TIỂU LUẬN:
Nguồn nhân lực công nghiệp phục
vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Lời mở đầu
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chúng ta cần rất
nhiều các loại nguồn lực. Và một trong những ngồn lưc quan trọng nhất giúp quá
trình CNH,HĐH diễn ra nhanh và thành công đó là nguồn nhân lực. Nước ta thực
hiện CNH,HĐH trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra nhanh thì nguồn nhân lực có tri
thức luôn là dòi hỏi khách quan.
Nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nhanh theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Để tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có hai yếu tố cơ bản gắn bó với
nhau, đó là kĩ thuật hiện đại và con người hiện đại.Vì thế phải đổi mới toàn diện con
người, kỹ thuật- công nghệ hiện đại. Việc đổi mới kỹ thuật công nghệ diễn ra tương
đối dễ dàng hơn khi chúng ta tạo được nguồn vốn (kể cả đi vay) và dùng vốn đó để
nhập khẩu kỹ thuật công nghệ(KT-CN) hiện đại từ các nước tiên tiến.Đối với người
lao động không thể nhập khẩu được.Muốn có sự tương thức,đồng bộ giữa KT-CN
và con người đòi hỏi không chỉ số lượng và không phải chủ yếu ở số lượng mà ở
chất lượng con người sử dụng phương tiện KT-CN đó .Vì vậy nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực hay đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những yêu
cầu cấp bách để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Chính vì vậy vấn đề đặt ra
đối với mỗi quốc gia là phải thường xuyên chăm lo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội.
Vì vậy việc chọn đề tài: “Nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ được nguồn nhân lực hiện tại để có
hướng phát triển đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH của Đảng , Nhà
nước và toàn dân ta.
Mục đích nghiên cứu là làm rõ thực trạng chất lượng nguồn nhân lực hiện
nay và đưa ra những quan điểm và biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn thể những người lao động hoạt động
trong tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế đặc biệt là nguồn lao động có trình độ
cao. Bởi đây là nguồn lao động quan trọng nhất đối với sự nghiệp CNH,HĐH của
đất nước.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp để từ đó rút ra nhưng nhận định, nhận xét đúng
đắn về tình hình nguồn nhân lực.
Phần thứ nhất: Nguồn nhân lực.
I.Các khái niệm về nguồn nhân lực.
1. Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, nó bao
gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết hoặc
dị tật bẩm sinh).
Nguồn nhân lực có thể với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã
hội ,là khả năng lao động của xã hội , được hiểu theo nghĩa hẹp hơn ,bao gồm những
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động ,có khả năng lao động.
Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con
người cụ thể tham gia vào quá trình lao động,là tổng thể các yếu tố về thể chất và
tinh thần được huy động vào quá trình lao động.Với cách hiểu này, nguồn nhân lực
bao gồm những nguời từ bắt đầu bước vào tuổi lao động trở lên có tham gia vào nền
sản xuất xã hội.
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định qui mô nguồn nhân
lực.Nguồn nhân lực còn được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng.Số lượng
được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ
tiêu về số lượng này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng dân số.
Qui mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến qui mô và tốc độ
tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại.Tuy nhiên mối quan hệ dân số và nguồn
nhân lực được biểu hiện sau một thời gian khoảng 15 năm(vì lúc đó con người mới
bước vào độ tuổi lao động).
2.Nguồn nhân lực công nghiệp.
Nguồn nhân lực công nghiệp có thể hiểu là những người đang làm việc,
đang hoạt động trong những nghành công nghiệp.
Đối với Việt Nam mục tiêu tới năm 2020 hoàn thành công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thì nguồn lực công nghiệp được quan tâm hàng đầu. Chúng ta tập
chung mọi nguồn lực cho phát triển các nghành công nghiệp hàng đầu cũng như các
nghành công nghiệp nặng. Việc đầu tư cơ sở vật chất cho CNH,HĐH đất nước phải
song song với việc đầu tư cho nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp. Với sự phát
triển mạnh của các nghành công nghiệp thì ngày càng thu hút nhiều lao động hoạt
động trong lĩnh vực này, tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp ngày càng
tăng cao. Tuy nhiên nguồn nhân lực của chúng ta trình độ vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu của công cuộc CNH,HĐH. Muốn CNH,HĐH thành công thì nguồn nhân lực
trong các nghành công nghiệp không những đông về số lượng mà phải có chất
lượng cao.
