LỜI NÓI ĐẦU
Sau sự kiện việt Nam ra nhập WTO vào tháng 11/2006 thì sự cạnh
tranh trong lĩnh vực Tài chính –Ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt ,quyết
liệt hơn. Điều này vừa tạo ra những cơ hội cho các Ngân hàng Thương mại
(NHTM) Việt Nam phát triển và tự khẳng định mình nhưng đồng thời nó
cũng tạo ra những thách thức lớn mà các ngân hàng phải đối đầu.Trong điều
kiện cạnh tranh quyết liệt như vậy,khi thị phần của ngân hàng dần bị chiếm
chỗ bởi các định chế tài chính khác , các NHTM việt Nam cần phải làm gì
để phát triển nhanh và bền vững ?
Chiến lược “Ngân hàng Bán lẻ” chính là một hướng đi mới mà các
NHTM Việt Nam đã tìm ra và đang trong những bước đầu của quá trình thực
hiện.
Ngân hàng bán lẻ được hiểu là ngân hàng cung cấp các dịch vụ trực tiếp
cho các doanh nghiệp,hộ gia đình và các cá nhân với quy mô các khoản giao
dịch nhỏ,bao gồm :Tiền gửi tiết kiệm; Tài khoản ATM ;Cho vay thế chấp ;
Cho vay tiêu dùng cá nhân …
Tuy nhiên trong điều kiện công nghệ &cơ sở vật chất còn yếu,các NHTM
Việt Nam đã lựa chọn thực hiện hoạt động Cho vay tiêu dùng trước tiên và
coi đó là bước đi ban đầu an toàn và hiệu quả trong chiến lược “Ngân hàng
Bán lẻ”
Thêm vào đó ,cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ,các sản
phẩm ,dịch vụ tiêu dùng ngày càng trở nên phong phú , đa dạng,phù hợp với
nhu cầu của người tiêu dùng .Tuy nhiên ,với mức thu nhập như hiện
nay,phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua
sắm cùng lúc , đặc biệt là những vật dụng đắt tiền.Nếu người tiêu dùng có
thể vay được tiền từ ngân hàng thì họ có thể thoả mãn được nhu cầu của họ
ngay trong hiện tại . Điều đó làm tăng sự tiêu dùng hàng hoá ,thúc đẩy hoạt
động sản xuất kinh doanh của các hãng,tạo nhiều công ăn việc làm cho
người lao động ,góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của toàn xã
hội một cách nhanh chóng .Do đó,với việc thực hiện hoạt động cho vay tiêu
dùng ,một mặt có thể thực hiện tốt nhiệm vụ kích cầu cho nền kinh tế,tạo
nên sự hoà hợp giữa Cung & Cầu tiêu dùng.Mặt khác ,nó còn đem lại những
khoản lợi nhuận lớn cho ngân hàng .Chính vì vậy ,Cho vay tiêu dùng được
xem là một hướng đi mới ,một lĩnh vực kinh doanh đầy triển vọng cho các
NHTM Việt Nam.
Xuất phát từ những nhận thức trên cùng với những kiến thức thực tế thu
được trong quá trình thực tập tại Sở giao dịch 1-Ngân hàng Công thương
Việt Nam đã gợi mở cho em thực hiện đề tài :
“ Phát triển cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch 1-Ngân hàng Công
thương Việt Nam”
Ngoài phần mở đầu ,kết luận ,chuyên đề được chia làm 3 chương:
*Chương 1:Tổng quan về hoạt động Cho vay tiêu dùng của NHTM
*Chương 2:Thực trạng Cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch 1-Ngân
hàng Công thương Việt Nam.
*Chương 3:Giải pháp phát triển cho vay tiêu dùng tại Sở giao
dịch 1-Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Trong quá trình hoàn thiện đề tài này ,em đã nhận được sự hướng dẫn ,giúp
đỡ tận tình của PGS.TS Đào Hùng cùng với cán bộ,nhân viên công tác tại
phòng Khách hàng Cá nhân của Sở giao dich 1-Ngân hàng Công thương
Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
1.1: Khái niệm , đối tượng , đặc điểm và chức năng của CVTD
1.1.1: Khái niệm CVTD.
Nhắc đến NHTM thì không thể không nhắc đến hoạt động cho vay. Đặc
biệt , đối với các NHTM Việt Nam thì lợi nhuận từ hoạt động cho vay đem
lại chiếm một phần rất lớn trong tổng lợi nhuận của Ngân hàng .Do vậy,cho
vay được xem là hoạt động chủ đạo của các NHTM Việt Nam.
Hoạt động cho vay có thể được hiểu “là một giao dịch về tài sản(tiền
hoặc hàng hoá),giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác)
và bên đi vay(cá nhân,doanh nghiệp và các chủ thể khác),trong đó: Bên cho
vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định
theo thoả thuận ,Bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và
lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”
Dựa trên những tiêu thức khác nhau thì người ta có thể phân chia cho vay
làm nhiều loại như: Cho vay theo “Mức độ tín nhiệm khách hàng” (gồm có:
Cho vay có bảo đảm và cho vay không có bảo đảm) ;Cho vay theo “Đối
tượng tham gia vào quy trình cho vay”(gồm có: cho vay trực tiếp và cho vay
gián tiếp ) ; Và dựa trên tiêu thức “Mục đích sử dụng vốn” thì cho vay gồm
có :Cho vay sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng.
Nếu Cho vay SXKD là hoạt động ngân hàng cho các tổ chức ,doanh
nghiệp hay các công ty vay để kinh doanh dịch vụ hay thực hiện các dự án
đầu tư,các phương án sản xuất thì Cho vay tiêu dùng lại là hình thức tài trợ
cho nhu cầu chi tiêu.
Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp người vay trang trải nhu cầu
nhà ở, đồ dùng gia đình , xe cộ…Bên cạnh đó ,những chi tiêu cho nhu cầu
giáo dục ,y tế và du lịch cũng có thể được tài trợ bởi CVTD .Như vậy ,bằng
việc CVTD các ngân hàng sẽ giúp các cá nhân,hộ gia đình thoả mãn nhu cầu
trước khi họ có khả năng chi trả .
