Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2 - PGS.TS. Lâm Chí Dũng và Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.73 KB, 119 trang )

BÀI GIẢNG
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG 2
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
LỜI NÓI ĐẦU

Môn học Quản trị ngân hàng 2 là môn học tiếp nối của môn học Quản trị
ngân hàng 1 trong chương trình đào tạo sinh viên chuyên ngành Ngân hàng.
Trong điều kiện chưa biên soạn được Giáo trình chính thức, tập Bài giảng
này được xem là tài liệu học tập chính thức của sinh viên chuyên ngành ngân
hàng.
Tập bài giảng gồm 5 chương. Các chương 1,2,3 do PGS.TS. Lâm Chí
Dũng biên soạn. Các chương 4,5 do Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh biên soạn.
PGS.TS. Lâm Chí Dũng chịu trách nhiệm chủ biên.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng do đây là một môn học mới cả về nội
dung và cách tiếp cận nên chắc chắn tập bài giảng này vẫn còn nhiều thiếu sót.
Các tác giả chân thành mong muốn sẽ nhận được nhiều góp ý của quý đồng
nghiệp và các sinh viên để hoàn thiện trong lần xuất bản tới dưới dạng Giáo
trình.

PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
2
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
CHƯƠNG 1
RỦI RO TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1. Tông quan về rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
1.1.1. Định nghĩa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Có nhiều định nghĩa rủi ro tùy thuộc vào những yếu tố cơ bản sau:
- Những ứng dụng đặc thù và bối cảnh
- Tiếp cận rủi ro về mặt định tính hay định lượng
- Tiếp cận tiêu cực hay tích cực


Tuy nhiên, xét chung nhất, rủi ro có 2 thuộc tính cơ bản:
- Sự bất định
- Hậu quả bất lợi
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có thể định nghĩa như sau:
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là những tác động tiềm năng có tính
tiêu cực đến tài sản hoặc giá trị của Ngân hàng phát sinh từ một vài tiến trình
hiện tại hoặc sự kiện tương lai.
Cách tiếp cận rủi ro giúp mô hình hoá: Rủi ro là sự biến động tiềm ẩn
của kết quả = Rủi ro là mức độ bất định của kết quả hoạt động KD của NH
Như vậy, có thể thấy: Số lượng các kết quả có thể có càng lớn, sai lệch
giữa các kết quả có thể có càng cao thì rủi ro càng lớn.
1.1.2. Phân loại rủi ro
1.1.1.1. Căn cứ vào tác động
Rủi ro có thể phân loại thành 2 loại cơ bản:
(i) Rủi ro thuần tuý: là loại rủi ro chỉ thuần túy gây nên các tác động
tiêu cực, ví dụ: các loại rủi ro hoạt động, rủi ro công nghệ trong kinh
doanh ngân hàng…
(ii) Rủi ro suy đoán/ Rủi ro đầu cơ: là loại rủi ro mà có thể tạo nên 2
tác động: tiêu cực hay tích cực ví du: rủi ro lãi suất; rủi ro thị trường
… trong kinh doanh Ngân hàng. Đối với những loại rủi ro này, Ngân
hàng có thể thu lợi hoặc thiệt hại tùy theo từng bối cảnh cụ thể.
1.1.1.2. Căn cứ vào tính chất
Rủi ro có thể chia làm 2 loại:
(i) Rủi ro đặc thù (Specific risk/ unsystematic risk): là những rủi ro chỉ
liên quan đến một lĩnh vực, một ngành, một hoạt động cụ thể…Loại
rủi ro này có thể tối thiểu hóa nhờ đa dạng hóa. Vì vậy, loại rủi ro này
còn được gọi là rủi ro đa dạng hóa (Diversified risk). Ví dụ: rủi ro tín
dụng trong cho vay một doanh nghiệp do hoạt động quản trị yếu kém
của doanh nghiệp này
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009

3
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
(ii) Rủi ro hệ thống (Systematic risk): là loại rủi ro thường liên quan
đến bối cảnh chung của nền kinh tế và có ảnh hưởng đến tất cả các
ngành, các lĩnh vực ví du: lạm phát; suy thoái, khủng hoảng kinh tế…
Đây là những loại rủi ro không thể đa dạng hóa (Undiversified Risk)
1.1.3. Các loại rủi ro chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng
Tùy theo cách tiếp cận mà rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có thể được
xem xét dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đều thống
nhất về các rủi ro chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng bao gồm các loại rủi ro
sau:
- Rủi ro lãi suất (Interst rate risk)
- Rủi ro thị trường (Market risk)
- Rủi ro tín dụng (Credit risk)
- Rủi ro ngoại bảng (Off-balance sheet risk)
- Rủi ro công nghệ và hoạt động (Technology and operational risks)
- Rủi ro ngoại hối (Foreign exchange risk)
- Rủi ro quốc gia (Country or sovereign risk)
- Rủi ro thanh khoản (Liquidity risk)
- Rủi ro vỡ nợ (Insolvency risk)
- Rủi ro khác (Other risks)
1.2. Phân tích các loại rủi ro chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng
1.2.1. Rủi ro lãi suất
1.2.1.1. Khái niệm
Rủi ro lãi suất là rủi ro phát sinh khi lãi suất thay đổi làm giảm lợi
nhuận/giá trị của ngân hàng.
Như vậy, rủi ro lãi suất là sự kết hợp đồng thời của 2 nhân tố sau:
- Điều kiện cần: lãi suất biến động (tăng hoặc giảm)
- Điều kiện đủ: Lợi nhuận của NH giảm do chênh lệch lãi suất đầu ra –
đầu vào giảm (NII/NIM ) hoặc/và giá trị thị trường của vốn chủ sở

hữu giảm
1.2.1.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan và cơ bản buộc các ngân hàng phải đối diện với
rủi ro lãi suất là chức năng biến đổi tài sản (Asset transformation Function) của
các trung gian tài chính.
Chức năng biến đổi tài sản của các định chế tài chính trung gian làm cho
kỳ hạn; tính thanh khoản và quy mô của các tài sản (Assets) không phù hợp với
kỳ hạn; tính thanh khoản và quy mô của các khoản nợ (Liabilities). Do diều này
mà khi lãi suất biến động có thể gây ra các tác động tiêu cực lên thu nhập hoặc
giá trị của ngân hàng.
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
4
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
Trong trường hợp ngược lại, khi có sự phù hợp hoàn toàn về kỳ hạn, quy
mô, cũng như tính thanh khoản giữa tài sản và nợ thì biến động lãi suất sẽ
không gây ra bất cứ tác động nào lên thu nhập hay giá trị của ngân hàng. Nói
cách khác, NH không đối diện với rủi ro lãi suất ngay cả khi có điều kiện cần.
Tuy nhiên đó chỉ là một giả định lý tưởng. Trên thực tế, điều này là không thể
xảy ra chính vì chức năng biến đổi tài sản nói trên của ngân hàng. Nếu giả định
này xảy ra, tức là ngân hàng sẽ không có lý do để tồn tại bởi vì chức năng nói
trên bị vô hiệu hóa trên thực tế.
1.2.1.3. Các biểu hiện (các dạng) của rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất có 3 biểu hiện hay còn được gọi là 3 dạng là: rủi ro tái tài
trợ; rủi ro tái đầu tư; rủi ro giá trị thị trường.
(i) Rủi ro tái tài trợ (Refinancing Risk) là rủi ro mà lợi nhuận của NH
giảm do chi phí tái huy động vốn (rolling over or reborrowing funds) cao hơn
tiền lãi của các tài sản đầu tư khi kỳ hạn của tài sản đầu tư dài hơn kỳ hạn
(short- funded) vốn huy động (liabilities) trong điều kiện lãi suất thị trường tăng
(ii) Rủi ro tái đầu tư (Reinvestment Risk): Rủi ro mà lợi nhuận của NH
giảm do thu nhập lãi từ tài sản tái đầu tư giảm thấp hơn chi phí tái huy động vốn

