Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

TIỂU LUẬN: Vấn đề cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Phục Hoà - Thực trạng và giải pháp docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.86 KB, 41 trang )














TIỂU LUẬN:
Vấn đề cho vay kinh tế ngoài quốc
doanh tại Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Phục Hoà
- Thực trạng và giải pháp






Lời nói đầu

Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể, những năm qua nền kinh tế
đất nước ta ngày tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người dần dần được nâng cao,
đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, đạt được kết quả đó là sự phấn đấu của
tất cả các cấp các ngành trong đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng.


Trong công cuộc đổi mới, ngành Ngân hàng nói chung, các Ngân hàng thương
mại nói riêng đã có những bước tiến đáng kể và đã khẳng định được vai trò của mình
trong nền kinh tế, tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay những khó khăn về vốn cho nền
kinh tế nói chung và đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh nói riêng là một vấn đề bức súc đang được các cấp các ngành quan tâm tháo gỡ,
luật Ngân hàng ra đời đã tạo nhiều thuận lợi cho ngành Ngân hàng và các thành phần
kinh tế mở rộng mối quan hệ tín dụng, nhưng hiện nay mối quan hệ tín dụng giữa
Ngân hàng với các thành phần kinh tế, đặc biệt là các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh còn nhiều hạn chế. Việc nghiên cứu thực tế tìm nguyên nhân và đưa ra các giải
pháp để tháo gỡ là cần thiết. Cho nên qua quá trình học tập và sau một thời gian đi
thực tập tại NHNo&PTNT khu vực Phục Hoà Em đã nghiên cứu và trọn viết chuyên đề
về đề tài:
“Vấn đề cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn Phục Hoà - Thực trạng và giải pháp”.
Chuyên đề này được trình bày theo kết cấu:
Chương I : Ngân hàng thương mại và kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh
tế thị trường.



Chương II : Thực trạng về cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tại NHNo & PTNT
Phục Hoà.
Chương III : Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng
Ngân hàng với kinh tế ngoài quốc doanh Tại NHNO&PTNT Phục
Hoà

Chương I
Kinh tế ngoài quốc doanh và vai trò của Ngân hàng
thương mại đối với kinh tế ngoài quốc doanh


I. Kinh tế ngoài quốc doanh:
1. Khái niệm:
Kinh tế ngoài quốc doanh là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, kinh
tế ngoài quốc doanh do kinh tế tư nhân và kinh tế hợp tác hợp thành. Trong công cuộc
đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển, đây là
điều kiện thuận lợi cho kinh tế ngoài quốc doanh trỗi dậy. Các tổ chức kinh tế ngoài
quốc doanh đã nhanh chóng thích ứng với nền kinh tế thị trường, tiếp cận nhanh với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ, tham gia vào tất cả các lĩnh vực hoạt động
sản xuất kinh doanh. Kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm:Hợp tác xã, Công ty, Doanh
nghiệp tư nhân, Hộ cá thể và Cá nhân kinh doanh.
1. 1. Hợp tác xã
Hợp tác xã là đơn vị kinh tế do nhiều lao động tự nguyện tham gia góp vốn để
tổ chực hoạt động sản xuất kinh doanh. HTX hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, bình
đẳng đối với mọi xã viên nhằm kết hợp sức mạnh của tập thể xã viên, ban chủ nhiệm
hợp tác xã có trách nhiệm quản lý mọi hoạt động của hợp tác xã.
1. 2. Công ty



Công ty là loại hình doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp, là đơn vị
kinh tế do các cá nhân tự bỏ vốn thành lập, trách nhiệm, quyền hạn và lợi nhuận được
phân chia theo tỷ lệ vốn góp, loại hình công ty được tổ chức gồm hội đồng quản trị,
ban giám đốc, ban kiểm soát và dưới đó là các bộ phận trực tiếp sản xuất kinh doanh
Công ty có 2 loại đó là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ 2 thành viên trở lên chỉ chịu trách nhiệm
trong phạm vi vốn góp của mình trong công ty
- Công ty cổ phần gồm ít nhất là ba thành viên, thành lập do sự góp vốn của các
cổ đông mỗi cổ đông chỉ chịu trách nhiệm theo phần vốn góp của mình trong công ty.
1. 3. Doanh nghiệp tư nhân:

Doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh tế do một người đứng ra tổ chức và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, trong quá trình hoạt động kinh doanh,
doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp.
1. 4. Cá nhân, hộ cá thể kinh doanh
Cá nhân, hộ cá thể kinh doanh có mức vốn thấp hơn mức vốn pháp định của
doanh nghiệp tư nhân, họ tự bỏ vốn ra kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh của mình, bộ phận kinh tế tư nhân cá thể này chiếm một số lượng lớn trong
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay đã tạo điều kiện thuận
lợi cho kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển, đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay Nhà nước ta thực hiện cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước làm cho kinh tế
ngoài quốc doanh càng khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế.
2. Đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh :
Một là : Kinh tế ngoài quốc doanh có quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh
nhỏ, tham gia vào tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta được hình thành chủ yếu do
một số tư nhân cá thể tự bỏ vốn ra để tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, một phần



được hình thành từ các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh thua lỗ, hoặc phá
sản tiến hành cổ phần hoá thành các doanh nghiệp tư nhân v.v Do đó chưa có quá
trình để tích tụ, tập trung vốn nên hầu hết các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh đều
hoạt động với số vốn ít ỏi, chủ yếu hoạt động bằng vốn tự có của mình, còn việc sử
dụng vốn vay của các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác còn nhiều hạn
chế. Cho nên đại bộ phần các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh đều có cơ sở vật chất
nghèo nàn, sử dụng trang thiết bị cũ kỹ của các doanh nghiệp Nhà nước thải ra, do đó
năng lực sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế, năng suất lao động thấp, hiệu quả sản
xuất kinh doanh chưa cao, chưa có điều kiện để mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh.