Do đó ,ta có thể đưa ra một khái niệm mang tính tổng quát về CVTD tại
NHTM như sau:
“Cho vay tiêu dùng là một hình thức cho vay,qua đó Ngân hàng chuyển cho
khách hàng (cá nhân hay hộ gia đình) quyền sử dụng một lượng giá trị (tiền)
trong một khoảng thời gian nhất định ,với những thoả thuận mà hai Bên đã kí
kết (về số tiền cấp; thời gian cấp; lãi suất phải trả …) nhằm giúp cho khách
hàng có thể sử dụng những hàng hoá và dịch vụ trước khi họ có khả năng chi
trả ,tạo điều kiện cho họ có thể hưởng một cuộc sống cao hơn”
1.1.2: Đối tượng của CVTD.
Đối tượng của CVTD rất đa dạng ,nhưng có thể khái quát thành các
nhóm như sau :
*Nhóm đối tượng có thu nhập thấp.
Những người có thu nhập thấp thì thông thường nhu cầu vay để tiêu dùng
không cao và bị giới hạn bởi thu nhập ,việc vay vốn chỉ nhằm cân đối giữa
thu nhập &chi tiêu.
*Nhóm đối tượng có thu nhập trung bình.
Nhóm đối tượng này muốn vay để tiêu dùng hơn là dùng chính tiền tích
luỹ ,dự phòng của mình để chi tiêu.Do đó ,nhóm đối tượng này có nhu cầu
vay vốn tăng mạnh so với Nhóm đối tượng có thu nhập thấp.
*Nhóm đối tượng có thu nhập cao.
Nhóm đối tượng này vay tiêu dùng nhằm tăng khả năng thanh toán và coi
đó như một khoản linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền tích luỹ của họ chưa cao
hay lợi nhuận do đầu tư mang lại chưa thu được. Đây là nhóm đối tượng có
những khoản tiêu dùng lớn và thường xuyên . Do đó,các NHTM cần dùng
những biện pháp thích hợp để tiếp cận và mở rộng nhóm đối tượng này.
1.1.3: Đặc điểm của CVTD.
1.1.3.1: Đặc điểm về qui mô.
Đối với CVTD ta có thể thấy một đặc điểm là: “Qui mô các khoản vay
nhỏ nhưng số lượng các khoản vay rất lớn”.Với mục đích vay để tiêu dùng
nên các khoản vay thường không lớn.Hơn nữa,nhu cầu của dân cư với các
loại hàng hoá xa xỉ là không cao hoặc người vay cũng đã có một khoản tiền
tích luỹ trước đối với các loại tài sản có giá trị lớn.Tuy vậy,vay tiêu dùng lại
là nhu cầu vay vốn khá phổ biến, đa dạng và thường xuyên đối với mọi tầng
lớp dân cư nên mặc dù mỗi món vay tiêu dùng có quy mô nhỏ nhưng do số
lượng các khoản vay lớn khiến cho tổng quy mô CVTD của các ngân hàng
thường khá lớn.
1.1.3.2: Đặc điểm về lãi suất.
Không như hầu hết các khoản cho vay SXKD hiện nay có lãi suấtt thay
đổi theo điều kiện thị trường,lãi suất CVTD thường được cố định. Khi đưa
ra mức lãi suất cho vay cố định này các ngân hàng sẽ phải dự tính đến :yếu
tố lãi suất huy động đầu vào (có xu hướng thay đổi như thế nào ?); tính đến
phần bù rủi ro và chi phí . Tuy qui mô mỗi khoản vay nhỏ nhưng số lượng
các khoản vay lớn nên tổng chi phí lớn.Hơn nữa ,CVTD còn được xem là
tiềm ẩn nhiều rủi ro nên phần bù rủi ro cũng khá cao.Vì thế , lãi suất CVTD
thường cao và cố định.
1.1.3.3: CVTD có tính nhạy cảm theo chu kỳ.
Thật vậy ,số lượng các khoản CVTD phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng của
dân cư và cầu có khả năng thanh toán của họ .Do đó,nó có tính nhạy cảm
theo chu kỳ .Số lượng các khoản CVTD sẽ tăng lên trong thời kỳ kinh tế
phát triển .Lúc này,người dân có mức thu nhập tương đối cao và ổn định,tình
hình hình kinh tế xã hội đầy lạc quan.Và ngược lại ,trong thời kỳ nền kinh tế
rơi vầo suy thoái,rất nhiều cá nhân và hộ gia đình sẽ cảm thấy không mấy tin
tưởng vào tương lai ,nhất là khi họ thấy thu nhập cuả họ giảm xuống.Lúc
này,mọi người có xu hướng tiết kiệm hơn là tiêu dùng .Do đó, việc vay ngân
hàng nói chung và vay tiêu dùng nói riêng sẽ hạn chế, làm cho số lượng các
khoản CVTD giảm xuống trầm trọng .
1.1.3.4: Đặc điểm về rủi ro.
Nhìn chung,các khoản CVTD có độ rủi ro cao vì bên cạnh sự ảnh hưởng
của các yếu tố khách quan như môi trường kinh tế,văn hoá ,xã hội… nó còn
chịu tác động của những nhân tố chủ quan xuất phát từ bản thân khách hàng.
Trong cuộc sống chúng ta không thể lường trước được hết hậu quả do
những rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế,mất mùa ,thiên tai…Đặc
biệt,hoạt động CVTD phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế .Khi nền kinh tế suy
thoái thì người tiêu dùng sẽ không thấy tin tưởng vào tương lai và cùng với
những lo lắng về thu nhập,nguy cơ thất nghiệp,họ sẽ hạn chế việc vay mượn
từ ngân hàng .
