbohydrate treatment in elective surgery". Clin Nutr, 32(1):3444.
Bouvet L, Mazoit JX, Chassard D, et al (2011). "Clinical
assessment of the ultrasonographic measurement of antral area
for estimating preoperative gastric content and volume".
Anesthesiology, 114(5):1086-92
Nygren J, Thorell A, Jacobsson H, et al (1995). "Preoperative
gastric emptying. Effects of anxiety and oral carbohydrate
administration". Ann Surg, 222(6):728-34.
Perlas A, Davis L, Khan M, et al (2011). "Gastric sonography in
the fasted surgical patient: a prospective descriptive study".
Anesth Analg, 113(1):93-7.

12.

13.


14.

15.

16.

17.

18.

Nghiên cứu Y học

Crowe PJ, Dennison A, Royle GT (1984). "The effect of preoperative glucose loading on postoperative nitrogen
metabolism". Br J Surg, 71(8):635-7.
Van de Putte P, Perlas A (2014). "Ultrasound assessment of
gastric content and volume". Br J Anaesth, 113(1):12-22.
Yagci G, Can MF, Ozturk E, et al (2008). "Effects of preoperative
carbohydrate loading on glucose metabolism and gastric
contents in patients undergoing moderate surgery: a
randomized, controlled trial". Nutrition, 24(3):212-6.
Yilmaz N, Cekmen N, Bilgin F, et al (2013). "Preoperative
carbohydrate nutrition reduces postoperative nausea and
vomiting compared to preoperative fasting". J Res Med Sci,
18(10):827-32.
Gomes C, Cervantes C, Jose E, et al (2017). "Residual gastric
volume evaluation with ultrasonography after ingestion of
carbohydrate- or carbohydrate plus glutamine-enriched
beverages: A randomized, crossover clinical trial with healthy
volunteers". Arq Gastroenterol, 54(1):33-36.
Brianez L, Cervantes C,Yure De Moura W, et al (2014). "Gastric

residual volume by magnetic ressonance after intake of
maltodextrin and glutamine: A randomized double-blind,
crossover study". Arq Gastroenterol, 51(2):123-127.
Lobo DN, Hendry PO, Rodrigues G, et al (2009). "Gastric
emptying of three liquid oral preoperative metabolic
preconditioning regimens measured by magnetic resonance
imaging in healthy adult volunteers: a randomised doubleblind, crossover study". Clin Nutr, 28(6):636-41.
Helminen H, Viitanen H, Sajanti J (2009). "Effect of preoperative
intravenous carbohydrate loading on preoperative discomfort
in elective surgery patients". Eur J Anaesthesiol, 26(2):123-7.
Wang ZG, Wang Q, Wang WJ, et al (2010). "Randomized clinical
trial to compare the effects of preoperative oral carbohydrate
versus placebo on insulin resistance after colorectal surgery". Br
J Surg, 97(3):317-27.
Sada F, Krasniqi A, Hamza A, et al (2014). "A randomized trial
of preoperative oral carbohydrates in abdominal surgery". BMC
Anesthesiol, 14:93.

Ngày nhận bài báo:

17/07/2020

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo:

20/08/2020

Ngày bài báo được đăng:

30/08/2020


Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức



×