- Trong nền kinh tế nước ta các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh có số lượng
tương đối lớn, mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận. Với tính
năng động, sáng tạo của mình, các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh tham gia vào hầu
hết mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoại trừ một số ngành nghề do Nhà
nước độc quyền quản lý hoạt động. Do các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh tự chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, lời ăn, lỗ chịu nên họ
thấy lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh nào có hiệu quả, thu lợi nhuận cao thì họ
sẽ đầu tư vào lĩnh vực đó và rồi khi gặp khó khăn họ lại chuyển sang hoạt động kinh
doanh ở lĩnh vực khác nếu thấy hoạt động kinh doanh ở đó thuận lợi hơn.
Hai là : Kinh tế ngoài quốc doanh có trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh chưa
cao.
ở các nước trên thế giới có những Công ty hoạt động rộng trên nhiều quốc gia,
có tiềm lực kinh tế rất lớn, trình độ tổ chức hoạt động kinh doanh rất cao. Nhưng ở
nước ta hiện nay các doanh nghiệp nói chung và đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói
riêng mới tiếp cận với nền kinh tế thị trường, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, năng lực
sản xuất chưa cao, chưa có điều kiện để mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh
doanh. Việc tiến hành tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào những
kinh nghiệm lâu đời, lực lượng lao động rất đông nhưng số lượng lao động được đào
tạo và có tay nghề cao còn ít, đặc biệt là đối với đội ngũ làm công tác quản lý điều



hành. Cho nên, ngoại trừ một số ít các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đứng vững
trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì nhiều
doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải rất khó khăn mới duy trì được hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình trong sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường.
3. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh:
3.1. Kinh tế ngoài quốc doanh thu hút lao động trong xã hội, góp phần làm
giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Từ khi thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,

nhiều tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh được thành lập, đặc biệt trong những năm gần
đây các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng
cũng như quy mô hoạt động do đó đã thu hút được một khối lượng lớn lao động trong
xã hội tham gia vào hoạt động SXKD ở khu vực kinh tế này, làm giảm đáng kể tỷ lệ
người lao động không có việc làm trong xã hội.
3.2. Kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo ra một khối lượng lớn của cải vật chất
cho xã hội, góp phần làm tăng thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường với tính năng động, sáng tạo của mình, kinh tế
ngoài quốc doanh đã có nhiều đóng góp cho nền kinh tế, tạo ra được một khối lượng
lớn hàng hoá dịch vụ đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra nước
ngoài, làm tăng kim ngạch xuất khẩu, năm 1999 giá trị làm ra của khu vực kinh tế tư
nhân là 151. 388 tỷ VND, chiếm 41% trong tổng GDP. (Báo pháp luật - số 59/2000).
Với các khoản đóng góp cho ngân sách nhà nước thì đóng góp của kinh tế ngoài quốc
doanh cho ngân sách nhà nước cũng rất lớn, trong những năm gần đây trong tổng thu
ngân sách nhà nước thì chiếm tới gần 40% là thu từ kinh tế ngoài quốc doanh, do vậy
để khơi tăng nguồn thu ngân sách từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Nhà nước cần
phải tạo môi trường cho các thành phần kinh tế phát triển, coi trọng việc đầu tư vào cơ
sở hạ tầng để các tổ chức kinh tế này mở rộng liên doanh với các doanh nghiệp trong
và ngoài nước, thúc đẩy sản xuất phát triển.



3.3. Kinh tế ngoài quốc doanh tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong cơ chế thị trường các tổ chức kinh tế muốn tồn tại và phát triển thì những
hàng hoá, dịch vụ họ đưa ra thị trường phải được thị trường chấp nhận tức là ngoài yêu
cầu về chất lượng còn đòi hỏi phải có giá cả hợp lý, mẫu mã, chủng loại phải phong
phú nếu không sẽ bị quy luật cạnh tranh đào thải. Chính điều đó đã tạo ra một môi
trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi tất cả các tổ chức kinh tế phải năng động tìm mọi
biện pháp thay đổi cơ chế quản lý, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao

chất lượng sản phẩm.
3.4. Kinh tế ngoài quốc doanh là thị trường rộng lớn để NHTM huy động
vốn và đầu tư tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển về
số lượng cũng như quy mô hoạt động do đó nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của khu vực kinh tế này ngày càng lớn, cho nên để hoạt động kinh doanh
ngày càng phát triển, đáp ứng được khối lượng lưu thông hàng hoá ngày càng tăng thì
hầu hết các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh đều mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại
các NHTM, qua đó các NHTM huy động được một khối lượng tiền nhàn rỗi, tạm thời
nhàn rỗi của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, mặt khác do đòi hỏi của hoạt
động sản xuất kinh doanh nhiều khi nhu cầu về vốn cho hoạt động là rất lớn, vượt quá
khả năng nguồn vốn tự có thì lúc này các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh lại tìm đến
các NHTM để vay vốn, qua đó các NHTM có thể mở rộng đầu tư tín dụng vào khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh.
II. Ngân hàng thương mại và vai trò của NHTM đối với kinh tế ngoài quốc
doanh:
Trong nền kinh tế thị trường cùng với sự đổi mới của các ngành, ngành Ngân
hàng Việt nam đã có nhiều đổi mới phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn xã
hội. Vào năm 1990 pháp lệnh Ngân hàng ra đời hệ thống Ngân hàng được tách ra



thành Ngân hàng TW (NH Nhà nước) và hệ thống Ngân hàng thương mại, khi đó ở
nước ta hệ thống NHTM ra đời.
NHTM được khái niệm như sau :
“Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán”.
1. Hoạt động kinh doanh của các NHTM