do kỳ hạn nợ dài hơn kỳ hạn tài sản đầu tư (long – funded) trong điều kiện lãi
suất giảm.
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
100
100
Năm
1
Năm 2
Tài sản
Nợ
100
100
Năm
1
Năm 2
Nợ
Tài sản
5
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
(iii) Rủi ro giá trị thị trường (Market Value Risk)
Rủi ro mà giá trị ròng của NH (giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu)
giảm do biến động bất lợi trong giá trị thị trường của Tài sản và Nợ thuộc một
trong 2 trường hợp sau:
a. Giá trị thị trường của Tài sản sụt giảm nhanh hơn giá trị thị trường của
Nợ khi kỳ hạn của tài sản dài hơn kỳ hạn nợ trong điều kiện lãi suất thị trường
tăng
b. Giá trị thị trường của Nợ tăng nhanh hơn giá trị thị trường của Tài sản
khi kỳ hạn của Nợ dài hơn kỳ hạn tài sản trong điều kiện lãi suất thị trường
giảm
Từ các phân tích trên, có thể rút ra một số ý tưởng cơ bản sau:

- Triết lý chung để phòng ngừa (hedging) và bảo vệ (protecting) trước rủi
ro lãi suất: làm phù hợp về kỳ hạn và quy mô giữa tài sản và nợ
- Tuy nhiên, điều này gặp phải 2 trở ngại:
+ Trở ngại thứ nhất là nó mâu thuẫn với chức năng biến đổi tài sản và
làm giảm khả năng sinh lời của NH .
+ Trở ngại thứ hai nằm ở chỗ: trên thực tế, khái niệm kỳ hạn là một khái
niệm đa dạng. Ít nhất là có sự khác biệt giữa kỳ hạn đến hạn (maturity) và vòng
đời bình quân (duration). Mặt khác, ngoài các khoản nợ, nguồn vốn của ngân
hàng còn bao gồm cả nguồn vốn chủ sở hữu.
1.2.2. Rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường là những rủi ro phát sinh do việc mua, bán các tài sản
và nợ trong điều kiện có sự thay đổi về lãi suất; tỷ giá và giá tài sản khác dẫn
tới tổn thất về thu nhập/vốn của NH
(các vấn đề gợi ý nghiên cứu:
- RR thị trường và RR giá trị thị trường ?
- Trong trường hợp nào thì NH sẽ không quan tâm đến RR thị trường?
- Sự bất định ở đây là gì?
- Hậu quả của RR thị trường?
- Những nhân tố ảnh hưởng đến RR thị trường?)
Nguyên nhân khách quan hay các nhân tố cơ bản đặt các Ngân hàng trước
tình thế đối diện với rủi ro thị trường bao gồm:
- Áp lực từ việc giảm sút thu nhập từ những hoạt động truyền thống buộc
các NH tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán và các tài sản khác
- Rủi ro thị trường gia tăng khi NH có xu hướng kinh doanh các tài sản và
nợ hơn là đầu tư dài hạn; tài trợ vốn hoặc phòng ngừa rủi ro.
- Rủi ro thị trường có liên quan chặt chẽ với những rủi ro về lãi suất; về
cổ tức; về tỷ giá;
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
6
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2

Rủi ro thị trường xuất hiện khi NH giữ vị thế trường (long position/ buy
position) hoặc vị thế đoản (short position/ sell position) mở hoặc không bảo hộ
(open/ unhedging position).
Vị thế (hay còn gọi trạng thái) là tình trạng mà một ngân hàng đang nắm
giữ quyền sở hữu tài sản (tài chính hoặc tài sản thực) hoặc hàng hóa kinh doanh
hoặc một cam kết mua hoặc bán…
Vị thế trường là vị thế đầu cơ giá lên, cũng tức là ngân hàng sẽ bị thiệt
hại khi giá xuống. Ngược lại, vị thế đoản là vị thế đầu cơ giá xuống và do đó,
người nắm giữ vị thế đoản sẽ bị rủi ro khi giá lên.
Để phòng ngừa và bảo hộ rủi ro thị trường, ý tưởng cơ bản là phải kiểm
soát vị thế giới hạn. Đây là quan tâm cơ bản của không chỉ những chủ thể quản
trị ngân hàng mà cả của các cơ quan điều tiết. Mặt khác, phải phát triển các mô
hình đo lường rủi ro thị trường, sử dụng hợp lý các công cụ phái sinh…
1.2.3. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro mà các dòng tiền (cash flows) được hẹn trả theo
hợp đồng (tiền lãi, tiền gốc hoặc cả hai) từ các khoản cho vay và các chứng
khoán đầu tư sẽ không được trả đầy đủ.
Rủi ro tín dụng còn có thể định nghĩa khác: Rủi ro mà một khoản cho vay
hoặc tài sản có (assets) trở nên không thể thu hồi hoặc bị trì hoãn ngoài mong
muốn
Cần lưu ý:
- Khái niệm rủi ro tín dụng và rủi ro cho vay có điểm khác biệt. Rủi ro tín
dụng bao gồm rủi ro cho vay và rủi ro từ các khoản đầu tư vào chứng khoán.
- Có quan điểm cho rằng rủi ro tín dụng cũng là một dang rủi ro đối tác.
(Couterparty Risk). Rủi ro đối tác là loại rủi ro mà trong đó đối tác không thực
hiện các cam kết đã thỏa thuận. Tuy nhiên, khái niệm rủi ro đối tác thường
được sử dụng cho các hợp đồng trên thị trường các công cụ tài chính phái sinh.
Cách phân loại rủi ro tín dụng thành rủi ro tín dụng đặc thù và rủi ro tín
dụng hệ thống thường được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu học thuật cũng
như trong thực tế:

- Rủi ro đặc thù (Firm-specific Credit Risk/ Unsystematic Credit Risk):
Rủi ro tín dụng của một người vay cụ thể phát sinh do những kiểu đặc thù của
rủi ro dự án mà người vay thực hiện
- Rủi ro hệ thống (Systematic credit risk): Rủi ro tín dụng phát sinh do
bối cảnh chung của nền kinh tế hoặc những điều kiện vĩ mô tác động lên toàn bộ
các người vay (vd: suy thoái kinh tế ).
Rủi ro tín dụng có tác động rất quan trọng đến hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Có thể nói rủi ro tín dụng là biểu hiện tập trung nhất của sự đánh đổi lợi
nhuận – rủi ro (Return-risk trade-off). Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng tốt là nhân
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
7
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
tố chủ yếu quyết định thành công của ngân hàng. Ngược lại, thất bại của các
ngân hàng phần khá lớn bắt nguồn từ những vấn đề về tín dụng.
Một cách khái quát nhất, rủi ro tín dụng, xét về góc độ người vay xuất
phát từ 2 nhân tố cơ bản sau:
- Khả năng trả các khoản nợ đến hạn, tức khả năng tạo ra các dòng tiền
với quy mô phù hợp ở thời điểm thanh toán.
- Ý muốn trả nợ của người vay. Ý muốn này lại phụ thuộc những yếu tố
chủ quan của người vay như: đạo đức, tư cách, uy tín …
Lý thuyết thông tin bất đối xứng cho rằng để kiểm soát tốt rủi ro tín dụng,
ngân hàng cần phải hạn chế hai hậu quả của tình trạng thông tin bất đối xứng
trong các giao dịch tín dụng đó là: lựa chọn đối nghịch (adverse selection) và rủi
ro đạo đức (moral hazard).
1.2.4. Rủi ro ngoại bảng
Rủi ro ngoại bảng (hay rủi ro hoạt động ngoại bảng) là rủi ro phát sinh
từ các hoạt động ngoại bảng liên quan đến các tài sản hoặc các khoản nợ bất
thường (Contingnent assets/ liabilities)
Các tài sản hoặc nợ bất thường là khái niệm để chỉ các tài sản hoặc nợ
không xuất hiện trừ phi một sự kiện nhất định nào đó xảy ra.