Ngoài ra,CVTD còn chịu một số rủi ro chủ quan như tình trạng sức
khoẻ,khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình…Điều đó tạo nên rủi ro lớn
cho ngân hàng ,hơn nữa thông tin tài chính của đối tượng này rất khó đầy đủ
và chính xác hoàn toàn bởi số lượng các khoản vay rất lớn trong khi số
lượng cán bộ tín dụng của ngân hàng thì có hạn.Mặt khác ,yếu tố đạo đức cá
nhân người tiêu dùng cũng là nhân tố tác động trực tiếp vào việc trả nợ cho
ngân hàng .
1.1.3.5: Đặc điểm về chi phí và lợi nhuận của CVTD.
*Về chi phí:Do thông tin thân nhân ,lai lịch và tình hình tài chính của
khách hàng thường không đầy đủ và khó thu thập, ngân hàng phải bỏ nhiều
chi phí cho công tác thẩm định và xét duyệt cho vay.Hơn thế nữa,do khoản
vay có qui mô nhỏ và số lượng khoản vay rất lớn nên ngân hàng cũng phải
chịu một chi phí đáng kể để quản lý hồ sơ khách hàng .Chính vì thế,CVTD
trở thành một trong những khoản mục có chi phí lớn nhất trong hoạt động tín
dụng ngân hàng.
*Về lợi nhuận:Do rủi ro và chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ của CVTD
lớn nên ngân hàng thường đặt lãi suất cao đối với các khoản CVTD. Bên
cạnh đó ,số lượng các khoản CVTD rất lớn làm cho tổng lợi nhuận thu được
từ hoạt động CVTD của các NHTM là rất đáng kể.
1.1.4:Vai trò của CVTD.
1.1.4.1: Vai trò của CVTD đối với khách hàng.
Cho vay tiêu dùng là các cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của
khách hàng .Nhờ những khoản vay tiêu dùng từ ngân hàng ,họ có thể mua
sắm những hàng hoá cần thiết , các hàng hoá xa xỉ ,có giá trị cao, giúp thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cuộc sống ngay cả khi khả năng tài chính
hiện tại của họ chưa cho phép .Vì vậy,việc ngân hàng thực hiện và phát triển
hoạt động CVTD sẽ mang đến những lợi ích tốt ,thiết thực cho khách
hàng.Có thể nói rằng ,Khách hàng chính là những người hưởng lợi nhiều
nhất và trực tiếp những lợi ích mà hình thức CVTD này mang lại .
1.1.4.2:Vai trò của CVTD đối với ngân hàng.
CVTD tuy đã xuất hiện từ những năm 1980,nhưng gần đây nó mới được
các NHTM quan tâm mở rộng và phát triển.Và loại hình tín dụng này còn
khá mới mẻ ở các NHTM Việt Nam .Nhưng không phải vì thế mà phủ nhận
vai trò quan trọng của hoạt động CVTD đối với các NHTM.Vai trò ấy được
khái quát như sau:
-CVTD tạo điều kiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ đó góp phần
giúp các NHTM tăng khả năng cạnh tranh,nâng cao thu nhập và phân tán
được rủi ro.
Trong điều kiện ngày nay,khi mà sự cạnh tranh trong lĩnh vực Tài chính-
Ngân hàng ngày càng gay gắt ,quyết liệt thì vai trò của CVTD thực sự quan
trọng đối với các NHTM ,bởi nó góp phần tăng khả năng cạnh tranh giữa
các ngân hàng so với các định chế tài chính khác .CVTD ,nếu xét về tổng
quy mô thì mức độ rủi ro của nó lớn (do quy mô lớn ) ,nhưng thực tế do quy
mô của mỗi khoản cho vay thường nhỏ và số lượng các khoản vay tiêu dùng
lớn nên ngân hàng có thể phân tán được rủi ro tốt hơn .Hơn nữa,do lãi suất
CVTD thường cao nên thu nhập của các NHTM từ hoạt động CVTD thường
rất lớn.
-CVTD giúp các NHTM mở rộng quan hệ với khách hàng.
Do tính lan truyền trong dân cư là rất cao nên các Ngân hàng có thể
thông qua các khoản cho vay tiêu dùng mà quảng cáo về mình, từ đó thu hút
các khách hàng đến với các dịch vụ khác của Ngân hàng. Trong khi đó các
khoản tín dụng tiêu dùng tuy là những khoản tín dụng nhỏ nhưng nhu cầu về
chúng lại rất lớn nên nếu khai thác được thị trường này thì các Ngân hàng
thương mại có thể sử dụng được một số lượng vốn lớn. Hơn nữa, dân cư là
khách hàng tiềm năng lớn của Ngân hàng, để phát triển bền vững thì các
ngân hàng cần phải dựa vào nhóm đối tượng này.
1.1.4.3: Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nền kinh tế.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ,các sản phẩm ,dịch vụ
tiêu dùng ngày càng trở nên phong phú , đa dạng,phù hợp với nhu cầu của
người tiêu dùng .Tuy nhiên ,với mức thu nhập như hiện nay,phần lớn người
tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cùng lúc , đặc
biệt là những vật dụng đắt tiền.Nếu người tiêu dùng có thể vay được tiền từ
ngân hàng thì họ có thể thoả mãn được nhu cầu của họ ngay trong hiện tại .
Điều đó làm tăng sự tiêu dùng hàng hoá ,thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh của các hãng,tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động ,góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của toàn xã hội một cách nhanh
chóng .Do đó,với việc thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng có thể thực
hiện tốt nhiệm vụ kích cầu cho nền kinh tế,tạo nên sự hoà hợp giữa Cung &
Cầu tiêu dùng tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển cao hơn.
1.2:Phân loại CVTD.
Dựa trên các tiêu thức khác nhau ta có thể phân chia CVTD thành
nhiều loại khác nhau.
1.2.1:Căn cứ vào mục đích vay vốn.
Nếu căn cứ vào “Mục đích vay vốn” thì CVTD được chia làm hai loại
là:CVTD cư trú và CVTD phi cư trú.