II. Thực trạng và vai trò nguồn nhân lực của Việt Nam. 1.Thực trạng của
nguồn nhân lực Việt Nam.
a. Quy mô nguồn nhân lực Việt Nam.
Việt Nam là một trong những nước đông dân số với quy mô dân số
đứng thứ hai Đông nam á và thứ mười ba trên thế giới. Một đất nước với cơ cấu dân
số trẻ với số người trong độ tuổi 16-34 chiếm 60% trong tổng số 35,9 triệu người lao
động: nguần bổ sung hàng năm là 3%-tức khoảng 1,24 triệu người. Theo tổng điều
tra dân số ngày 1-4-1999, quy mô dân số nước ta là 76,3 triệu người và dự tính đến
năm 2010 quy mô dân số nước ta vào khoảng 95 triệuvà số người trong tuổi lao
động gần 58 triệu, chiếm 60,7% dân số. Dự báo thời kỳ 2001 đến 2010 cần tạo thêm
chỗ làm việc mới cho khoảng 11-12 triệu lao động (chưa kể số lao đông tồn động
các năm chuyển sang), bình quân mỗi năm phải tạo thêm 1,1 đến 1,2 triệu chỗ làm
việc mới. Tính đến 1/7/2000, tổng lực lượng lao động cả nước có 38.643.089 người,
so với kết quả điều tra tại thời điểm 1/7/1996 tăng bình quân hàng năm là 975.645
người, với tốc độ tăng 2,7% một năm, trong khi tốc độ tăng bình quân hàng năm của
thời kỳ này là 1,5% một năm.
So với các nước trong khu vực, quy mô dân số Việt Nam cùng với Philippin
và Thái Lan ở vào khoảng trung bình. Nhưng nếu so sánh với thế giới thì về quy mô
dân số, Việt Nam đứng thứ 13, còn trong ASEAN, Việt Nam xếp thứ hai, chỉ sau
Inđônêxia. điều đó được thể hiện qua bảng sau:
Một số chỉ tiêu về dân số và lao động của các nước ASEAN
Nước
Dânsố
1994
(Triệu
người)
Tỷ lệ tăng dân số(%)
Lực lượng lao động
1960-1992 1992-2000
1994
(triệu
người)
% tăng
giai đoạn
90-94
%
trong
dân
số
Brunây 0,284 3,8 2,1 0,112
Inđônêxia 192,2 2,2 1,7 81,2 1,1 43
Malaixia 19,5 2,6 2,1 7,85 2,8 38
Philippin 68,6 2,7 2,0 27,48 3,0 56
Thái Lan 59,4 2,4 1,1 32,84 1,1 56
Việt Nam 72,5 2,2 2,1 33,7 2,8 49
Xingapo 2,93 1,7 1,7 1,69 2,9 56
Nguồn: - Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con người,Nxb Thống kê, Hà Nội,
1995.
Xem bảng trên ta thấy dân số trong toàn khối giai đoạn 1960-1992 còn khá cao,
trừ Xingapo có tỷ lệ là 1,7% và trải qua thời kỳ chuyển tiếp dân số. Trong giai
đoạn 1992-2000, có thêm Inđônêxia và Thái Lan giảm được tỷ lệ tăng dân số.
Riêng Việt Nam luôn nằm ở nhóm có tỷ lệ gia tăng dân số cao trong khu vực:
2,2% trong giai đoạn 1992-2000. điều này dẫn đến sự gia tăng lực lượng lao
động trong những năm 90 còn cao ở phần lớn các nước trong khối: Malaixia là
2,8%; Philippin là 3%; Việt Nam là 2,8%; Xingapo là 2,9%. Với tốc độ tăng dân
số nhanh và còn được duy trì như vậy, tỷ lệ gia tăng lực lượng lao động của Việt
Nam trong cả giai đoạn 1960-1992 và tiếp theo cho đến nay là điều khó tránh
khỏi. Năm 1986, Việt Nam mới có 30,3 triệu người trong độ tuổi lao động thì
đến năm 1995 đã tăng đến 40,2 triệu người, bình quân mỗi năm tăng khoảng một
triệu người, tức là khoảng 3,22%. Ngoài ra còn phải kể đến số người ngoài độ
tuỏi lao động nhưng thực tế có làm việc cũng tăng lên, tạo thành một nguần cung
cấp về lao động khá dồi dào: cuối năm 1995 có 3,7 triệu người, trong đó có 1,3-
1,4 triệu trẻ em (nguần: kim Ngọc Cương, ''phân tích và dự báo thị trường lao
động ở nước ta'', Bộ kế hoạch và đầu tư, tạp chí kinh tế và dự báo, số 5/1997,
tr.19).