Trong nền kinh tế thị trường các NHTM giữ một vị trí quan trọng trong nền
kinh tế bởi hoạt động của NHTM là một loại hình kinh doanh đặc biệt, không giống
với bất cứ loại hình kinh doanh nào, sản phẩm kinh doanh của NHTM là "Tiền tệ" và
hoạt động của các NHTM gắn liền với mọi hoạt động SXKD. Hoạt động của các
NHTM bao gồm:
+ Nghiệp vụ huy động vốn:
Để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình các NHTM phải thực hiện nghiệp
vụ huy động vốn, vốn được huy động dưới các hình thức nhận tiền gửi của các tổ chức
kinh tế, tiền gửi của các tầng lớp dân cư, phát hành chứng chỉ tiền gửi, ngoài ra còn có
thể vay Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng khác
+ Nghiệp vụ cho vay của các NHTM:
Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu chiếm từ 70 % đến 80 % tổng thu của các
NHTM. Các NHTM tiến hành cho vay vốn ngắn hạn, cho vay trung, dài hạn đối với
mọi thành phần kinh tế, phương thức cho vay phong phú như cho vay theo từng lần,
cho vay theo hạn mức tín dụng v.v
+ Nghiệp vụ kinh doanh khác :
NHTM là trung tâm thanh toán thực hiện các nghiệp vụ thu hộ, chi hộ, làm dịch
vụ chuyển tiền, mua bán ngoại tệ, dịch vụ thanh toán quốc tế, tham gia đầu tư vào các
loại chứng khoán, làm đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty. v.v



Các Ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính và hoạt động
của các Ngân hàng thương mại(NHTM) là tìm kiếm lợi nhuận, trong quá trình thực
hiện mục tiêu kinh doanh của mình NHTM đã có những đóng góp không nhỏ trong
việc ổn định tiền tệ, chống lạm phát và thúc đẩy nền kinh tế phát triển, những đóng góp
đó được thể hiện qua vai trò của nó trong nền kinh tế.
2. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế:
2.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, tổ chức kinh tế

do vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Để
tăng thu nhập quốc dân tức là để mở rộng quy mô sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy
mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế thì cần thiết phải có một khối lượng
vốn lớn, ngược lại nền kinh tế càng phát triển thì lại càng tạo ra nhiều vốn. NHTM là
chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động SXKD. NHTM tổ chức huy động
các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, bằng nguồn vốn huy
động được trong xã hội các NHTM đã đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho
các tổ chức kinh tế thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình, qua đó các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc thiết bị, đổi mới công
nghệ, tăng năng xuất lao động nâng cao hiệu quả kinh tế
2.2. NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
chịu tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy
luật cung cầu, quy luật cạnh tranh sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của thị
trường, thoả mãn mọi nhu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, chủng loại thì
hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mới đạt hiệu quả cao và đứng vững trong
cạnh tranh, để đáp ứng tốt nhất mọi yêu cầu của thị trường thì các tổ chức kinh tế
không những cần phải hoàn thiện cơ chế quản lý, chế độ hạch toán kinh tế. v.v mà
còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đổi mới dây chuyền công nghệ, mở
rộng quy mô sản xuất kinh doanh một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi



phải có một khối lượng vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh
nghiệp, để giải quyết khó khăn về vốn thì các doanh nghiệp có thể vay vốn bổ sung từ
các Ngân hàng thương mại, thông qua hoạt động tín dụng, NHTM là chiếc cầu nối giữa
các doanh nghiệp với thị trường.
2.3. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, các NHTM hoạt động một cách
có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ của mình sẽ thực sự là một công cụ để Nhà nước

điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các
NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua
việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành kinh tế NHTM thực hiện việc dẫn dắt các
luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu
quả, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô "Nhà nước điều tiết NH, NH dẫn dắt thị
trường"
2.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng
được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới ngày
càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn
với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, vì vậy nền tài chính của mỗi nước cũng phải
hoà nhập với nền tài chính quốc tế. NHTM thông qua hoạt động kinh doanh của mình
đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ kinh
doanh như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán, nghiệp vụ hối đoái NHTM đã tạo điều
kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh
toán, buôn bán ngoại hối, quan hệ với các NHTM nước ngoài, NHTM đã thực hiện vai
trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc
tế.
Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển trên cơ sở nền sản xuất và lưu thông
hàng hoá phát triển, nền kinh tế càng phát triển ngày càng cần đến hoạt động của



NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng vai trò của mình nhất là chức năng
trung gian tài chính NHTM đã trở thành một bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
3. Vai trò của NHTM đối với kinh tế ngoài quốc doanh:
- NHTM tác động tích cực đến việc tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra và
tăng nhịp độ sản xuất của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