1.2.1.1:CVTD cư trú :
Là khoản tín dụng được cấp nhằm tài trợ cho nhu cầu mua, xây dựng, cải
tạo nhà cho khách hàng (cá nhân hay hộ gia đình). Đặc điểm của những món
vay này là quy mô thường lớn, thời gian dài. Việc đánh giá giá trị tài sản tài
trợ có vai trò vô cùng quan trọng đối với ngân hàng. Nếu như trong cho vay
tiêu dùng thông thường thì thu nhập tương lai của người vay là yếu tố quan
trọng để ngân hàng quyết định có cho vay hay không thì trong cho vay nhà
ở, giá trị và tình hình biến động giá của tài sản được tài trợ là yếu tố mà ngân
hàng rất quan tâm. Bởi vì khoản tín dụng tài trợ cho loại tài sản này có giá
trị lớn, nên sự biến động theo hướng không có lợi của nó sẽ dẫn tới những
thiệt hại rất lớn cho ngân hàng.
1.2.1.2: CVTD phi cư trú:
Đây là những khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như
mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành, y tế hoặc giải trí ... Đặc
điểm của những khoản tín dụng này thường có quy mô nhỏ, thời gian tài trợ
ngắn. Do đó mà mức độ rủi ro đối với ngân hàng là thấp hơn những khoản
cho vay tiêu dùng bất động sản. Đối với loại cho vay này, yếu tố quyết định
cho vay hay không là khả năng trả nợ của người vay, sau đó mới xem xét
đến giá trị tài sản đảm bảo.
1.2.2: Căn cứ theo phương thức hoàn trả :
Nếu dựa trên tiêu thức này thì CVTD được phân thành: CVTD trả góp và
CVTD phi trả góp.
1.2.2.1:Cho vay tiêu dùng trả góp:
Hình thức này chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng CVTD của các ngân hàng
bởi tính hợp lý của nó.Theo hình thức này ,người đi vay trả nợ cho ngân
hàng (gồm cả gốc và lãi ) theo nhiều lần ,theo những kỳ hạn nhất định do
ngân hàng qui định (tháng hoặc quý).Hình thức này áp dụng cho các khoản
vay có giá trị lớn hoặc với những khách hàng mà thu nhập định kỳ của họ
không đủ để thanh toán hết số nợ trong một lần.
Khi áp dụng loại cho vay này thì ngân hàng phải quan tâm đến những vấn
đề cơ bản sau :
*Loại tài sản được tài trợ :
Thông thường ,thiện chí của người vay sẽ tốt hơn khi tài sản hình thành từ
tiền vay thoả mãn nhu cầu của họ trong tương lai .Khi lựa chọn tài sản để tài
trợ ,ngân hàng thường chú ý đến điều này vì ngân hàng thường chỉ muốn tài
trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời gian sử dụng lâu dài và có
giá trị lớn bởi vì có như vậy người tiêu dùng mới được hưởng những tiện ích
do tài sản đem lại trong một khoảng thời gian dài.
* Số tiền phải trả trước.
Thông thường ngân hàng sẽ yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một
phần giá trị tài sản cần mua sắm (khoảng 20-30%). Đây là số tiền phải trả
trước, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay .Số tiền ứng trước này phải đủ lớn
để một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng chính họ là chủ sở hữu tài sản để
họ có thái độ sử dụng tài sản một cách đúng đắn , cẩn thận .Mặt khác,số tiền
này phần nào hạn chế được rủi ro cho ngân hàng.
* Điều kiện thanh toán .
Khi xác định các khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách hàng,
ngân hàng phải chú ý một số vấn đề sau:
+ Thời hạn cho vay không nên quá dài nhằm tránh cho việc tài sản tài trợ
bị giảm giá trị theo thời gian đi kèm với rủi ro tín dụng tăng lên.
+ Giá trị của tài sản nợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa thu hồi
được .
+ Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng , thông
thường là theo tháng ,do nguồn trả nợ của người tiêu dùng chủ yếu là thu
nhập nhận được hàng tháng.
+ Số tiền thanh toán mỗi kỳ phải phù hợp với khả năng thu nhập xét trong
mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng. Số tiền
này có thể được tính bằng các phương pháp như:
- Phương pháp lãi đơn.
Theo phương pháp này, vốn gốc người đi vay phải trả từng kỳ hạn trả nợ
được tính đều nhau ,bằng cách lấy vốn ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh
toán ,còn lãi phải trả mỗi kỳ hạn được tính trên số tiền khách hàng thực sự
còn thiếu.
- Phương pháp lãi gộp.
Đây là phương pháp thường được áp dụng trong CVTD trả góp .Theo
phương pháp này ,trước hết lãi được tính bằng cách: lấy vốn gốc nhân với lãi
suất và thời hạn vay.Sau đó cộng với vốn gốc ban đầu rồi chia cho số kỳ hạn
phải thanh toán để xác định được số tiề phải thanh toán trong mỗi kỳ hạn.
* Vấn đề phân bổ lãi theo thời gian.
Khi sử dụng phương pháp lãi gộp ,các ngân hàng thường tiến hành phân bổ
lại phần lãi cho vay đã được tính.Việc phân bổ có thể được thực hiện theo
định kỳ gắn liền với các kỳ hạn thanh toán hoặc cũng có thể được thực hiện
theo quý hay theo năm tài chính.
Ngân hàng thường áp dụng một số phương pháp như:
+ Phương pháp đường thẳng ( phân bổ lãi đều nhau), áp dụng cho các
khoản vay ngắn hạn.
+ Phương pháp luỹ thoái ( phân bổ lãi giảm dần ), áp dụng cho các khoản
vay trung và dài hạn.
* Vấn đề trả nợ trước hạn.
Khi người vay trả nợ trước hạn ,có thể xảy ra một trong hai trường hợp sau:
+ nếu tiền trả góp theo phương pháp lãi đơn thì vấn đề rất đơn giản ,người
đi vay chỉ phải thanh toán toàn bộ gốc còn thiếu và lãi vay của kỳ hạn hiện
tại cho ngân hàng .