Hoạt động ngoại bảng (Off-balance-sheet Activities) là những hoạt động
có một trong 2 đặc điểm sau:
- Những hoạt động tạo ra thu nhập và/hoặc chi phí mà không tạo ra một
tài sản/nợ trong hiện tại cũng như tương lai (chẳng hạn, môi giới, thanh toán, ủy
thác ).
- Những hoạt động không tạo ra các tài sản hoặc Nợ trong hiện tại nhưng
có thể tạo ra các tài sản hoặc nợ trong tương lai.
Ví dụ: Bảo lãnh; cam kết cho vay;
Xu hướng mở rộng các hoạt động ngoại bảng là một xu hướng phổ biến
đối với các ngân hàng trên khắp thế giới. Nguyên nhân cơ bản là do áp lực cạnh
tranh dẫn tới sự sụt giảm trong các hoạt động ngân hàng truyền thống buộc các
ngân hàng phải tìm kiếm các hoạt động mới phi truyền thống. Mặt khác, khả
năng tạo ra thu nhập qua thu phí mà không tác động lên bảng cân đối của các
hoạt động ngoại bảng cũng là một động cơ quan trọng thúc đẩy các ngân hàng
gia tăng các hoạt động ngoại bảng. Điều này, đến lượt nó lại gia tăng rủi ro
ngoại bảng cho ngân hàng.
Xét ở một góc độ khác, một số hoạt động ngoại bảng là nhằm mục đích
hạn chế rủi ro tín dụng; rủi ro lãi suất; rủi ro tỷ giá nhưng do quản lý kém hoặc
động cơ đầu cơ cũng có thể gây ra những thiệt hại lớn cho NH.
1.2.5. Rủi ro hoạt động và công nghệ
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
8
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
Rủi ro hoạt động là những tổn thất do hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ
những sai lệch bên trong về quy trình, về con người và các hệ thống hoặc từ
các sự kiện bên ngoài
Một số nghiên cứu xem rủi ro danh tiếng (reputational risk) và rủi ro
chiến lược (strategic risk) như là một phần của rủi ro hoạt động.
Rủi ro công nghệ là rủi ro phát sinh khi việc đầu tư công nghệ không
mang lại sự tiết kiệm chi phí như dự liệu.

Mục đích chủ yếu của đầu tư công nghệ là cắt giảm chi phí hoạt động, gia
tăng lợi nhuận, giành thị trường mới thông qua khai thác tốt nhất lợi thế quy mô
lớn (economies of scale) và lợi thế danh mục dịch vụ đa dạng (economies of
scope)
Lợi thế quy mô lớn là mức độ mà tại đó chi phí đơn vị trung bình của các
dịch vụ tài chính giảm khi đầu ra của dịch vụ gia tăng.
Lợi thế danh mục dịch vụ đa dạng là mức độ mà tại đó một ngân hàng có
thể đạt được tính hiệp trợ chi phí (cost synergies) bằng cách cung ứng nhiều sản
phẩm dịch vụ tài chính trên cùng một khoản đầu tư công nghệ.
Hàm ý của khái niệm lợi thế quy mô lớn là ngân hàng phải cắt giảm chi
phí hoạt động bằng cách tăng quy mô đầu ra do đầu tư công nghệ. Tương tự,
hàm ý của khái niệm lợi thế danh mục dịch vụ đa dạng là ngân hàng phải cắt
giảm chi phí hoạt động bằng cách sản xuất hơn 1 đầu ra với cùng một đầu vào.
Nếu việc đầu tư công nghệ không đạt được 2 lợi thế trên có nghĩa là ngân hàng
đã gặp phải rủi ro công nghệ.
Lưu ý là rất dễ có sự nhầm lẫn giữa rủi ro hoạt động và rủi ro công nghệ.
Chẳng han, các trục trặc trong hệ thống thanh toán dẫn đến những sai lệch,
nhầm lẫn trong quá trình thanh toán là một loại rủi ro hoạt động chứ không phải
rủi ro công nghệ…
1.2.6. Rủi ro ngoại hối
Rủi ro ngoại hối là rủi ro mà sự thay đổi về tỷ giá và lãi suất ngoại tệ có
thể tác động bất lợi đến giá trị các tài sản và nợ bằng ngoại tệ của ngân hàng
hoặc gây nên sự tổn thất về lợi nhuận
Các biểu hiện của rủi ro ngoại hối:
(i) Rủi ro tỷ giá (Foreign Currency Risk) là rủi ro phát sinh do sự biến
động của tỷ giá tương ứng với một trạng thái ngoại tệ nhất định:
- Trường hợp trạng thái ngoại tệ trường (net long asset position in foreign
currency) là trường hợp mà giá trị tài sản bằng ngoại tệ > Giá trị nợ bằng ngoại
tệ theo một đồng tiền nào đó. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ gặp rủi ro tỷ
giá khi ngoại tệ giảm giá so với bản tệ

- Trạng thái ngoại tệ đoản (net short asset position in foreign currency) là
trường hợp ngược lại khi giá trị tài sản bằng ngoại tệ < Giá trị nợ bằng ngoại tệ.
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
9
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi ngoại tệ tăng giá so với bản
tệ
(ii) Rủi ro lãi suất ngoại tệ (Foreign Interest Rate Risk) là một dạng của
rủi ro lãi suất khi lãi suất ngoại tệ thay đổi làm giảm lợi nhuận của ngân hàng
trong điều kiện kỳ hạn của tài sản và nợ bằng ngoại tệ khác nhau. Đương nhiên,
rủi ro lãi suất ngoại tệ cũng bao gồm 3 dạng:
- Rủi ro tái đầu tư
- Rủi ro tái tài trợ
- Rủi ro giá trị thị trường
Xu hướng mở rộng các hoạt động ra nước ngoài là một trong những
nguyên nhân chính đặt các ngân hàng trước khả năng đối diện với rủi ro ngoại
hối ngày càng tăng. Xu hướng này xuất phát từ những nhân tố sau;
- Do tỷ suất sinh lời đối với đầu tư nội địa và đầu tư ở nước ngoài có
tương quan không hoàn hảo vì hoặc do trình độ công nghệ khác nhau (một quốc
gia đang là quốc gia nông nghiêp; một quốc gia khác đã ở trình độ phát triển
công nghiệp) hoặc do hạ tầng kinh tế khác nhau, chu kỳ kinh doanh có thể lệch
pha Hàm ý quan trọng ở đây là việc đầu tư ra nước ngoài có thể là mọt phương
cách hữu hiệu để hạn chế rủi ro đặc thù thông qua giải pháp đa dạng hóa.
- Tăng khả năng mở rộng hoạt động ở nước ngoài thông qua thiết lập chi
nhánh và mua lại hoặc phát triển danh mục đầu tư
Từ việc phân tích bản chất của rủi ro ngoại hối, có thể thấy những ý tưởng
cơ bản để hạn chế rủi ro ngoại hối là:
- Làm phù hợp cả về quy mô và kỳ hạn của các tài sản và nợ của ngân
hàng trong từng loại ngoại tệ nhất định.
- Nếu tỷ giá và lãi suất giữa đồng tiền các nước có tương quan không