Đối với Việt Nam, ngoài hai yếu tố về số người trong và ngoài độ tuổi lao
động kể trên, còn có thể tính đến một số yếu tố mang tính chất biến động cơ học làm
tăng nguần lao động của Việt Nam hiện nay như: số bộ đội giải ngũ; số lao động đi
làm ở các nước Đông Âu, Trung Đông trở về; số người tỵ nạn ở Thái Lan, Hồng
Kông, Malaixia, Việt kiều ở Campuchia hồi hương…
Như vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và thường xuyên được bổ
sung bằng đội ngũ lao động trẻ, hùng hâụ, tạo nên một trong những ưu thế cho Việt
Nam trong việc tham gia và hoà nhập vào nền kinh tế khu vực va thế giới.
b. Quy mô nguồn nhân lực qua đào tạo cuả Việt Nam và việc sử dụng nguồn
nhân lực này.
Việt Nam tuy có lực lượng lao động dồi dào nhưng lực lượng lao động đã qua
đào tạo thực tế lại thiếu. đó là mâu thuẫn về quy mô của nguồn nhân lực nước ta,
chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực.
Hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước thuộc
các bộ, các ngành ở các cơ quan trung ương có 129763 người, trong đó có 74%
công chức có trình độ từ đại học trở lên.
Khi nói đến nguồn nhân lực của một quốc gia thường người ta hay quan tâm đến
số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo hàng năm ở các trường trung học
chuyên nghiệp, trường công nhân kỹ thuật, các trường đại học, cao đẳng trong
quốc gia đó. Bởi đó là con số nói lên số lao động được đào tạo hàng năm và chất
lượng nguồn nhân lực của quốc gia. ở Việt Nam, số học sinh và sinh viên thuộc
các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học trong cả nước
từ năm 1992 đến năm 1997 (chỉ tính học sinh, sinh viên hệ chính quy) như sau:
Đơn vị tính: 1.000 người
Năm 199
2
199
3
199
4
199
5
199
6
19
97
Trung học chuyên
nghiệp
107
,8
119
,0
155
,6
170
,5
172
,4
16
4,1
Số tốt nghiệp 43,
5
44,
9
49,
0
56,
3
59,
3
68,
3
Công nhân kỹ thuật 57,
6
68,
7
74,
7
58,
7
69,
9
10
2,5
Số tốt nghiệp 35,
2
38,
0
64,
9
66,
4
75,
1
70,
6
Cao đẳng, đại học 136
,8
157
,1
203
,3
297
,9
509
,3
66
2,8
Số tốt nghiệp 24,
8
29,
1
36,
9
58,
5
78,
5
74,
1
Nguồn: niên giám thống kê 1998-Nxb Thống kê, 1999, tr342, 345 &349
Theo bảng trên ta thấy, cơ cấu đào tạo ở các cấp bậc rất khác nhau, số sinh
viên cao đẳng,đại học tăng nhanh trong những năm gần đây, trong khi đó số học
sinh trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật tăng rất chậm và biến đổi
bất thường khi lên khi xuống nhất là số công nhân kỹ thuật. Nếu năm 1994 các
trường công nhân kỹ thuật có 74.700 học sinh, thì năm 1995 còn 58.700 học sinh
, song đến năm 1997 lại tăng lên 102.500 học sinh. Chính điều đó tạo nên sự
thiếu hụt lớn số công nhân kỹ thuật và cán bộ có trình độ trung cấp, và ngược lại
dẫn tới sự lãng phí chất xám, bởi sẽ có những sinh viên có trình độ cao đẳng
hoặc đại học đảm nhận những công việc của công nhân kỹ thuật hoặc trung cấp.
Hiện nay số sinh viên đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm 2000 số
sinh viên cao đẳng, đại học là gần 1 triệu bằng 1,8 lần năm 1995, vượt dự kiến kế
hoạch 5 năm (1996-2000) là 13% (Lê Quang Trung: biện pháp cho vấn đề lao
động thất nghiệp ở thành thị-Vụ chính sách lao động và việc làm) và năm học
2001-2002 tổng chỉ tiêu cho các trường cao đẳng, đại học tăng 5% tức khoảng
160.000 sinh viên, tăng 10.000 sinh viên so với năm trước.
Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật,
cao đẳng và đại học năm 1992 là 103.500 người, thì đến năm 1996 là 212.900
người và năm 1997 là 213.000 người bổ sung cho nguồn nhân lực của đất nước . Tỷ lệ lao động
được đào tạo trong tổng lực lượng lao động xã hội tăng lên hằng năm được thể
hiện qua bảng sau:
Năm Tỷ lệ lao động được đào tạo/tổng lực lượng lao động xã hội(%)
1988 9,45
1992 11
1995 13,8
1997 16
Nguồn: dự thảo Nghị quyết Trung ương 4 khoá 8-Bộ chính trị.
Tính đến năm 1998, số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học là trên
930.000 người, trong đó khoảng trên 10.000 người là cán bộ có trình độ trên đại
học. đội ngũ này chiếm 2,3% lực lượng lao động xã hội. Số sinh viên tốt nghiệp
đại học hàng năm khoảng 25.000 người có học vị trên đại học bổ xung vào
nguồn nhân lực chất lượng câo. Hàng năm ở Việt Nam tỷ lệ cán bộ có trình độ
cao đẳng, đại học trên 1000 dân đang tăng lên:
Năm Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân
1994 9
1996 11
1997 12
Trong khi đó ở các nước khác là:
Nước Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân
Hàn quốc 52
Singapo 16
Italia 21
Nhật bản 70
Nguồn:Võ Đại Lược-CNH, HĐH ở Việt Nam đến năm 2000. Nxb KHXH,Hà Nội.
So sánh các số liệu trên ta thấy giữa số lượng nguồn nhân lực được đào
tạo ở Việt Nam so với các nước khác vẫn đang còn khoảng cách khá xa, chứ
chưa nói đến nguồn nhân lực có chất lượng cao. Mặt khác cơ cấu đào tạo nguồn
nhân lực cũng chưa phù hợp, thể hiện ở cỗ một số ngành được đào tạo ồ ạt như
ngành kinh tế, luật trong khi đó các ngành kỹ thuật, công nghệ tin học, khoa học
cơ bản chưa được coi trọng đúng mức.
Do đó, xét cả những điều kiện kinh tế-xã hội lẫn những điều kiện về nguồn nhân lực
cho thấy chúng ta chưa đủ điều kiện để xây dựng nền kinh tế tri thức, mà chỉ tiếp
cận nó trên một số lĩnh vực chúng ta có khả năng.
2.Chất lượng nguồn nhân lực .
Nếu như trong các thập niên trước đây, nhân công nhiều và rẻ được coi như thế
mạnh hàng đầu khi xem xét các lợi thế về nguồn nhân lực thì trong những năm
gần đây, yếu tố chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nhấn mạnh. Các yếu
tố được xem xét trước hết là thể chất, thể lực, năng lực của nguồn nhân lực.
a. Về trí lực và thể lực.
Người Việt Nam có truyền thống cần cù, thông minh, ham học hỏi, cầu tiến bộ,
có ý chí và tinh thần tự lực tự cường dân tộc phát triển khá về thể lực, trí lực, có
tính cơ động cao có thể tiếp thu nhanh kiến thức khoa học công nghệ tiên tiến,
hiện đại. Có thể nói đây là một trong số các lợi thế so sánh cuẩ ta trong quá trình hội nhập.
Bảng: một số chỉ tiêu về sức khoẻ, y tế của các nước ASEAN.
Chỉ tiêu
Thời
gian
Vi
ệt
N
a
m
Br
un
ây
Inđ
ônê
xia
M
al
ai
xi
a
Ph
ili
pp
in
Thá
i
Lan
Xin
gap
o
Tuổi thọ bình
quân
1992
63
,4
74
62
70
,4
64
,4
68,
7
74,2
Cung cấp calo
bình quân/người
1988
-
1990
22
20
28
60
261
0
26
70
23
40
228
0
321
0
Tỷ lệ cung cấp
calo /người so với
nhu cầu tối
thiểu(%)
1988
-
1990
10
2
- 112
12
4
10
8
100
144
Tỷ lệ được dịch vụ
y tế (%)
1985
-
1991
90
96
80 90
75
70 100
Tỷ lê được dùng
nước sạch (%)
1988
-
1991
27
95
51 72
82
76 100
Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người. Nxb Thống Kê, Hà Nội, 1995.