+ Nếu tiền lãi được tính bằng phương pháp lãi gộp thì vấn đề sẽ phức tạp
hơn vì theo phương pháp này, lãi được tính dựa trên giả định “ Người vay sẽ
sử dụng tiền vay cho đến khi kết thúc hợp đồng tín dụng” .Khi khách hàng
trả nợ trước hạn thì thời hạn khách hàng nợ thực tế khác thời hạn nợ ghi
trong hợp đồng và như vậy số tiền lãi phải trả cũng có sự thay đổi. Khi đó,
ngân hàng sẽ phải sử dụng phương pháp “Phân bổ lãi cho vay theo thời
gian” ,dựa trên thời hạn nợ thực tế để tính số lãi thực tế phải thu.
1.2.2.2: Cho vay tiêu dùng phi trả góp.
* Cho vay tiêu dùng trả một lần.
Đây là hình thức tài trợ mà theo đó số tiền đi vay của khách hàng sẽ được
thanh toán một lần khi hợp đồng tín dụng đến hạn. Đặc điểm của khoản tín
dụng này thường là có qui mô nhỏ và thời hạn vay ngắn .Hình thức cho vay
này được ngân hàng áp dụng vì nó giúp ngân hàng không mất nhiều thời
gian như khi ngân hàng tiến hành thu nợ làm nhiều kỳ.Tuy nhiên , người tiêu
dùng lại không ưa thích hình thức này do nó không có tính hợp lý như hình
thức CVTD trả góp nên trong thực tế những khoản CVTD cấp theo hình
thức này không nhiều.
* Cho vay tiêu dùng tuần hoàn .
Đây là các khoản CVTD, trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử
dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc thấu chi dựa trên tài khoản vãng
lai.Theo phương pháp này thì trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước,
căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng
được ngân hàng cho phép thực hiện việc cho vay và trả nợ nhiều kỳ một
cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng. Trong tất cả các lãi suất cho vay
tiêu dùng ,thì CVTD tuần hoàn có mức lãi suất cao nhất bởi những khoản
cho này không được đảm bảo và chi phí để điều hành tín dụng tuần hoàn
tương đối .
1.2.3: Căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay.
Nếu căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay thì CVTD được phân làm 3
loại: Cho vay cầm đồ; Cho vay thế chấp lương; Và cho vay có đảm bảo tài
sản hình thành từ vốn vay.
*Cho vay cầm đồ:
Là hình thức cho vay ,trong đó, ngân hàng cho khách hàng vay để nhằm
mục đích tiêu dùng nhưng ngân hàng sẽ giữ tài sản của khách hàng để đảm
bảo các nghĩa vụ của khách hàng.Danh mục các loại tài sản và điều kiện các
loại tài sản được cầm đồ được ngân hàng qui định cụ thể dựa trên cơ sở qui
định của pháp luật và chính sách tín dụng của ngân hàng .
* Cho vay thế chấp lương:
Cho vay thế chấp lương thường được áp dụng cho khách hàng có việc làm
ổn định, thu nhập ổn định ,ngoài các khoản chi tiêu thường xuyên hàng
tháng thì còn một phần tích luỹ để trả nợ vay.Số tiền ngân hàng cho khách
hàng vay được xác định dựa trên nhu cầu muốn vay & thu nhập thường
xuyên của khách hàng. Do đó,khi xét duyệt cho vay,ngân hàng cần thu thập
đủ thông tin về các thu nhập khác nhau cũng như các khoản chi tiêu khác
thường xuyên của khách hàng.
* Cho vay có đảm bảo tài sản hình thành từ tiền vay:
Nó thường được áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng
để mua các tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài .Dựa vào khả
năng tài chính và trả nợ của khách hàng,giá trị tài sản cần mua sắm ngân
hàng sẽ quyết định mức cho vay thích hợp, thông thường mức cho vay tối đa
của ngân hàng là khoảng 70%-80% giá trị tài sản cần mua.
1.2.4: Căn cứ vào phương thức cho vay giữa ngân hàng và khách
hàng vay vốn.
Theo tiêu thức này, CVTD được phân làm hai loại là : CVTD trực tiếp và
CVTD gián tiếp.
1.2.4.1: Cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Đây là hình thức cho vay ,trong đó ngân hàng tiếp xúc trực tiếp với khách
hàng của mình, việc thu nợ cũng được tiến hành trực tiếp bởi chính ngân
hàng .CVTD trực tiếp thường được thể hiện theo sơ đồ sau:
Ngân hàng
Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
(1)
(2)
(4)
(5)
Trong đó:
(1). Ngân hàng và người tiêu dùng ký HĐTD với nhau
(2). Người tiêu dùng trả trước cho công ty bán lẻ một phần số tiền mua hàng
Hoá của mình.
(3).Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4).Công ty bán lẻ giao hàng cho người tiêu dùng.
(5). Người tiêu dùng thanh toán số tiền vay cho ngân hàng.
Hình thức cho vay tín dụng trực tiếp tồn tại cả ưu điểm và nhược điểm.
* Ưu điểm:
+ Hình thức này rất linh hoạt vì có sự đàm phán trực tiếp giữa ngân hàng
và khách hàng, quyết định có vay hay không hoàn toàn do ngân hàng quyết
định ,ngoài ra ,ngân hàng có thể sử dụng triệt để trìng độ kiến thức ,kinh
nghiệm của CBTD để tìm kiếm các khoản cho vay có chất lượng.
(3)
+ Khi khách hàng quan hệ trực tiếp với ngân hàng ,có nhiều khả năng
khách hàng sẽ sử dụng thêm các dịch vụ khác cuả ngân hàng như: dịch vụ
chuyển tiền, mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm…Và như vậy ,quan hệ giữa
ngân hàng và khách hàng được mở rộng.
*Nhược điểm:
Ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro nếu ngân hàng không có quan hệ tốt với
công ty bán lẻ. Trong thực tế có nhiều trường hợp đã có sự câu kết giữa
người tiêu dùng và công ty bán lẻ nhằm tăng giá trị của tài sản mua sắm .Giá
trị giả này lớn hơn giá trị thực của tài sản mua sắm nên số tiền còn thiếu mà
ngân hàng thanh toán cho công ty bán lẻ cũng cao hơn.Do đó, nếu có rủi ro,
người người tiêu dùng không trả nợ được cho ngân hàng,trong nhiều trường
hợp Ngân hàng phải phát mãi tài sản này ,khi đó giá trị mà ngân hàng thu
được nhỏ hơn giá trị mà ngân hàng đã bỏ ra lúc đầu.