hoàn hảo thì một ngân hàng có thể đa dạng hoá từng phần hoặc toàn bộ rủi ro
ngoại hối.
- Giải pháp hợp đồng : cố định tỷ giá và lãi suất
- Sử dụng các công cụ phái sinh.
1.2.7. Rủi ro quốc gia
Rủi ro quốc gia là rủi ro mà việc thanh toán từ người vay nước ngoài có
thể bị gián đoạn vì sự can thiệp (ngăn cấm/ hạn chế chi trả) của chính phủ sở
tại vì sự thiếu hụt ngoại tệ/ những lý do khác.
Có thể thấy rủi ro quốc gia là một dạng khác của rủi ro tín dụng vì hậu
quả của nó cũng là việc mà người cho vay không nhận được các dòng tiền thanh
toán gốc và lãi từ người vay trong trường hợp này là do sự ngăn cản chi trả của
chính phủ.
Các ví dụ:
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
10
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
- Vào năm 1982, chính phủ Mexico & Brazil đã tuyên bố trì hoãn việc
thanh toán các khoản nợ đối với các khoản vay của Phương Tây. Hậu quả là các
ngân hàng lớn của Mỹ mà trước đó đã thực hiện các khoản cho vay lớn đối với
các chủ thể ở các quốc gia này đã phải gánh chịu những khoản chi phí lớn trong
dự phòng rủi ro tín dụng.
- Trong khoảng cuối thập niên 1990, các ngân hàng Châu Âu và Nhật đã
phải gánh chịu các rủi ro quốc gia đối với các nước như Nga, Nam Hàn,
Malaysia và Indonesia. Nhờ các khoản trợ giúp tài chính của IMF, WB và chính
phủ các nước Mỹ, Nhật, Châu Âu cho các nước này mà các ngân hàng nói trên
đã không phải gánh chịu toàn bộ các thiệt hại từ các khoản cho vay. Tuy vậy,
Indonesia đã tuyên bố hoãn trả vài khoản nợ đến hạn, trong khi Nga không
thanh toán được các khoản nợ trên trái phiếu chính phủ ngắn hạn. Vào năm
1999, vài ngân hàng đã thỏa thuận với chính phủ chấp nhận chí thanh toán 5%
số nợ

- Vào năm 2001, chính phủ Argentina do cuộc khủng hoảng tiền tệ đã
chấp nhận vỡ nợ khoản vay 130 tỷ USD của chính phủ và vào năm 2002, thông
qua đạo luật vỡ nợ 30tỷ $ các khoản nợ của khu vực doanh nghiệp đối với
những người cho vay nước ngoài.
Có thể nói rủi ro quốc gia là loại rủi ro khó xử lý nhất. Các biện pháp có
thể thực hiện bao gồm:
- Thực hiện các biện pháp pháp lý như khởi kiện ra Toà phá sản tại nước
sở tại hoặc toà dân sự quốc tế. Tuy nhiên, các biện pháp này vừa tốn kém chi
phí vừa ít hiệu quả.
- Đòn bẩy chủ yếu: Đe doạ hạn chế cung cấp các khoản cho vay hoặc huy
động vốn trong tương lai từ các quốc gia có vấn đề. Tuy nhiên, đòn bẩy này rất
yếu đối với những quốc gia mà đồng tiền và chính phủ đang suy sụp.
1.2.8. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng ngân hàng không thể đáp ứng các dòng
tiền ra với mức chi phí hợp lý và quy mô phù hợp khi NH có nhu cầu.
Cần lưu ý: các dòng tiền ra bao gồm các dòng tiền từ phía nợ, tức từ yêu
cầu rút tiền của những người gửi tiền hoặc người cho vay, và các dòng tiền ra về
phía tài sản chẳng hạn đáp ứng các khoản cho vay…
Trong điều kiện hiện nay khi thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển
cao cũng như các thị trường vốn hoạt động tốt, khả năng thanh khoản của các
chứng khoán đầu tư sẽ ngày càng dễ dàng hơn, việc tạo ra các dòng tiền bằng
cách huy động vốn ngắn hạn hoặc bằng cách bán các tài sản để đáp ứng các nhu
cầu thanh khoản không phải là một vấn đề không thể giải quyết. Vấn đề thực sự
là chi phí: hoặc phải trả một chi phí lãi cao cho các khoản vốn huy động hoặc
phải bán các tài sản với giá thấp tức phải gánh chịu một khoản lỗ. Vì vậy, bản
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
11
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
chất của rủi ro thanh khoản chính là việc ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu thanh
khoản với mức chi phí cao vượt quá khả năng chịu đựng của ngân hàng, dẫn

đến giảm khả năng sinh lời hoặc nguy hiểm hơn dẫn đến khả năng vỡ nợ.
Cũng xét trong bối cảnh hiện tại, ít có khả năng một ngân hàng lâm vào
tình trang khủng hoảng thanh khoản dẫn đến vỡ nợ trừ trường hợp một sự hoảng
loạn xảy ra trong toàn xã hội dẫn đến việc mất lòng tin vào toàn bộ hệ thống
ngân hàng, làm cho việc khủng hoảng thanh khoản là có tính hệ thống. Một
trường hợp khác có thể làm cho một ngân hàng lâm vào khủng hoảng thanh
khoản là khi chính ngân hàng đó do quản trị yếu kém mà phải gánh chịu nhiều
thiệt hại do các rủi ro khác gây ra, độ tín nhiệm thấp trên thị trường làm cho khả
năng huy động vốn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản khó khăn. Trong trường
hợp này khó có thể nói là do rủi ro thanh khoản mà ngân hàng này lâm vào hoàn
cảnh vỡ nợ…
1.2.9. Rủi ro vỡ nợ
Rủi ro võ nợ là rủi ro mà một NH không đủ vốn (chủ sở hữu) để bù đắp
sự sụt giảm đột ngột trong giá trị tài sản so với giá trị nợ.
Về khía cạnh kỹ thuật, rủi ro vỡ nợ là tình trang vốn của ngân hàng dần
đến 0 hoặc âm do những thiệt hại gây ra bởi một hay nhiều hơn các rủi ro đã đề
cập. Chẳng hạn, rủi ro tín dụng lớn dẫn đến không thu hồi được các khoản cho
vay làm sụt giảm giá trị tài sản hoặc rủi ro thị trường làm ngân hàng bị lỗ dẫn
đến sụt giảm giá trị vốn chủ sở hữu hoặc rủi ro lãi suất làm ngân hàng bị lỗ hoặc
sụt giảm giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu…
Ở Việt Nam, trường hợp điển hình về vỡ nợ được ghi nhận rõ ràng là sự
vỡ nợ của các Hợp tác xã tín dụng vào thập niên 90s. Sự sụp đổ có tính dây
chuyền của các Hợp tác xã tín dụng thời kỳ này do nhiều nguyên nhân khác
nhau mà một trong những nguyên nhân là sự thiếu kinh nghiệm quản lý vĩ mô
đối với loại hình tổ chức tín dụng này. Tuy nhiên, nguyên nhân chính dẫn đến
rủi ro vỡ nợ của các tổ chức này là rủi ro tín dụng.
Trường hợp của ngân hàng Continental Illinois National Bank (Mỹ ) là
một minh họa cho sự kết hợp nhiều loại rủi ro dẫn đến rủi ro vỡ nợ. Ngân hàng
này đã theo đuổi chiến lược tăng trưởng tài sản thông qua mở rộng lĩnh vực cho
vay, đặc biệt ngành dầu lửa và gas. Danh mục cho vay tăng trưởng 19,8%/năm