Bảng: Qua bảng trên ta thấy: các chỉ số của Việt Nam luôn luôn ở mức thấp, có
những chỉ số ở mức thấp nhất trong khu vực. Những chỉ tiêu liên quan và ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất, thể lực của người lao động Việt Nam
tất thấp: cung cấp calo bình quân đầu người chỉ có 2220 calo, thấp nhất trong
khu vực. Về tỷ lệ cung cấp calo bình quân đầu người so với nhu cầu tối thiểu,
Việt Nam, chỉ cao hơn Thái Lan 100%, kém Inđônêxia 122%, Xingapo 144%,
Philippin 108%, Malaixia 124%. Một loạt các chỉ tiêu khác liên quan đến y tế,
chăm sóc sức khoẻ của Việt Nam cũng còn ở mức thấp. điều đó lý giải phần nào
sự hạn chế về mặt thể lực của nguồn nhân lực của Việt Nam. Cho đến nay, thể
lực của người lao động Việt Nam còn chưa đáp ứng được những yêu cầu của nền
sản xuất công nghiệp lớn và ở đây đã bộc lộ một trong những yếu điểm cơ bản
của nguồn nhân lực Việt Nam.
Tương quan so sánh về trình độ giáo dục của lực lượng lao động cuả Việt Nam
với các nước ASEAN có thể hình dung được qua các số liệu trong bảng sau:
Một số chỉ tiêu về giáo dục của các nước ASEAN.
Chỉ tiêu
Thời
gian
Vi
ệt
N
a
m
Br
un
ây
Inđ
ônê
xia
M
al
ai
xi
a
Ph
ili
pp
in
Thá
i
Lan
Xi
ng
ap
o
Đại học và sau
trung học
(*)
5,
1
- - 5 - - 22
Trung học
(*)
8,
8
- - 48
- - 30
Tiểu học và thấp
hơn
(*)
85
,1
- - 47
- - 47
Tỷ lệ người biét
chữ từ 15 tuổi
trở lên(%)
1992
89
- 84 80
90
94 -
Số năm đi học
tính cho người từ
25 tuổi trở
lên(năm)
1992
4,
9
5,
0
4,1 5,
6
7,
6
3,9 4,
0
Số cán bộ khoa
học kỹ thuật trên
1000 người
1986
-
1991
- 21
,7
12,
1
- - 1,2 22
,9
Tỷ lệ chi cho
giáo dục trong
GNP(%)
1991
1,
6
- 2,5 6,
9
2,
9
3,8 3,
4
GNP bình quân
đầu người cho
giáo dục($ Mỹ)
1991
4 - 21,
9
51
0,
6
21
,4
6
62,
7
48
0,
8
(*) Trình độ giáo dục cuả dân số trong độ tuổi lao đ
ộng (%).
Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995.
Như vậy, bên cạnh một vài chỉ tiêu đáng mừng như tỷ lệ người biết chữ từ 15
tuổi trở lên đạt được 89% năm 1992, tăng 6% so với năm 11989, thực trạng trình
độ nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều vấn đề đáng lo ngại: số người mù chữ từ
15 tuổi trở lên còn 4,7 triệu năm 1992; trong toàn bộ dân số ở độ tuổi lao động,
chỉ có 5,1% là có trình độ đại học và sau trung học, 8,8% có trình độ trung học;
trong tổng số lực lượng lao động, số lao động kỹ thuật chỉ chiếm có 12%: năm
1995, trong số 40,2 tiệu người chỉ có 4,7 triệu người là lao động có kỹ thuật. Một
mặt, Việt Nam đã có những cố gắng không thể không ghi nhân trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo nói chung, chất lượng nguồn nhân lực nói riêng
như: số học sinh cao đẳng và đại học đã tăng từ 129.600 người năm 1990 lên
279900 người năm 1995, tức là tăng gần 2,3 lần trong 5 năm; số tốt nghiệp đại
học từ 20.500 năm1990 tăng lên 58.500 năm 1995; số học sinh trung học chuyên
nghiệp từ 135.400 năm 1990 lên 197.500 năm 1995, số tốt nghiệp trung học
chuyên nghiệp từ 39.900 năm 1990 lên 56.300 năm 1995. Chưa kể đến tỷ lệ chi
cho giáo dục trong GDP đã tăng nhanh từ 1,6% năm 1991 lên 2,75% năm 1993,
gần 6% năm 1994. Nhưng để đạt được mức độ chung như các nước khác ngay
trong khối ASEAN, rõ ràng chúng ta còn phải đầu tư nhiều thời gian và công
sức, tiền của cho công tác giáo dục đào tạo để biến những tiềm năng của nguồn
nhân lực Việt Nam thành hiện thực.
b. Khả năng tư duy của lao động nước ta.