1.2.4.2: Cho vay tiêu dùng gián tiếp.
Là hình thức cho vay, trong đó ngân hàng mua những khoản nợ phát sinh
do những Công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người tiêu
dùng.
Giữa ngân hàng và công ty bán lẻ sẽ ký kết một Hợp đồng mua bán nợ,
trong đó ngân hàng sẽ đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được
bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại sản phẩm được bán chịu.
CVTD gián tiếp thường được biểu hiện qua sơ đồ sau:
Ngân hàng
Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
(1)
(4)
(5)
(6)
(2)
(3)
Trong đó:
(1). Ngân hàng và công ty bán lẻ ký hợp đồng mua bán nợ.
(2). Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết một hợp đồng mua bán chịu
(3). Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4). Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu cho ngân hàng.
(5). Ngân hàng thanh toán tiền cho các công ty bán lẻ.
(6). Người tiêu dùng thanh toán tiền cho ngân hàng .
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có thể được thực hiện thông qua các phương
thức sau:
*Tài trợ truy đòi toàn bộ :
Theo phương thức này, khi bán cho ngân hàng các khoản nợ mà người
tiêu dùng đã mua chịu ,công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho ngân hàng
toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng không thanh toán
được cho ngân hàng. Với phương thức này, các công ty bán lẻ buộc phải
quan tâm đến chất lượng các khoản bán chịu , còn các ngân hàng có ít rủi ro
hơn.
*Tài trợ truy đòi hạn chế:
Theo phương thức này ,trách nhiệm của công ty bán lẻ đối với các khoản
nợ của khách hàng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng
mực nhất định ,phụ thuộc vào các điều khoản đã thoả thuận giữa Công ty
bán lẻ và ngân hàng trong Hợp đồng mua bán nợ.
* Tài trợ miễn truy đòi:
Theo phương thức này, sau khi bán các khoản nợ cho ngân hàng ,Công ty
bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc liệu người tiêu dùng có thanh
toán nợ cho ngân hàng hay không ? Với ngân hàng ,phương thức này chứa
nhiều rủi ro nên chi phí của khoản vay này được ngân hàng tính cao hơn so
với các phương thức trên và những khoản nợ được mua cũng được ngân
hàng lựa chọn rất kỹ.Ngoài ra, chỉ có những có những công ty bán lẻ rất có
uy tín với ngân hàng mới được áp dụng phương thức này.
* Tài trợ có mua lại.
Theo phương thức này, khi thực hiện CVTD gián tiếp với hình thức “Tài
trợ miễn truy đòi” hoặc “ Tầi trợ truy đòi hạn chế” ,nếu rủi ro xảy ra, người
tiêu dùng không thanh toán được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng buộc phải
thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả thuận trước
thì ngân hàng có thể bán lại cho chính Công ty bán lẻ phần nợ mình chưa
được thanh toán, kèm theo tài sản đã được người tiêu dùng sử dụng trong
một thời gian .Phương thức này phù hợp với các công ty bán lẻ mạnh về tài
chính và có trách nhiệm .Với phương thức này, Công ty bán lẻ ít có rủi ro
hơn so với phương thức “Tài trợ truy đòi hoàn toàn”.
So với phương thức CVTD trực tiếp thì CVTD gián tiếp có những ưu
điểm và nhược điểm như sau:
* Ưu điểm:
Theo hình thức này, ngân hàng sẽ có điều kiện tiếp xúc được với một
lượng khách hàng khá đông đảo, khắc phục được tâm lý e ngại của họ khi
tìm đến với ngân hàng. Điều đó, giúp ngân hàng tiết kiệm được chi phí trong
việc cấp tín dụng vì ngân hàng chỉ phải ký hợp đồng với chính công ty bán
lẻ mà thôi. Việc cấp tín dụng kiểu này cũng giúp ngân hàng giảm thiểu rủi
ro. Bởi, khi mà ngân hàng có quan hệ tốt với công ty bán lẻ hoặc hợp đồng
ký với công ty bán lẻ có những điều kiện ràng buộc (được truy đòi), thì khi
người tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng, ngân hàng có quyền truy
đòi công ty bán lẻ về khoản nợ trên (có được nguồn thu nợ thứ hai cho ngân
hàng). Mặt khác, khi đã có hợp đồng ràng buộc thì công ty bán lẻ cũng phải
cân nhắc trước quyết định có bán chịu hàng hoá cho người tiêu dùng hay
không (gián tiếp giúp ngân hàng thẩm định khách hàng).
*Nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm trên thì hình thức này cũng bộc lộ những
nhược điểm sau:
Đó là, ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng đã được nhà
cung cấp bán chịu hàng hoá, do đó mà không thể nắm được tình hình thực tế
của khách hàng mà ngân hàng tài trợ, ngân hàng cũng phải đối mặt với tình
trạng công ty bán lẻ chỉ vì muốn bán được hàng mà đã không xem xét kỹ
lưỡng về khách hàng khi thẩm định. Mặt khác, ngân hàng còn phải chịu rủi
ro khi người tiêu dùng không thanh toán khoản vay cho ngân hàng, trong khi
hợp đồng giữa ngân hàng và công ty bán lẻ lại không có điều khoản được
truy đòi mặc dù đây chỉ là hi hữu. Bởi, chỉ những nhà cung cấp thật sự tin
cậy thì ngân hàng mới ký hợp đồng kiểu này, và những khoản nợ được mua
theo điều kiện này cũng được lựa chọn rất kỹ càng.
1.3: Các nhân tố tác động đến CVTD.
Có nhiều nhân tố tác động đến CVTD, nhưng ta có thể chia các nhân tố
này thành hai nhóm nhân tố chính là: Nhóm nhân tố khách quan và nhóm
nhân tố chủ quan.
1.3.1: Nhóm các nhân tố khách quan.