Sản phẩm sản xuất ra là những hàng hoá để sử dụng cho sản xuất hoặc phục vụ
cho tiêu dùng khi nó được đem ra thị trường tiêu thụ, để việc tiêu thụ được thực hiện
nhanh chóng đòi hỏi người mua tại thời điểm cần thiết phải có đủ tiền để thanh toán,
tuy nhiên có những lúc người mua không có khả năng thanh toán, lúc này NHTM có
thể đáp ứng vốn cho người mua. Qua đó NHTM tạo ra khả năng đảm bảo tính liên tục
của tiêu thụ sản phẩm một yếu tố của quá trình tái sản xuất, điều đó nói lên vai trò
quan trọng của NHTM đối với việc duy trì nhịp độ liên tục của quá trình tái sản xuất.
Để đảm bảo tính liên tục của quá trình tái sản xuất cũng như mở rộng sản xuất
trong những thời kỳ nhất định các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh cần bổ sung thêm
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, NHTM góp phần thoả mãn nhu cầu vốn tiền tệ
tạm thời thiếu hụt cho các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh để thực hiện thanh toán
khi có sự chênh lệch về mức vốn tiền tệ hiện có so với nhu cầu chi trả và khi khối
lượng sản xuất tăng lên thì nhu cầu vốn bổ sung cũng được thoả mãn thông qua tín
dụng NHTM.
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vai trò của NHTM
ngày càng tăng lên trong việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, điều đó được
thể hiện ở việc mở rộng phạm vi tín dụng đối với tất cả các tổ chức kinh tế, đặc biệt là
kinh tế ngoài quốc doanh, tăng các khoản cho vay đầu tư xây dựng cơ bản để mở rộng
và hiện đại hoá tài sản cố định, tăng năng lực sản xuất kinh doanh.
- NHTM với việc nâng cao hiệu quả SXKD của doanh nghiệp ngoài quốc
doanh:



Hoạt động của các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh theo nguyên tắc hạch toán
kinh tế đòi hỏi phải chấp hành nguyên tắc tự bù đắp, doanh nghiệp phải bảo đảm trang
trải các khoản chi phí bằng thu nhập của mình và có lãi. Việc sử dụng tín dụng NHTM
như là một nguồn hình thành vốn của các doanh nghiệp đòi hỏi phải tăng cường tiết
kiệm.
Trong hoạt động SXKD không có sự trùng khớp về mặt thời gian giữa số tiền

nhận được từ doanh thu tiêu thụ sản phẩm với việc thực hiện trang trải các khoản chi
phí, do đó trong quá trình hoạt động SXKD thường xuất hiện nhu cầu vốn bổ sung với
điều kiện phải hoàn trả bằng chính thu nhập của mình, đã tạo ra sự kích thích mới
nhằm thực hiện tốt hơn nguyên tắc tự bù đắp, mặt khác chỉ có kinh doanh có hiệu quả
thì mới đáp ứng được điều kiện vay vốn của Ngân hàng, do đó tín dụng NHTM thúc
đẩy doanh nghiệp quan tâm hơn đến việc sử dụng vốn vay, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
Xuất phát từ vai trò, đặc điểm cả các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
chúng ta thấy khu vực kinh tế này có một tiềm năng rất lớn, tuy nhiên để phát huy
được vai trò to lớn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần phải có sự hỗ trợ của nhà
nước để thúc đẩy các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển.
Kinh tế ngoài quốc doanh với đặc điểm là có quy mô hoạt động nhỏ, thiếu vốn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh,
thiếu máy móc thiết bị hiện đại, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn. v.v cho nên
vốn tín dụng của NHTM lại càng có vai trò quan trọng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh.
Trong những năm qua từ chỗ chỉ tập chung vốn đầu tư cho khu vực kinh tế Nhà
nước, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ít được quan tâm thì trong giai đoạn hiện nay,
thực hiện công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh đã được quan tâm, đặc biệt là việc đầu tư vốn cho khu vực kinh tế
này, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, mở rộng quy mô
hoạt động sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất.



Trong những năm gần đây thông qua việc đầu tư tín dụng vào khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh đã phần nào khuyến khích các tổ chức kinh tế này phát triển cụ thể như:
bằng các chính sách tín dụng của Nhà nước đã thúc đẩy các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh phát triển đúng hướng đầu tư vào các ngành nghề SXKD thuộc lĩnh vực
Nhà nước ưu tiên và tập chung phát triển, từ đó góp phần thúc đẩy các tổ chức kinh tế

này tích tụ, tập trung vốn mua sắm máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, mở rộng quy
mô sản xuất, giảm được tình trạng sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, làm ăn kém hiệu quả,
tạo ra thế cạnh tranh lành mạnh với kinh tế Nhà nước.
Mặc dù trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước quan tâm, Ngân
hàng đã có nhiều chính sách đổi mới, có những đầu tư đáng kể vào khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh nhưng hiện nay thực tế kết quả đầu tư tín dụng vào khu vực kinh tế
này còn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn của các tổ chức kinh tế này và khả năng cung
cấp vốn to lớn của các Ngân hàng thương mại.