Nguồn nhân lực Việt Nam với xuất phát điểm thấp, trước yêu cầu lớn của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế tỏ ra bất cập. Từ nền
kinh tế nông nghiệp, phong cách, tư duy con người Việt Nam còn mang nặng
tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu. Sản xuất và quản lý bằng kinh nghiệm
theo kiểu trực giác, lấy thâm niên công tác, cụ thế nghề nghiệp và lòng trung
thành để đánh giá kết quả lao động và phân chia thu nhập. Lao động chưa được
đào tạo và rèn luyện trong môi trường sản xuất công nghiệp nên hiệu suất lao
động chưa được đề cao và đánh giá đúng mức. Khi tiến bộ khoa học-kỹ thuật và
công nghệ hiện đại được thâm nhập và chuyển giao vào Việt Nam thì mâu thuẫn
giữa trình độ hiện đại của trang thiết bị kỹ thuật-công nghệ với trình độ lạc hậu
của người sử dụng xuất hiện. Người quản lý, người sử dụng công nghệ thì không
thể tiếp thu, càng không thể khai thác có hiệu quả công nghệ, nên làm giảm hiệu
suất của vốn đầu tư.
Hiện nay, công nghệ Việt Nam ở mức trung bình kém. Trong các ngành công
nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới. Các
chỉ tiêu chủ yếu về tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu gấp 1,5 đến 2 lần mức chung
của thế giới, giá thành sản phẩm cao, năng suất lao động công nghiệp chỉ đạt
30% mứ trung bình của thế giới( theo số liệu báo cáo của GS Đặng Hữu tại Hội
nghị cán bộ khoa học-công nghệ toàn quốc ngày 12-2-1995). Số nhân công có
trình độ bậc 4 trở lên chỉ bằng 1/3 tổng số công nhân kỹ thuật, công nhân có
trình độ bậc 7 chỉ có 4000 người mà đa phần tuổi đã cao. Thiếu công nhân kỹ
thuật, đặc biệt là công nhân bậc cao là nhân tố trưc tiếp ảnh hưởng đến quá trình
thực hiện chuyển giao công nghệ, làm giảm hiệu suất sử dụng của thiết bị công
nghệ.
Hiện nay các nhà công nghệ, công trình sư, kỹ sư thực hành nước ta rất thiếu,
nhất là cán bộ ở các gành công nghệ thông tin, vi điện tử, sinh học tự động hoá
sản xuất Số cán bộ khoa học thuộc các ngành kỹ thuật liên quan đến công nghệ
chỉ chiếm 11% tổng cán bộ trong cơ chế kinh tế cũ nên kinh nghiệm, năng lực
sáng tạo thực tiễn, khả năng sáng tạo công nghệ yếu.
c. Sự lạc, non yếu về trình độ của nguồn nhân lực Việt Nam so với nguồn nhân
lực trong khu vực và tế giới.
Trình độ của lao động kỹ thuật nước ta vừa yếu, vừa thiếu, vừa bất hợp lý về cơ
cấu đào tạo, vừa phân bố không đồng đều giữa các ngành, các vùng, các thành
phần kinh tế. Trình độ non kém, lạc hậu về khoa học công nghệ, tác phong lao
động, kỷ luật, sự thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, tính từ chịu trách nhiệm cá
nhân thấp ảnh hưởng đến sức cành tranh của nguồn nhân lực Việt Nam khi hoà
nhập vào thị trường nhân lực tiên tiến của thế giới.
Hiện nay, nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, về lâu dài không thể là lợi
thế phát triển của Việt Nam, vì lợi thế nhân công rẻ trên thế giới đang dần mất đi
và thay vào đó là trình độ trí tuệ cao đồng đều của nhân công.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, trình độ, năng lực của các bộ đối tác, sự sắc sảo
mềm dẻo, nhạy bén, linh hoạt trong ngoại giao của cán bộ ảnh hưởng rất lớn đến
lợi ích của những quốc gia. Để giảm được những bất lợi, tạo ra sự tương đồng
trong hoà nhập, cạnh tranh với thị trường nhân lực khu vực và thế giới, người lao
động Việt Nam phải được trang bị các kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, ngoại
ngữ, lao động, kỷ luật, tác phong lao động và nhận thức đúng đắn mối quan hệ
chủ-thợ trong nền kinh tế thị trường, phải hiểu biết được phong tục tập quán, đặc
điểm của các nước bạn trong cùng thị trường lao động.
Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lao động Việt Nam
cũng bộc lộ những nhược điểm lạc hậu về trình độ kỹ thuật-công nghệ, kỷ luật và
thói quen lao động. Năng lực quản lý kinh tế yếu kém, tính tùy tiện của người
sản xuất nhỏ, ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng chưa cao tạo nên bất lợi và thua
thiệt về kinh tế cho phía Việt Nam
2.Vai trò của nguồn nhân lực công nghiệp.
Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng liên minh kinh tế giữa các khu vực
trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra tốc độ tăng
trưởng kinh tế chưa từng thấy. Tình hình đó đã dẫn đến sự quốc tế hoá kinh tế thế
giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hối sâu sắc mang tính toàn cầu và đang
đi đến thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh đó, khu vực châu á-Thái
Bình Dương đang nổi lên là khu vực kinh tế năng động nhất. Một trong những yếu
tố chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng là vai trò của nguồn nhân lực.
Nền kinh tế tri thức là kinh tế dựa trên các trụ cột chủ yếu là công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới Để có được nền kinh tế tri thức
cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để phát triển khoa học công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin; đồng thời phải đầu tư cho phát triển giáo dục đào tạo.
hay nói cách khác phải đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Suy cho cùng tri thức
là hệ quả, là tất yếu của sự phát triển nguồn nhân lực. Các nước muốn phát triển nền
kinh tế tri thức cần phải đầu tư cho phát triển con người mà cốt lõi là phát triển giáo
dục và đào tạo,đặc biệt là đầu tư phát triển nhân tài. Nhà kinh tế học người Mỹ, ông
Garry Becker-người được giải thưởng Nobel về kinh rế năm 1992, đã khẳng
định:''không có đầu tư nào mang lại nguần lợi lớn như đầu tư cho giáo dục’’
(Nguồn: The Economist 17/10/1992). Nhờ có sự đầu tư cho phát triển nguồn nhân
lực mà nhiều nước chỉ trong một thời gian ngắn đã nhanh chóng trở thành nước
công nghiệp phát triển.
Việt nam là nước đang phát triển có lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, nền
kinh tế tri thức đối với Việt Nam là khái niệm hoàn toàn mới mẻ. Do vậy, có ý kiến
cho rằng nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam hiện nay quá xa và không hiện thực;
cho rằng Việt Nam phải xây dựng xong CNH, HĐH để làm tiền đề cho kinh tế tri
thức ra đời và phát triển, kinh tế tri thức không chỉ bao gồm các ngành mới xuất
hiện dựa trên công nghệ cao, mà còn cả các ngành truyền thống được cải tạo bằng
khoa học công nghệ cao. Do đó không nên chờ cho đến khi sự nghiệp CNH, HĐH
kết thúc mới tiến hành xây dựng kinh tế tri thức, mà ngay trong giai đoan này, để
phát triển và theo kịp các nước trên thế giới, chúng ta phải đồng thời quan tâm tới
những lĩnh vực mà chúng ta có thể tiếp cận.
Đối với Việt Nam, một đất nước nông nghiệp, rõ dàng chúng ta không thể
xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức như các nước công nghiệp phát triển.
Thực ra đó là sự tiếp tục quá trình CNH, HĐH đất nước ở một trình độ cao hơn, dựa
trên chất xám của con người. Mặt khác do xuất phát điểm của lực lượng sản xuất
của ta thấp, mà tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam phải phù hợp với điều kiện của
Việt Nam, tức mang những đặc thù của mình. Do đó việc xác định nội dung các
ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH, chuẩn bị các điều kiện vật chất và con
người để tiếp cận kinh tế tri thức trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi
cấp, mọi ngành, nhất là các cấp hoạch định chiến lược. Trong việc chuẩn bị ấy việc
nghiên cứu thực trạng mạnh, yếu và tìm ra giải pháp phát triển nguồn nhân lực là
quan trọng và cấp bách nhất trong giai đoạn hiện nay.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì nếu chỉ có lực lượng lao động đông và
rẻ thì không thể tiến hành công nghiệp hoá, mà đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động
có trình độ chuyên môn cao. Chính nhờ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
cao mà Nhật Bản và các nước Nics (các nước công nghiệp mới) vận hành có hiệu
quả công nghệ nhập khẩu hiện đại, sản xuất ra nhiều mặt hàng có sức cạnh tranh cao
với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
Để đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, phải bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là mục tiêu và
động lực phát triển, con người có vai trò to lớn không những trong đời sống kinh tế
mà còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải quan tâm, nâng cao chất lượng
con người, không chỉ với tư cách là người lao động sản xuất, mà với tư cách là công
dân trong xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong cộng đồng nhân
loại không thể thực hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hoá nếu không có đội
ngũ đông đảo những công nhân lành nghề, những nhà khoa học kỹ thuật tài năng,
giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, những nhà lãnh đạo,
quản lý tận tuỵ, biết nhìn xa trông rộng.