Đây là nhóm nhân tố mà bản thân Ngân hàng không kiểm soát được, nó
gồm có các nhân tố sau: Môi trường kinh tế; Môi trường pháp lý; Môi
trường xã hội và các chính sách của Nhà nước.
1.3.1.1: Môi trường kinh tế:
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân hàng nói chung và
hoạt động CVTD nói riêng. Nó có thể là điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt
động CVTD hoặc ngược lại. Môi trường kinh tế bao gồm : Trình độ phát
triển kinh tế ;Thu nhập bình quân trên đầu người; Tỷ lệ xuất-nhập khẩu; Tỷ
lệ lạm phát…
Chúng ta đã biết, nhu cầu CVTD hàng hoá ,dịch vụ của dân cư phụ thuộc
rất lớn vào tình trạng của nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn
phát triển, hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định , mức sống của dân
cư ngày càng cao thì nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng ,bởi vì họ tin tưởng vào thu
nhập của mình trong tương lai có thể chi trả được các khoản nợ .Vì vậy, hoạt
động CVTD của ngân hàng trong giai đoạn này sẽ tăng lên. Ngược lại,khi
nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, không ổn định thì nhu cầu chi tiêu sẽ
giảm, do lúc này người dân có xu hướng tích luỹ hơn là tiêu dùng, bởi vậy
CVTD trong thời kỳ này sẽ giảm.
1.3.1.2: Môi trường pháp lý:
Mỗi một chủ thể trong xã hội đều có quyền tự do làm theo ý thích của
mình, việc họ muốn làm gì, muốn mua gì là phụ thuộc vào bản thân của họ,
song phải trong khuôn khổ mà pháp luật của quốc gia đó cho phép.Vì vậy,
các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động CVTD nói riêng cũng
nằm trong phạm vi khuôn khổ của pháp luật, nó cũng phải tuân theo những
qui định của Nhà nước, luật các tổ chức ín dụng, luật dân sự và các qui định
khác. nếu những qui định của pháp luật không rõ ràng,không đồng bộ,
không kịp thời và còn nhiều kẽ hở thì sẽ gây rất nhiều khó khăn cho NHTM.
Ngược lại, nếu những văn bản pháp luật qui định rõ ràng, đầy đủ, đồng bộ
và kịp thời thì sẽ tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, góp phần vào sự
phát triển của hệ thống ngân hàng , tăng khả năng cạnh tranh lành mạnh giữa
các NHTM và đó cũng là cơ sở pháp lý để ngân hàng giải quyết các khiếu
nại ,tố cáo khi có các tranh chấp xảy ra khi ngân hàng thực hiện các hoạt
động của mình.
1.3.1.3: Môi trường văn hoá- xã hội.
Nhân tố này gồm có: Tập quán; Trình độ dân trí; Lối sống; Thói quen… nó
ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của khách hàng. Và do vậy, nó cũng ảnh
hưởng đến hoạt đông CVTD và các hoạt động khác của ngân hàng. Chẳng
hạn, nếu một ngân hàng có áp dụng dịch vụ CVTD trong khu vực có trình độ
dân trí thấp, kiến thức về ngân hàng hầu như không có; nhu cầu mua
sắm,tiêu dùng không cao thì dịch vụ CVTD và các hoạt động khác của ngân
hàng rất chậm phát triển. Nhưng cũng chính ngân hàng này nếu được xây
dựng trong khu vực có trình độ dân trí cao, thu nhập đầu người của dân cư
lớn, nhu cầu mua sắm- chi tiêu lớn ,họ hiểu và sử dụng thường xuyên các
dịch vụ của ngân hàng thì không chỉ dịch vụ CVTD mà cả các dịch vụ khác
của ngân hàng cũng sẽ phát triển.
1.3.1.4: Chủ trương chính sách của Nhà nước.
Đây là những chính sách mang tầm vĩ mô và thường có thời gian thực
hiện tương đối dài .Các chính sách này cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến
CVTD .Chẳng hạn, khi Nhà nước tăng mức đầu tư cho nền kinh tế và tăng
thu hút đầu tư nước ngoài bằng các chính sách khuyến khích đầu tư ( Sự
giản đơn về thủ tục giấy tờ, ưu đãi thuế…)…Tất cả những điều này sẽ tạo
điều kiện cho sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế -xã hội;GDP sẽ
tăng ; Tỷ lệ thất ngiệp giảm; Mức thu nhập của người lao động tăng, qua đó
làm tăng nhu cầu tiêu dùng. Cùng với nó là các chính sách về Thuế thu
nhập; Thuế về hàng hoá, dịch vụ; các chương trình ưu đãi hỗ trợ phát triển,
xoá đói ,giảm nghèo; Phát triển kinh tế vùng sâu ,vùng xa, hải đảo…Những
yếu tố như thế đều có tác động về trước mắt và lâu dài đến cầu tiêu dùng của
người dân.Do đó, nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến dịch vụ CVTD của các
NHTM .
1.3.2: Nhóm các nhân tố chủ quan.
Việc mở rộng hoạt động CVTD không chỉ chịu tác động bởi các nhân tố
khách quan mà nó còn chịu tác động bởi các nhân tố chủ quan.Những nhân
tố này xuất phát từ chính bản thân của ngân hàng nên ngân hàng có thể chi
phối được.
1.3.2.1: Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng bao gồm : Các yếu tố giới hạn mức cho vay đối với
khách hàng ; Kỳ hạn của khoản tín dụng; Mức lãi suất cho vay; Mức lệ phí ;
hướng giải quyết những khoản nợ khó đòi …
Nếu tất cả những yếu tố trên đều đúng đắn, hợp lý và linh hoạt , đáp ứng
nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng thì chắc chắn ngân hàng sẽ thành công
trong việc mở rộng hoạt động tín dụng nói chung và CVTD nói riêng.
Ngược lại, với chính sách tín dụng cứng nhắc, kém linh hoạt thì sẽ hạn chế
hoạt động tín dụng ,giảm tính cạnh tranh trong hoạt động giữa các ngân
hàng.