Chương II
Thực trạng về cho vay kinh tế ngoài quốc doanh
tại NHN0 & PTNT phục hoà, huyện Quảng hoà, Tỉnh Cao Bằng

I. Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Phục hòa.
1. Khái quát về NHNo & PTNT Phục Hoà.
1.1. Sự hình thành và phát triển
Cùng Với sự ra đời và phát triển của hệ thống NHNo&PTNT Việt nam, đến
năm 1990 NHNo Phục Hoà được hình thành, khi mới thành lập NHNo Phục Hoà có
tên gọi là phòng giao dịch NH Phục Hoà trực thuộc NHNo Huyện Quảng hòa và có trụ
sở tại Xã Hoà thuận, Huyện Quảng hoà, Tỉnh Cao bằng.

Trong quá trình hoạt động, để phù hợp với sự phát triển chung trong giai đoạn
hiện nay thì NHNo Phục Hoà đã có nhiều đổi mới :
- 1/1997 Phòng giao dịch NHNo Phục Hoà được tách ra khỏi NHNo&PTNT
Huyện Quảng hoà và nâng cấp lên thành NHNo loại IV trực thuộc NHNo&PTNT Tỉnh
Cao bằng.
- 4/1999 NHNo&PTNT Phục Hoà được nâng cấp lên thành NHNo loại III.
1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động.
- NHNo Phục Hoà có Tất cả 13 cán bộ và nhân viên được bố trí vào các phòng
ban như sau :
+ Ban giám đốc gồm có 3 người.
+ Phòng Tín dụng gồm có 5 người.
+ Phòng Kế toán Ngân quỹ gồm có 5 người.
NHNo Phục Hoà là chi nhánh hạch toán phụ thuộc, trực thuộc NHNo&PTNT
Tỉnh Cao bằng.
2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo Phục Hoà.



2.1. Khái quát về môi trường kinh doanh.
NHNo Phục Hoà hoạt động trên địa bàn bao gồm 6 xã và 1 thị trấn, đây là khu
vực miền núi do đó trong khu vực có tới 5 xã thuộc khu vực III là vùng có điều kiện
đặc biệt khó khăn.
Trên địa bàn hoạt động chỉ có 1 doanh nghiệp nhà nước, còn lại là các hộ kinh
doanh sản xuất nhỏ, các tổ chức kinh tế như công ty, doanh nghiệp ngoài quốc doanh
không có trên địa bàn.
Các hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn gặp không ít khó khăn do điều
kiện tự nhiên tác động tới. Trong những năm gần đây, thực hiện chương trình xoá đói
giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, nhằm hỗ trợ nguồn lực cho cho các xã đặc biệt
khó khăn, do đó nhiều chương trình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương đã và đang
được thực hiện, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển.

Khu vực Phục hòa là vùng kinh tế mới của tỉnh do vậy được tỉnh tập chung
nhiều nguồn lực hỗ trợ phát triển vùng công nghiệp mía đường, hơn nữa tại đây có cửa
khẩu quốc gia rất thuận lợi cho việc mở rộng thông thương giao lưu hàng hoá giữa
Việt Nam và Trung Quốc.
2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Phục Hoà.
NHNo & PTNT Phục Hoà là một Ngân hàng cấp III, địa bàn hoạt động hẹp,
hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn nhưng NHNo & PTNT Phục Hoà đã có
nhiều biện pháp tích cực như kiện toàn tổ chức bộ máy hoạt động, thực hiện tốt chiến
lược khách hàng, sử dụng linh hoạt công cụ lãi suất. v.v nên đã đạt được một số kết
quả nhất định trong hoạt động kinh doanh.
Biểu 1 :
Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT
Phục Hoà trong một số năm gần đây :
ĐV: Triệu VND
Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 30/9/2000



1. Ngu
ồn vốn huy
đ
ộng

2.097

2.226

3.397

- Tiền gửi TCTD 205


44

266

- Tiền gửi TCKT 328

318

62

- Tiền gửi TK 1.564

1.864

3.069

2. S
ử dụng vốn.




-

Doanh s
ố cho vay

7.370


21.893

16.751

T. đó : - DN nhà nước 5.760

19.095

15.899

- KT ngoài QD 1.610

2.798

852

-

Doan
h s
ố thu nợ

3.526

16.916

20.489

T. đó : - DN nhà nước 1.569


13.541

19.485

- KT ngoài QD 1.957

3.375

1.004

-

Dư n


9.319

14.296

10.558

T. đó : - DN nhà nước 7.116

12.669

9.084

- KT ngoài QD 2.023

1.627


1.474

3. Cho vay h
ộ nghè
o




- Doanh số cho vay 806

1.740

453

- Doanh số thu nợ 108

348

597

- Dư nợ 1.418

2.788

2.647

4. Kết quả kinh doanh




- Tổng thu 1.094

2.091

1.583

- Tổng chi 1.650

1.801

1.171

- Chênh lệch Thu - Chi (+) 245

290

412

(Theo báo cáo tín dụng năm 1998 - 1999 - 9/2000 )



2.2.1. Công tác huy động vốn
Qua số liệu biểu 1 cho thấy nguồn vốn huy động qua các năm đều tăng năm
1999 so với năm 1998 tăng 129 triệu, đến 30/9/2000 so với năm 1999 tăng 1.171 triệu,
trong tổng nguồn vốn huy động thì nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn nhất,
năm 1999 TG tiết kiệm chiếm tới 83,7%, năm 2000 chiếm tới 90,4%, tuy nhiên nguồn
vốn tự huy động chỉ đáp ứng được gần 20% nhu cầu sử dụng vốn.