(từ 1977 - 1981). Tuy nhiên, suy thoái kinh tế Mỹ từ 1980 dẫn đến nhiều khoản
cho vay vỡ nợ (rủi ro tín dụng). Mặt khác, tỷ trọng huy động tiền gửi của ngân
hàng này rất nhỏ, dựa chủ yếu vào các khoản vay (FED, RPs, Eurodollar ) cộng
với sự gia tăng các vụ vỡ nợ trong danh mục cho vay dẫn đến việc từ chối một
số khoản vay của các khách hàng chủ yếu để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
(rủi ro thanh khoản). Một số vụ vỡ nợ lớn cùng với tình trạng mất khả năng huy
động vốn mới dẫn đến sự sụt giảm nhanh chóng vị thế vốn (capital position) của
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
12
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
ngân hàng (Rủi ro vỡ nợ). Cuối cùng, các cơ quan điều tiết phải nắm quyền
kiểm soát đặc biệt vào năm 1984.
Những phân tích nói trên về rủi ro vỡ nợ dẫn đến 2 ý tưởng cơ bản để
kiểm soát rủi ro vỡ nợ là:
- Thứ nhất, phải tiến hành các giải pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế
những rủi ro liên quan như: rủi ro lãi suất; rủi ro tín dụng; rủi ro thị trường; rủi
ro thanh khoản…
- Thứ hai, phải đảm bảo một mức vốn phù hợp (Capital Adequacy) tương
ứng với mức độ rủi ro của các tài sản. Vốn là một bộ đệm chống lại rủi ro vỡ
nợ của các ngân hàng. Tuy nhiên, nếu tăng vốn thì ngân hàng sẽ phải đánh đổi
khả năng sinh lời vì điều này làm giảm số nhân vốn chủ sở hữu (Equity
multiplier) dẫn đến giảm tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE). Vì vậy, các
định chế điều tiết như ngân hàng trung ương… phải tiến hành các biện pháp quy
định, kiểm soát và chế tài để buộc các ngân hàng phải tuân thủ tỷ lệ vốn tối
thiểu nhằm bảo đảm an toàn hoạt động tức hạn chế rủi ro vỡ nợ.
Tương tác giữa các rủi ro
Các rủi ro đề cập ở trên không độc lập mà phụ thuộc lẫn nhau. Trong một
số trường hợp rủi ro lãi suất tương quan thuận với rủi ro tín dụng. Chẳng hạn,
biến động lãi suất làm cho các khoản vay của khách hàng trở nên khó có khả
năng thanh toán Rủi ro thanh khoản cũng tương quan với rủi ro lãi suất và rủi

ro tín dụng vì chẳng hạn, rủi ro tín dụng có thể làm cho các dòng tiền vào trở
nên thiếu hụt hoặc có thể làm cho nhu cầu rút các khoản tiền gửi trở nên lớn
hơn. Rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá có tương quan cao vì thường những biến
động trong lãi suất sẽ dẫn tới những biến động trong tỷ giá….
Các rủi ro khác
Tùy thuộc cách tiếp cận về các rủi ro chủ yếu hoặc thứ yếu và cách xem
xét nội dung các loại rủi ro mà quan niệm về các rủi ro khác có thể khác nhau.
Thông thường, đây là những kiểu rủi ro riêng biệt (Discrete type) hoặc có
tính sự kiện (even type). Một số rủi ro loại này là một phần của rủi ro hoạt động.
Một số rủi ro tiêu biểu:
- Thay đổi trong các quy định về thuế
- Thay đổi trong chính sách điều tiết:Gỡ bỏ các hạn chế về cho vay, nhập
ngành, mở chi nhánh, cung ứng sản phẩm
- Những thay đổi không dự liệu trong bối cảnh của thị trường tài chính:
+ Sụp đổ thị trường 1929 và 1987;
+ Sự kiện 11/9
+ Khủng hoảng tài chính Đông Á
+ Khủng hoảng tài chính hiện tại
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
13
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
…….
- Gian lận, trộm cắp, thiên tai, hành động phi pháp, bất lương, bội tín
Điều có thể thấy rõ là những rủi ro này khó mô hình hoá và dự báo, đồng
thời phụ thuộc khá nhiều những nhân tố vĩ mô./.
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
14
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CHƯƠNG 1


Câu 1: Một định chế tài chính có Bảng cân đối kế toán như sau:
Tài sản Nợ và vốn chủ sở hữu
Tiền mặt: $1000 Chứng chỉ tiền gửi: $10.000
Trái phiếu $10.000 Vốn cổ phần: $1.000
Tổng tài sản: $11.000 Tổng nợ và VCSH: $11.000
Trái phiếu có kỳ hạn đến hạn 10 năm, lãi suất coupon cố định là 10%/năm.
Chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn 1 năm và lãi suất cố định 6%.
a. Thu nhập lãi ròng (NII) cuối năm thứ nhất sẽ là bao nhiêu? (NII = thu
nhập lãi – Chi phí trả lãi)
b. Nếu cuối năm thứ nhất, lãi suất thị trường tăng 100 điểm cơ bản (1%),
thu nhập lãi ròng sẽ là bao nhiêu? Sự thay đổi trong thu nhập lãi ròng
gây ra bởi rủi ro tái đầu tư hay rủi ro tái tài trợ?
c. Giả sử lãi suất thị trường gia tăng 1%, trái phiếu sẽ có giá trị là $9.446
ở cuối năm thứ nhất. Giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu là bao
nhiêu? (nếu toàn bộ NII được sử dụng để trang trải chi phí hoặc chia
cổ tức).
d. Nếu lãi suất thị trường giảm 100 điểm cơ bản vào cuối năm thứ nhất,
giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu sẽ cao hay thấp hơn $1000? Tại
sao?
Câu 2: Một quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ (Money market mutual Fund) mua
$1.000.000 trái phiếu kho bạc 2 năm, ở thời điểm 6 tháng trước. Trong thời gian
này, giá trị của chứng khoán đã gia tăng nhưng vì lý do thuế, quỹ này hoãn việc
bán trái phiếu thêm 2 tháng nữa. Kiểu rủi ro gì mà quỹ này phải đối diện trong 2
tháng tới?
Câu 3: Một NH đầu tư 50 triệu USD vào một tài sản kỳ hạn 2 năm, lãi suất 10%
trả cho từng năm, đồng thời phát hành một khoản nợ kỳ hạn 1 năm, lãi suất
8%/năm. Thu nhập lãi ròng (NII) mỗi năm của NH là bao nhiêu nếu cuối năm
thứ nhất tất cả lãi suất tăng 1% (100 basis point)?
Câu 4: Nếu đồng Franc Pháp giảm giá trong tương lai gần, một NH của Mỹ có
chi nhánh tại Pháp sẽ muốn duy trì trạng thái đồng Franc ở trạng thái trường