1.3.2.2: Quy trình cấp tín dụng.
Quy trình cấp tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, các qui định của ngân
hàng trong việc cấp tín dụng ,gồm các bước cụ thể theo một trình tự nhất
định kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm dứt quan
hệ tín dụng. Việc xây dựng một qui trình tín dụng hoàn thiện và hiệu quả có
ý nghĩa rất lớn trong công tác ngăn ngừa và hạn chế rủi ro xảy ra, đồng thời
nó còn gây được cảm tình với khách hàng ,nhờ đó thu hút được nhiều khách
hàng hơn.
1.3.2.3: Về thông tin tín dụng.
Có thể nói, hoạt động chính của ngân hàng là đi vay và cho vay. Trong đó,
hoạt động cho vay phụ thuộc vào lòng tin của ngân hàng đối với khách hàng.
Do vậy, để hoạt động cho vay nói chung và CVTD nói riêng được mở rộng
với chất lượng cao,hiệu quả lớn thì ngân hàng phải nắm bắt được thông tin
một cách kịp thời và chính xác về khách hàng vay vốn.Gồm có:
+ Các thông tin tài chính của khách hàng: Khả năng về tài chính của
khách hàng, thu nhập hiện tại, khả năng trả nợ và bảo đảm tín dụng…
+ Các thông tin phi tài chính của khách hàng: Tư cách, uy tín, các mối
quan hệ xã hội…
+ Các thông tin gián tiếp: tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu hướng
phát triển và khả năng cạnh tranh của các NHTM khác .
1.3.2.4: Về chất lượng cán bộ và cơ sở vật chất thiết bị.
Có thể khẳng định rằng, việc mở rộng hoạt động CVTD có thành công
hay không phụ thuộc phần lớn vào trình độ cán bộ, nhân viên và cơ sở vật
chất ,trang thiết bị của ngân hàng.Dưới con mắt của khách hàng thì cán bộ,
nhân viên ngân hàng chính là hình ảnh của ngân hàng. Nếu như trong quá
trình giao tiếp với cán bộ, nhân viên ngân hàng mà khách hàng cảm thấy an
toàn về trình độ nghiệp vụ của các cán bộ và cảm thấy an toàn khi giao dịch
với ngân hàng thì chắc chắn khách hàng sẽ tìm đến đó. Đồng thời, việc ngân
hàng trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến, phù hợp với phạm vi và qui mô
hoạt động để phục vụ chính xác, nhanh chóng các yêu cầu của khách hàng
thì sẽ giúp ngân hàng có khả năng cạnh tranh và thực hiện việc mở rộng các
hoạt động của ngân hàng, trong đó có hoạt động CVTD.
Chương 2
THỰC TRẠNG CVTD TẠI SỞ GIAO DỊCH 1
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM.
2.1:Khái quát về Sở giao dịch 1-Ngân hàng Công thương Việt Nam.
2.1.1: Quá trình hình thành và phát triển .
* Trước năm 1988,Ngân hàng Công thương là một bộ phận của Ngân
hàng Nhà nước có chức năng thực hiện nhiệm vụ tín dụng với các đơn vị
kinh doanh Công-Thương nghiệp .Sau năm 1988,hệ thống Ngân hàng Việt
Nam chuyển từ một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp ,có sự phân tách
giữa chức năng quản lý và kinh doanh.
Ngày 01/07/1988 Ngân hàng Công thương Việt Nam ra đời và đi vào hoạt
động trên cơ sở Vụ tín dụng Công nghiệp và Vụ tín dụng Thương nghiệp của
Ngân hàng Nhà nước Trung ương cùng với các phòng tín dụng Công
nghiệp ,tín dụng thương nghiệp của 17 chi nhánh Ngân hàng Nhà nước địa
phương nhằm tăng cường tập trung ,phân công chuyên môn hoá và hợp tác
hoá kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao ,nâng cao khả năng
hiệu quả của các đơn vị thành viên và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
*Tên giao dịch quốc tế của ngân hàng là : INDUSTRIAL AND
COMMERCIAL BANK OF VIÊT NAM ( gọi tắt là INCOMBANK)
*Đến nay ,sau gần 20 năm hoạt động hệ thống Ngân hàng Công
thương Việt Nam gồm có : 2 Sở giao dịch; 137 chi nhánh ;158 phòng giao
dịch ;144 điểm giao dịch ;287 Quỹ tiết kiệm và hơn 500 máy ATM ; 1 Trung
tâm công nghệ thông tin và 1 Trung tâm đào tạo ở hầu hết các tỉnh ,thành
phố trên cả nước .Nguồn nhân lực lớn với trình độ khá cao , có15.000 cán bộ
công nhân viên ,trong đó trình độ Đại học và trên Đại học chiếm 50%
số còn lại là được đào tạo qua các trường Cao đẳng và Trung cấp Ngân hàng.
*Năm 1988,Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra quyết
định số 198/NH-TCCB về việc thành lập chi nhánh Ngân hàng Công thương
thành phố Hà Nội .
+ Ngày 24/03/1993, Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam
ra quyết định số 93/NHCT-TCCB về việc chuyển các hoạt động tại hội sở
chi nhánh Ngân hàng Công thương Thành phố Hà Nội thành Hội sở chính
Ngân hàng Công thương Việt Nam .
+ Ngày 30/03/1998, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Công thương Việt Nam
ký quyết định số 134/QĐ-HĐQT-NHCT I sắp xếp tổ chức hoạt động Sở
giao dịch 1 theo điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Công thương
Việt Nam .Sở giao dịch là đơn vị hoạch toán phụ thuộc Ngân hàng Công
thương Việt Nam,có con dấu riêng,có tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và
các Ngân hàng khác, có trụ sở riêng đặt tại số 10 Lê Lai-Hoàn Kiếm –Hà
Nội.
Với số nhân viên là 280 người trong đó trình độ từ Đại học và trên Đại
học chiếm 70% .Số còn lại được đào tạo qua các trường Cao đẳng và Trung
cấp Ngân hàng .
2.1.2: Nghĩa vụ và Quyền hạn.