2.2.2. Công tác sử dụng vốn.
Cùng với việc đẩy mạnh công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn đầu tư tín
dụng cũng được đặc biệt quan tâm, nó là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động kinh doanh
bởi các khoản thu lãi cho vay ở đây chiếm gần 100% tổng thu, cho nên nếu không coi
trọng công tác này sẽ ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh của đơn vị. Vì vậy NHNo
Phục Hoà đã và đang thực hiện việc đẩy mạnh cho vay, quản lý tốt dư nợ, làm tốt công
tác tín dụng.
- Doanh số cho vay năm 1999 tăng 14.253 triệu đồng, doanh số cho vay tăng
chủ yếu ở doanh nghiệp Nhà nước (tăng 13.335 triệu đồng), còn kinh tế ngoài quốc
doanh tăng không đáng kể chỉ tăng 939 triệu đồng, đến 30/9/2000 doanh số cho vay
đạt 16.751 triệu đồng, đạt 76,5% so với doanh số cho vay năm 1999.
- Doanh số thu nợ: thu nợ năm 1999 tăng 13.390 triệu đồng, đặc biệt đến
30/9/2000 doanh số thu nợ đạt 20.489 triệu đồng tăng so với năm trước 3.573 triệu
đồng với tỷ lệ tăng là 21%.
- Dư nợ năm 1999 tăng hơn so với năm trước nhưng đến 30/9/2000 chỉ đạt
10.558 triệu đồng, giảm so với năm 1999 là 3.738 triệu đồng, dư nợ giảm là do các
nguyên nhân sau: đối với doanh nghiệp nhà nước dư nợ giảm là do hoạt động kinh
doanh theo thời vụ, nhu cầu vay vốn chỉ tăng vào những tháng cuối năm và đầu năm.
Còn đối với kinh tế ngoài quốc doanh thì 100% vay vốn là các hộ SXKD nhỏ mà hiện
nay Ngân hàng phục vụ Người nghèo đang đẩy mạnh cho vay nên một bộ phận không
nhỏ khách hàng là các hộ nghèo trước đây vay vốn NHNo đã trả nợ và chuyển sang



vay vốn từ Ngân hàng phục vụ người nghèo, làm cho doanh số cho vay và dư nợ của
kinh tế ngoài quốc doanh giảm đáng kể so với những năm trước.
Ngoài nhiệm vụ cho vay thu nợ của mình NHNo Phục Hoà còn nhận làm dịch
vụ tổ chức cho vay hộ nghèo cho NH phục vụ người nghèo. Công tác này được thực
hiện từ khâu thành lập các tổ vay vốn hộ nghèo cho đến việc thẩm định trước khi cho
vay, giải ngân đến tận tay các hộ nghèo thiếu vốn sản xuất, kiểm tra việc sử dụng vốn

sau khi cho vay và tổ chức thu nợ, thu lãi khi đến hạn, thực hiện tốt công tác này
NHNo Phục Hoà đã thu được một khoản phí dịch vụ đáng kể làm tăng thêm kết quả
hoạt động kinh doanh của mình.
- Doanh số cho vay hộ nghèo năm 1999 tăng hơn năm trước là 934 triệu đồng,
với tỷ lệ tăng là 115 %, số hộ được vay trong năm 1999 cũng tăng cao hơn so với năm
trước là 195 hộ, tỷ lệ tăng là 46 %. đến 30/9/2000 doanh số cho vay được 453 triệu
đồng, chỉ đạt 26 % so với doanh số cho vay năm trước.
- Công tác thu nợ: doanh số thu nợ năm 1999 so với năm trước tăng 240 triệu
đồng, đến 30/9/2000 doanh số thu nợ đạt 597 triệu đồng tăng so với năm trước là 249
triệu đồng với tỷ lệ tăng là 71%.
- Dư nợ năm 1999 tăng hơn so với năm 1998 là 1.370 triệu đồng, với tỷ lệ tăng
hơn năm trước là 96%. Đến 30/9/2000 dư nợ đạt 2.647 triệu đồng, so với năm trước
chỉ đạt 95%.
2.2.3. Công tác kế toán - Ngân quỹ.
* Công tác kế toán.
Với nhiệm vụ thực hiện hạch toán, phản ánh đầy đủ, kịp thời các nghiệp vụ kinh
tế phát sinh, tham gia trực tiếp vào công tác huy động vốn, kế toán cho vay vốn. Mạng
lưới phục vụ đã được tổ chức tốt và thực hiện chuyển tiền nhanh qua mạng máy vi
tính, đưa giao dịch trực tiếp với khách hàng qua mạng máy tính cho nên dịch vụ
chuyển tiền được thực hiện nhanh, chính xác, công tác huy động vốn cũng được thực
hiện tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến gửi, rút tiền với phương châm vui
lòng khách đến vừa lòng khách đi cho nên trong những năm qua nguồn vốn huy động