ròng hay trạng thái đoản ròng? Vì sao?
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
15
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
Câu 5: Nếu một NH có số lượng tài sản và nợ trong cùng một ngoại tệ bằng
nhau, NH này có tất yếu loại trừ hoàn toàn rủi ro liên quan đến giao dịch quốc
tế? Giải thích.
Câu 6: Một quỹ bảo hiểm Mỹ đầu tư $1.000.000 vào trái phiếu Đức. Mỗi trái
phiếu trả DM300 tiền lãi mỗi năm trong 20 năm. Nếu tỷ giá hiện hành là
DM1,762/$, bản chất của rủi ro ngoại hối mà công ty bảo hiểm này phải gánh
chịu là gì? Đặc biệt, kiểu biến động nào trong tỷ giá mà NH này phải quan tâm?
Câu 7: Giả sử một NH Mỹ có tài sản ở Đức trị giá 150 triệu DM. Tài sản này
có thu nhập trung bình 8%/năm. NH huy động 100 triệu DM nợ, trả lãi trung
bình 6%/năm. Tỷ giá hiện hành là 1,5DM/$.
a. Nếu tỷ giá ở cuối năm là 2DM/$ thì USD tăng hay giảm giá so với
DM?
b. Với sự thay đổi tỷ giá trên, thu nhập lãi ròng bằng USD sẽ như thế
nào?
c. Tác động của sự thay đổi tỷ giá lên giá trị của tài sản và nợ bằng
USD?
Câu 8: Sáu tháng trước, NH Q. phát hành một CD 100 triệu $, kỳ hạn 1 năm
bằng DM. Cùng thời gian, NH này đầu tư 60 triệu $ vào một khoản cho vay
bằng DM và 40 triệu $ vào trái phiếu kho bạc Mỹ. Tỷ giá 6 tháng trước là
1,7382DM/$. Giả sử không có khoản tiền gốc nào được rút và tỷ giá hôm nay là
1,3905DM/$.
a. Giá trị hiện tại (tiền gốc) của CD (bằng USD và DM)?
b. Giá trị hiện tại (tiền gốc) của khoản cho vay bằng DM (bằng USD và
bằng DM)?
c. Giá trị hiện tại của trái phiếu kho bạc Mỹ (bằng USD và DM)?
d. Lãi/lỗ của NH Q. từ nghiệp vụ trên (bằng USD và DM)

Câu 9: Giả sử bạn mua một trái phiếu Thuỵ Sĩ được xếp hạng AAA, kỳ hạn 10
năm, trả lãi coupon 8%, phát hành ngang giá. Trái phiếu có mệnh giá 1000SF.
Tỷ giá giao ngay ở thời điểm mua là 1,5SF/$. Vào cuối năm, trái phiếu bị rớt
hạng xuống hạng AA và thu nhập tăng lên 10%. Mặt khác, đồng SF tăng giá lên
1,35SF/$.
a. Lỗ(lãi) của người đầu tư Thuỵ Sĩ nắm giữ trái phiếu này trong 1 năm?
Tỷ lệ lỗ (lãi) do rủi ro ngoại hối? Tỷ lệ lỗ (lãi) do rủi ro lãi suất?
b. Lỗ (lãi) của người đầu tư Mỹ nắm giữ trái phiếu này trong 1 năm? Tỷ
lệ lỗ (lãi) do rủi ro ngoại hối? Tỷ lệ lỗ (lãi) do rủi ro lãi suất?
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
16
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
Câu 10: Xác định những rủi ro mà các định chế tài chính trung gian (FI) có thể
gánh chịu trong những tình huống sau:
1. Một NH tài trợ một khoản cho vay kinh doanh 5 tỷ đồng, kỳ hạn 6
năm, lãi suất cố định bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi kỳ
hạn 1 năm.
2. Một công ty bảo hiểm đầu tư các khoản phí vào một danh mục trái
phiếu chính quyền địa phương dài hạn.
3. Một NH Mỹ phát hành các giấy nợ lãi suất cố định, kỳ hạn 2 năm để
tài trợ một khoản cho vay các doanh nghiệp Anh, kỳ hạn 2 năm, lãi
suất cố định.
4. Một NH Nhật mua lại một NH Áo nhằm thuận tiện hơn cho hoạt động
thanh toán.
5. Một quỹ hỗ tương (Mutual Fund) phòng ngừa (hedging) rủi ro lãi suất
bằng cách sử dụng hợp đồng kỳ hạn
6. Một nhà kinh doanh trái phiếu Mỹ (bond dealer) sử dụng vốn tự có để
mua lại một khoản đầu tư vào trái phiếu một nước đang phát triển của
người đầu tư Mexico.
7. Một NH Việt Nam bảo lãnh thanh toán cho khách hàng bằng tiền đồng

với quy mô bảo lãnh lớn.
8. Một NH Việt Nam đầu tư lớn vào bất động sản
bằng cách chọn một hoặc nhiều hơn các rủi ro sau:
a. Rủi ro lãi suất b. Rủi ro tín dụng
c. Rủi ro ngoại bảng d. Rủi ro công nghệ
e. Rủi ro ngoại hối f. Rủi ro quốc gia (Country or sovereign
risk)
g. Rủi ro thanh khoản h. Rủi ro thị trường
Giải thích sự chọn lựa đó (trên cơ sở những khái niệm đã học).
Câu 11: Xem 4 kiểu rủi ro sau: rủi tro tín dụng; rủi ro ngoại hối; rủi ro thị
trường; và rủi ro quốc gia. Hãy tách các kiểu rủi ro này thành 2 cặp, trong mỗi
cặp có 2 rủi ro có liên quan với nhau, một rủi ro là tập hợp con của cái còn lại.
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
17
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2

CHƯƠNG 2

ĐÁNH GIÁ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
2.1. Tổng quan về đánh giá hoạt động kinh doanh ngân hàng
2.1.1. Mục tiêu đánh giá
Đánh giá hoạt động kinh doanh ngân hàng vừa là một công cụ của quản
trị - nhằm phục vụ cho việc lấy các quyết định quản trị - đồng thời nó cũng là
một trong những nội dung của hoạt động quản trị. Đây là công việc được các
đối tượng hữu quan cả bên trong và bên ngoài ngân hàng tiến hành thường
xuyên.
Mục tiêu của đánh giá hoạt động kinh doanh ngân hàng bao gồm:
- Nhận thức được thực trạng của ngân hàng về nhiều khía cạnh: về khả
năng sinh lời; về mức độ rủi ro; về khả năng tăng trưởng; về vị thế trên thị

trường và qua đó, có thể có một đánh giá tổng hợp về tình hình chung hay giá
trị của ngân hàng ở thời điểm đánh giá.
- Là cơ sở để dự báo về những xu hướng chủ yếu và triển vọng (cả tích
cực và tiêu cực) về hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong tương lai (xét
trong ngắn hạn và dài hạn)
- Là cơ sở để các đối tượng hữu quan lấy các quyết định cần thiết. Một
cách vắn tắt, đối tượng hữu quan là những chủ thể có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan đến ngân hàng và do đó bằng cách này hay cách khác phải thu thập các
thông tin về ngân hàng để trên cơ sở đó lấy các quyết định phù hợp. Các đối
tượng hữu quan nói ở đây có thể là:
- Các cổ đông
- Hội đồng quản trị
- Bộ phận điều hành
- Nhân viên
- Đối tác kinh doanh
- Khách hàng
- Người cho vay
- Nhà đầu tư trên thị trường
- Cơ quan điều tiết (NHTW )
- Các cơ quan quản lý nhà nước khác
- Cơ quan thuế
….
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
18
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
2.1.2. Phương pháp sử dụng
- Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá tổng hợp phù hợp với các mục
tiêu cụ thể và nguồn thông tin khả dụng. Ví dụ: Để đánh giá khả năng sinh lời
có thể sử dụng chỉ tiêu tổng hợp tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)
hoặc tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA)…

- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu tổng hợp và sử dụng
các phương pháp phân tích nhân tố thích hợp để xác định ảnh hưởng từng nhân
tố đến chỉ tiêu tổng hợp. Ví dụ: Các nhân tố ảnh hưởng đến ROE có thể được
phân tích theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn, có thể phân tích thành 2 nhân
tố: tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) và số nhân vốn chủ sở hữu (EM)
- Sử dụng các phương pháp phân tích theo thời gian hoặc phân tích theo
ngành để rút ra các nhận định sâu hơn. Phân tích theo thời gian nhằm thấy được
các xu hướng biến động theo thời gian. Phân tích theo ngành nhằm so sánh giữa
các đơn vị trong ngánh có đặc điểm tương đồng xét theo một tiêu chí nào đó
nhằm nhận thức được những ưu điểm, hạn chế, các lợi thế hoặc bất lợi trong
cạnh tranh
- Cung cấp các khuyến nghị cần thiết tùy theo yêu cầu của từng đối tượng
hữu quan.
2.1.3. Cơ sở thông tin của đánh giá hoạt động kinh doanh ngân hàng
Việc đánh giá các hoạt động kinh doanh ngân hàng dựa trên các cơ sở
thông tin chủ yếu sau:
(i) Các báo cáo tài chính của ngân hàng theo thời gian
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả kinh doanh
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Thuyết minh báo cáo tài chính
(ii) Các báo cáo khác của ngân hàng theo thời gian
(iii) Thông tin về các ngân hàng khác theo thời gian
iv) Các chỉ số chuẩn của ngành, của các cơ quan điều tiết trong nước và
quốc tế
Những thông tin nói trên chỉ nên coi là những cơ sở thông tin tối thiểu.
Để nâng cao chất lượng của công tác đánh giá hoạt động kinh doanh ngân hàng,
cần phải tiến hành thu thập thêm các thông tin chuyên đề khác. Trong nhiều
trường hợp, phải tiến hành các cuộc điều tra, khảo sát để có được những dữ liệu
sơ cấp.

2.1.4. Nội dung chủ yếu của đánh giá hoạt động kinh doanh ngân hàng
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
19
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
Để đáp ứng được các mục tiêu đánh giá đã nêu trong mục 2.1.1, việc
đánh giá hoạt động kinh doanh của ngân hàng được tiến hành theo 3 nội dung
chủ yếu:
(i) Đánh giá khả năng tăng trưởng của ngân hàng
(ii) Đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng, thông qua các chỉ tiêu tổng
hợp đánh giá mức độ sinh lời và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng
sinh lời
(iii) Đánh giá rủi ro của NH
Ba nội dung đánh giá trên tương ứng với 3 mục tiêu của ngân hàng là:
tăng trưởng; sinh lời; và kiểm soát rủi ro. Các mục tiêu này vừa có tương quan
vừa độc lập với nhau vì vậy, các nội dung đánh giá trên phải vừa được xem xét
trong tổng thể, vừa được xem xét một cách độc lập. Cả về lý thuyết và thực tế,
kết quả tổng hợp của 3 nội dung trên là cơ sở cho việc xác định giá trị (hay giá
trị ròng) của ngân hàng.
Đối với những NH có cổ phiếu được giao dịch tích cực trên thị trường thì
thị giá cổ phiếu là chỉ tiêu tổng hợp tốt nhất để đo lường tình hình kinh doanh
của ngân hàng, bởi vì thị giá cổ phiếu là sự tổng hợp của cả 3 yếu tố sau:
- Dòng lợi tức thu được trong tương lai
- Mức rủi ro dự tính của NH
- Đánh giá của nhà đầu tư về hai yếu tố trên
Có thể thấy rõ điều này qua xem xét công thức định giá cổ phiếu sau:
1 2
0
2
1


(1 ) (1 ) (1 ) (1 )
n
i n
i n
i
CF CF
CF CF
P
r r r r
=
= Σ = + + +
+ + + +
P
o
: Mức giá thị trường hiện hành của cổ phiếu
CF
i
(hay FV
i
: Dòng tiền được thanh toán trong kỳ thứ i tùy theo từng
phương thức thanh toán).
r: Lãi suất chiết khấu phản ảnh mức rủi ro của cổ phiếu ngân hàng.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc đánh giá dựa trên một hệ thống chỉ tiêu và
căn cứ vào các dữ liệu của các báo cáo tài chính vẫn được tiến hành phổ biến vì
những lý do sau:
(i) Thị trường không hoàn hảo
Chỉ trong một thị trường hoàn hảo, giá trị cổ phiếu mới phản ảnh đầy đủ
và chuẩn xác thực trạng và triển vọng của ngân hàng hay nói khác, mới phản
ảnh được giá trị thực của ngân hàng. Trên thực tế, thị trường hoàn hảo chỉ là
một khái niệm lý thuyết. Các yếu tố đầu cơ, lũng đoạn thị trường, tình trạng

PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
20
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
thông tin bất đối xứng, đã làm cho các quan hệ cung – cầu bị bóp méo, dẫn đến
giá cả bị lệch lạc.
(ii) Mức độ tham gia thấp của cổ phiếu ngân hàng vào thị trường
Cổ phiếu của ngân hàng ít được giao dịch trên sàn giao dịch tập trung tức
ít được niêm yết. Lý do là vì phần lớn các ngân hàng đều là ngân hàng nhỏ.
Điều này không những đúng với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước phát
triển. Hệ quả là quy mô giao dịch cổ phiếu của ngân hàng còn nhỏ.
(iii) Thị giá được hình thành do các lực lượng thị trường. Các lực lượng
này lấy quyết định từ phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Vì vậy, đánh giá hoạt động kinh doanh ngân hàng nhằm hiểu rõ hơn các động
cơ của những nhà đầu tư, trên cơ sở đó có được những dự báo về xu hướng và
động thái của thị trường.
(iv) Việc phân tích theo hệ thống chỉ tiêu cho phép các đối tượng hữu
quan có được cơ sở cho các quyết định tương ứng. Bởi vì các đối tượng hữu
quan khác nhau sẽ có những quan tâm khác nhau và lấy các quyết định khác
nhau. Chỉ đơn giản dựa vào giá thị trường của cổ phiếu thì sẽ không đáp ứng
được các yêu cầu đa dạng của từng đối tượng hữu quan.
(v) Cuối cùng, cần thấy là việc đánh giá dựa trên các báo cáo tài chính mà
về cơ bản là dựa trên giá trị sổ sách là một công việc đơn giản, dễ sử dụng cho
nhiều chủ thể.
2.2. Đánh giá khả năng tăng trưởng
Đánh giá khả năng tăng trưởng của ngân hàng được tiến hành theo các
nội dung chủ yêu sau:
- Các chỉ tiêu tăng trưởng tài sản
- Các chỉ tiêu tăng trưởng nguồn vốn
- Các chỉ tiêu tăng trưởng hoạt động ngoại bảng
- Các chỉ tiêu tăng trưởng năng lực hoạt động