đã không ngừng được tăng trưởng và đã tạo được lòng tin đối với khách hàng, số
lượng khách có quan hệ giao dịch với đơn vị ngày càng gia tăng, làm cho lượng chứng
từ giao dịch bằng tiền mặt cũng gia tăng.
* Công tác ngân quỹ:
Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ an toàn kho quỹ, chế độ thu, chi tiền tiền mặt

của Ngân hàng Nhà nước và NHNo, công tác thu chi tiền mặt đáp ứng được nhu cầu
giao dịch của khách hàng, trong quá trình thu, chi tiền cho khách hàng đã tạo được uy
tín đối với khách hàng do đó đã góp phần khơi tăng thêm nguồn vốn huy động từ tiền
gửi tiết kiệm.
2.2.4. Kết quả hoạt động kinh doanh
Qua số liệu biểu 1 cho thấy kết quả kinh doanh năm 1999 tăng hơn năm trước là
1.285 triệu đồng, 9 tháng đầu năm 2000 thực hiện được 1.137 triệu đồng, đạt 69% so
với năm 1999. điều đó cho thấy đơn vị đã có nhiều cố gắng thực hiện nhiệm vụ kinh
doanh của mình, cho nên năm 1999 và 9 tháng đầu năm 2000 không những tổng thu đủ
bù đắp chi phí mà còn đảm bảo quỹ lương cho đơn vị, giúp cho CBCNV làm việc tự
tin hơn, tăng được uy tín của đơn vị đối với khách hàng và Ngân hàng cấp trên, tạo đà
cho việc hoàn thành nhiệm vụ năm 2000.



II. Thực trạng về cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại NHNo & PTNT
Phục Hoà.
1. Cơ chế tín dụng
Việc cho vay đối với tất cả các tổ chức kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc
doanh nói riêng đều phải được thực hiện theo những nguyên tắc và điều kiện cho vay
nhất định:
1.1. Nguyên tắc cho vay:
Nguyên tắc 1 : Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả kinh
tế:nguyên tắc này đặt ra nhằm đảm bảo cho việc thực hiện sử dụng tiền vay đúng mục
đích đã đề ra ,khoản tiền mà NH cho vay ra phải có mục đích cụ thể gắn liền với
phương án,dự án sản xuất kinh doanh đã đề ra, người vay không được sử dụng vốn vay
cho những mục đích khác.
Nguyên tắc 2 : tiền vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn. Nguyên
tắc này bắt nguồn từ bản chất của tín dụng. Tín dụng chỉ giao quyền sử dụng vốn trong
một thời gian nhất định. Nguồn vốn Ngân hàng để cho vay chính là nguồn vốn tạm

thời nhàn rỗi mà Ngân hàng huy động được, hoạt động của Ngân hàng là “đi vay để
cho vay”, do đó tính hoàn trả của tín dụng đảm bảo cho sự tồn tại của Ngân hàng, các
khoản tín dụng phát ra phải được thu hồi đúng thời hạn cam kết để đảm bảo cho Ngân
hàng có khả năng thanh toán cho những khoản tiền gửi của khách hàng khi đến hạn
thanh toán.
Nguyên tắc 3 : Việc đảm bảo tiền vay phải được thực hiện theo quy định của
Chính phủ và của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Nguyên tắc này được thực hiện sẽ
đảm bảo an toàn cho những khoản tiền vay của Ngân hàng, lời hứa trả nợ của khách
hàng không có gì đảm bảo một cách chắc chắn 100% là họ trả nợ đúng hạn, vì việc
kinh doanh của khách hàng có thể gặp bất trắc và họ sẽ không trả được nợ cho Ngân
hàng, khi đó Ngân hàng sẽ gặp rủi ro, khi Ngân hàng gặp rủi ro, Ngân hàng có thể bị
thiệt hại về thu nhập, mất uy tín với khách hàng hoặc có thể bị phá sản. Do đó để hạn



chế rủi ro từ phía khách hàng có thể gây ra, Ngân hàng phải thực hiện tốt việc đảm bảo
tiền vay theo quy định.
1.2. Điều kiện cho vay:
Điều kiện 1 : Người vay vốn phải có đầy đủ tư cách pháp nhân, có năng lực
pháp luật, năng lực hành vi dân sự và phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình theo
quy định của pháp luật.
Điều kiện 2 : Người vay vốn phải có khả năng tài chính, đảm bảo khả năng trả
nợ trong thời hạn đã cam kết.
Điều kiện 3 : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Điều kiện 4 : Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh có tính khả
thi, có hiệu quả kinh tế, cung cấp đầy đủ kịp thời cho Ngân hàng các báo cáo theo yêu
cầu.
Điều kiện 5 : Thực hiện các quy định về bảo đảm quyền vay theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
1.3. Hồ sơ cho vay :

1.3.1. Hồ sơ xin vay đối với hộ cá thể kinh doanh.
- Giấy đề nghị vay vốn
- Phương án, dự án sản xuất kinh doanh.
- Giấy phép đăng ký kinh doanh (nếu là hộ kinh doanh).
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu là hộ sản xuất).
- Các giấy tờ khác liên quan đến đảm bảo tiền vay.
1.3.2. Hồ sơ vay vốn đối với Công ty, doanh nghiệp, Hợp tác xã v.v ngoài
quốc doanh:
Khi có nhu cầu vay vốn Ngân hàng, khách hàng phải gửi tới Ngân hàng hồ sơ
xin vay vốn, bao gồm :



- Giấy đề nghị vay vốn.
- Các tài liệu thuyết minh cho việc vay vốn.
+ Kế hoạch sản xuất kinh doanh, hợp đồng mua bán vật tư hàng hoá.
+ Bảng tính toán hiệu quả kinh tế dự án sản xuất kinh doanh.
- Các tài liệu liên quan đến thuyết minh tình hình tài chính.
+ Bảng tổng kết tài sản năm trước, quý trước.
+ Báo cáo tình hình tài chính đến ngày gần nhất.
- Các tài liệu liên quan đến đảm bảo tín dụng.
+ Bảng kê những tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.
+ Những giấy tờ xác nhận về quyền sở hữu tài sản thế chấp cầm cố, bảo
lãnh.
- Các tài liệu văn bản pháp lý:
+ Quyết định thành lập doanh nghiệp, Công ty do cơ quan có thẩm quyền
cấp.
+ Giấy chứng minh quyền điều hành hợp pháp doanh nghiệp, công ty.v.v
2. Thực trạng công tác cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại NHNo & PTNT
Phục Hoà.

Với đặc điểm hoạt động trên địa bàn là miền núi, kinh tế xã hội kém phát triển
cho nên thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ở đây chủ yếu là các hộ sản xuất kinh
doanh còn các thành phần kinh tế khác như hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân. v.v
không có trên địa bàn, mặt khác hộ SXKD ở đây chủ yếu là SXKD nhỏ lẻ cho nên việc
cho vay kinh tế ngoài quốc doanh ở đây còn nhiều hạn chế, dư nợ cho vay chiếm tỷ
trọng rất thấp trong tổng dư nợ cho vay. Việc cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tại
NHNo Phục Hoà được thực hiện đúng theo các nguyên tắc cho vay, các quy định về
cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:về công tác thẩm định tư



cách khách hàng, khả năng tài chính, thực hiện đảm bảo tiền vay theo đúng quy định
của Nhà nước.



Biểu 2 :
Dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh :
ĐV: triệu VNĐ
TT Khoản mục Năm 1998 Năm 1999 30/9/2000
1 Dư nợ DNNQD 0

0

0

2 Dư nợ HTX 0

0


0

3 Dư nợ hộ SXKD 2. 023

1. 627

1. 474

T. đó : Nợ quá hạn 467

96

112

(Theo báo cáo tín dụng năm 1998-1999-9/2000)
Qua số liệu biểu 2 cho thấy: Dư nợ cho vay kinh tế ngoài quốc doanh rất thấp,
dư nợ năm sau lại giảm hơn năm trước, năm 1999 giảm so với năm 1998 là 396 triệu
đồng, đến cuối quý III/2000 dư nợ chỉ đạt 90% so với năm 1999, nợ quá hạn đến
30/9/2000 chiếm tới 8%. từ những kết quả trên cho thấy đầu tư vào khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh ở các tỉnh miền núi còn gặp rất nhiều khó khăn, và qua bảng số liệu
trên thì dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh ở đây 100% là dư nợ của cá nhân, hộ sản xuất
kinh doanh. còn về quan hệ tín dụng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công ty, hợp
tác xã đối với NHNo Phục Hoà không có món vay nào bởi các tổ chức kinh tế này
không có trên địa bàn.
Biểu 3 :
Dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh phân theo thời hạn cho vay:
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998 Năm1999 9/2000
Số

Tiền
T. trọng
(%)
Số tiền
T. trọng
(%)
Số tiền
T. trọng
(%)
I - Tổng dư nợ 2.023

100

1.627

100

1.474

100

1/DN ngắn hạn 1.447

72

924

57

544


40

2/DN trung hạn 576

28

703

43

930

60

(Theo báo cáo tín dụng năm 1998 - 1999 - 9/2000)



Qua số liệu biểu 3 cho thấy: Tỷ trọng dư nợ trung dài hạn của khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh qua các thời kỳ đều có sự tăng trưởng, năm 1998 dư nợ là 576 triệu
đồng, năm 1999 là 703 triệu đồng, đến 30/9/2000 là 930 triệu đồng chiếm tới 60%
trong tổng dư nợ, dư nợ ngắn hạn năm 1999 so với năm trước giảm 523 triệu đồng, đến
9/2000 dư nợ ngắn hạn là 544 triệu đồng so với năm 1999 giảm 380 triệu đồng và
chiếm 40 % trong tổng dư nợ, dư nợ ngắn hạn giảm là do một số khách hàng trước đây
vay NHNo là những hộ nghèo nên khi Ngân hàng phục vụ người nghèo đẩy mạnh cho
vay thì họ đã chuyển sang vay tại Ngân hàng phục vụ người nghèo làm cho dư nợ
Ngân hàng nông nghiệp giảm đáng kể, chỉ đạt 91% so với dư nợ năm 1999.
Biểu 4 :
Tình hình nợ quá hạn của kinh tế ngoài quốc doanh:

Đơn vị : Triệu đồng
TT Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 30/9/2000
1 Tổng dư nợ 2.023

1.627

1.474

2 Nợ quá hạn 468

96

112

3 NQH/ Tổng dư nợ 23%

6%

8%

(Theo báo cáo tín dụng năm 1998,1999, 9/2000)
Qua số liệu biểu 4 cho thấy: Nợ quá hạn năm 1999 của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh giảm đáng kể so với năm 1998 là 372 triệu đồng, nhưng thực tế nợ quá hạn
giảm là do được sử lý nợ theo văn bản số 238 và văn bản số 140 của NHNo Việt nam,
còn lại thực thu chỉ được 96 triệu đồng, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn cuối năm 1999 vẫn còn
chiếm tới 6% trên tổng dư nợ. Nợ quá hạn đến 9/2000 lại là 112 triệu đồng, so với tổng
dư nợ thì chiếm tới 8%, so với tỷ lệ nợ quá hạn năm trước lại tăng 2%, qua đó cho thấy
chất lượng tín dụng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn rất thấp.

×