- Các chỉ tiêu tăng trưởng năng lực chiếm lĩnh thị trường
Tăng trưởng là một trong những mục tiêu của quản trị ngân hàng. Mức độ
tăng trưởng thể hiện năng lực cơ bản về mở rộng quy mô hoạt động, phát triển
và nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường. Đánh giá mức độ tăng trưởng còn
cho phép phát hiện các xu hướng, dự báo triển vọng phát triển của ngân hàng.
Thông thường, việc đánh giá mức độ tăng trưởng được thể hiện qua 2 chỉ
tiêu so sánh theo thời gian là:
- Chỉ tiêu tốc độ phát triển theo thời gian
- Chỉ tiêu tốc độ tăng theo thời gian
2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng tài sản
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
21
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
Các chỉ tiêu tăng trưởng tài sản có thể đánh giá bằng cách so sánh các số
dư cuối kỳ hoặc số dư bình quân của kỳ báo cáo so với kỳ gốc. Đương nhiên,
việc tính toán bằng các chỉ tiêu bình quân sẽ hợp lý hơn.
(i) Tăng trưởng tổng tài sản
- Tốc độ phát triển tổng tài sản kỳ báo cáo so với kỳ gốc:
- Tốc độ tăng tổng tài sản kỳ báo cáo so với kỳ gốc
(ii) Tăng trưởng tài sản sinh lời
Tài sản sinh lời là bộ phận tài sản có khả năng tạo ra lợi nhuận cho ngân
hàng từ tiền lãi đầu tư như: các khoản cho vay; đầu tư chứng khoán
- Tốc độ phát triển tài sản sinh lời
- Tốc độ tăng tài sản sinh lời
(iii) Tăng trưởng tài sản chịu rủi ro thông thường
- Tốc độ phát triển TS chịu rủi ro thông thường
- Tốc độ tăng TS chịu rủi ro thông thường
(iv) Tăng trưởng dư nợ tín dụng
- Tốc độ phát triển dư nợ tín dụng
- Tốc độ tăng dư nợ tín dụng

2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng nguồn vốn
(i) Tăng trưởng huy động vốn
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
22
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
Tăng trưởng huy động vốn nói ở đây là tăng các khoản nợ tiền gửi và phi
tiền gửi. Có thể so sánh số dư cuối kỳ của các khoản nợ hoặc số dư có bình
quân của các khoản nợ
- Tốc độ phát triển huy động vốn
- Tốc độ tăng huy động vốn
(ii) Tăng trưởng huy động tiền gửi
Tiền gửi là một khoản nợ đặc trưng của ngân hàng vốn là một định chế
nhận tiền gửi. Do đó, mức độ tăng trưởng huy động tiền gửi thể hiện năng lực
cốt lõi trong huy động vốn của ngân hàng
Thông thường, chỉ tiêu sử dụng là số dư có bình quân của các loại tiền
gửi trong kỳ.
- Tốc độ phát triển huy động tiền gửi

- Tốc độ tăng huy động tiền gửi
(iii) Tăng trưởng vốn chủ sở hữu
(iv)Tăng trưởng vốn tự có
Vốn tự có là một khái niệm được định nghĩa trong Luật các tổ chức tín
dụng nhằm tính toán các hệ số an toàn. Vốn tự có gồm giá trị thực có của vốn
điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác của tổ chức tín dụng theo quy định
của Ngân hàng nhà nước.
Đánh giá tăng trưởng vốn chủ sở hữu và vốn tự có cũng được thực hiện
qua hai chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng và tốc độ tăng. Cách tính toán cũng tương tự
như trên.
2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng hoạt động ngoại bảng
(i) Tăng trưởng doanh số cung ứng dịch vụ ngoại bảng

(ii) Tăng trưởng doanh thu cung ứng các dịch vụ ngoại bảng
Cần phân biệt 2 khái niệm doanh số và doanh thu. Doanh số là tổng giá
trị của các hoạt động ngoại bảng, chẳng hạn, giá trị của các cam kết bão lãnh
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
23
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
hoặc các cam kết tín dụng. Doanh thu là thu nhập từ các hoạt động ngoại bảng,
chẳng hạn, tổng thu phí bảo lãnh, phí cam kết tín dụng…
2.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng năng lực hoạt động
(i) Tăng trưởng tài sản cố định
Tăng trưởng tài sản cố định được đánh giá qua so sánh nguyên giá tài sản
cố định kỳ báo cáo so với kỳ gốc hoặc giá trị còn lại (sau khi đã trừ hao mòn).
Giá trị tài sản cố định đem so sánh có thể là số dư cuối kỳ hoặc số dư bình quân
trong kỳ.
(ii) Tăng trưởng số lượng nhân viên
Số lượng nhân viên có thể là số lượng nhân viên cuối kỳ hoặc số dư bình
quân trong kỳ. Khi đánh giá có thể so sánh tốc độ phát triển và tốc độ tăng toàn
bộ nhân viên hoặc từng bộ phận.
(iii) Tăng trưởng tài sản công nghệ cao
Tài sản công nghệ cao được hiểu là các thiết bị giao dịch điện tử như máy
ATM; hạ tầng thanh toán; phần mềm quản lý…
(iv) Tăng trưởng số chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch
2.2.5. Tăng trưởng năng lực chiếm lĩnh thị trường
(i) Thị phần cho vay
Là tỷ trọng dư nợ cho vay của ngân hàng so với tổng dư nợ của toàn bộ
thị trường mục tiêu
Có thể tính tốc độ phát triển hoăc/và tốc độ tăng của thị phần để đánh giá
được mức độ tăng trưởng của năng lực chiếm lĩnh thị trường của NH qua thời
gian.
(ii) Tỷ trọng tài sản

(iii) Tỷ trọng tài sản sinh lời (tính toán tương tự)
(iv) Thị phần huy động vốn
(v) Thị phần hoạt động ngoại bảng( tính toán tương tự)

2.3. Đánh giá khả năng sinh lời
2.3.1. Các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá khả năng sinh lời
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
24
Bài giảng Quản trị Ngân hàng 2
(i) Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE = Return on Equities)
ROE =
Lợi nhuận ròng sau thuế
Tổng vốn cổ phần
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng (hay 100 đồng, nếu tính bằng %) vốn chủ sở
hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đây là quan tâm hàng đầu của chủ sở hữu.
(ii) Tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA = Return on Assets)
ROA =
Lợi nhuận ròng sau thuế
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Đây là chỉ tiêu đánh giá năng lực sinh lời từ tài sản của hoạt động quản trị ngân
hàng. Nó thể hiện năng lực chủ quan của bộ phận điều hành trong việc tìm kiếm
một danh mục tài sản sinh lời cao, rủi ro thấp, cũng như năng lực kiểm soát chi
phí, năng lực định giá phù hợp
(iii) Tỷ lệ thu nhập lãi suất ròng cận biên (NIM = Net interest margin)
Tỷ lệ thu nhập lãi suất
ròng cận biên (NIM)
Lãi từ cho vay và đấu tư
chứng khoán – Chi phí
lãi trả cho các khoản nợ

Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ảnh khả năng tạo ra lợi nhuận từ các hoạt động cốt lõi
và truyền thống của ngân hàng là hoạt động tín dụng. Nó phản ảnh các điều kiện
thị trường. Trong một thị trường ngày càng gia tăng cạnh tranh, tỷ lệ này ngày
càng giảm do chênh lệch lãi suất giữa đầu ra và đầu vào của ngân hàng ngày
càng giảm. Bởi vì, một mặt ngân hàng phải tăng lãi suất đầu vào, mặt khác, phải
giảm lãi suất đầu ra để tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
(iv) Tỷ lệ thu nhập phi lãi suất ròng cận biên (NNM = Net noninterest
margin)
Tỷ lệ thu nhập phi lãi suất
ròng cận biên (NNM)
Thu nhập ngoài lãi suất –
Chi phí ngoài lãi suất
PGS.TS. Lâm Chí Dũng & Th.s. Võ Hoàng Diễm Trinh, 2009
25

×