Vào những năm 80, quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã trở thành vấn đề
quan tâm đặc biệt ở châu á-Thái Bình Dương. Con người được coi là yếu tố quan
trọng nhất của sự phát triển. Trong thời đại mới, muốn giải quyết hài hoà các yếu tố
ciung và cầu có liên quan đến chiến lược phất triển nguồn nhân lực thì cần xem xét
khía cạnh nguồn nhân lực theo quan hệ một phía. Phải thấy được vai trò sản xuất
của nguồn là vấn đề cốt lõi của học thuyết vốn con người. Và vai trò sản xuất của
nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với vai trò tiêu dùng được thể hiện bằng chất
lượng cuộc sống. Cơ chế nối liền hai vai trò là trả công cho người lao động tham
gia các hoạt động kinh tế và thu nhập đầu tư trở lại để nâng cao mức sống của con
người tạo nên khả năng nâng cao mức sống cho toàn xã hội và làm tăng năng suất
lao động các nước nghèo ở châu á đều nhận thức do tốc độ tăng dân số quá nhanh
nhiều quốc gia coi việc giảm đói nghèo còn quan trọng hơn cả giáo dục, đó là một
thiệt thòi to lớn.
Việt Nam đang hướng tới một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước với mục tiêu bảo đảm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, an ninh quốc gia và sự bền vững của môi
trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu
quả kinh tế-xã hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự dựa trên cơ sở công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. trong đó phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển bền vững.
Phần thứ hai: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.Khái niệm CNH,HĐH.
Trong thực tiễn hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về
phạm trù “Công nghiệp hóa”.
Quan điểm đơn giản nhất cho rằng: “Công nghiệp hoá là đưa đặc tính công
nghiệp cho một hoạt động, trang bị cho một vùng, một nước các nhà máy, các loại
công nghiệp”.
Trong sách báo kinh tế của Liên Xô trước đây tồn tại một định nghĩa phổ
biến cho rằng: “Công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí
có khả năng cải tạo cả công nghiệp. Đó là sự phát triển của công nghiệp nặng với
ngành trung tâm là công nghiệp chế tạo máy”.
Theo tác giả B.Mazlish thì : “Công nghiệp hoá là một qúa trình được đánh
dấu bằng một sự chuyển động từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp sang một
nền kinh tế được gọi là công nghiệp”.
Theo tác giả J.Ladriere thì: “Công nghiệp hoá là một quá trình mà các xã hội
ngày nay chuyển từ một kiểu kinh tế từ chủ yếu dựa trên nông nghiệp với đặc điểm
năng suất thấp và tăng trưởng cực kỳ thấp hay bằng không sang một kiểu kinh tế về
cơ bản dựa trên công nghiệp với các đặc điểm năng suất cao và tăng trưởng tương
đối cao”.
Theo Encyclopedic Francáie thì: “Công nghiệp hoá là hoạt động mở rộng tiến
bộ kỹ thuật với sự lùi dần của tính chất thủ công trong sản xuất hàng hoá và cung
cấp dịch vụ”.
Theo tổ chức phát triển của Liên hợp quốc (UNICO) thì: “Công nghiệp hoá là
quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các
nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở
trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ
phận luôn luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có
khả năng đảm bảo cho toàn bbộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt
tới tiến bộ và kinh tế-xã hội”.
- Hiện đại hóa
Hiện đại hóa: Là một quá trình lâu dài, đầy gian khổ của việc cải biến một xã
hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn mimh cao hơn, thể hiện đầy
đủ hơn những giá trị mà nhân loại vươn tới”.
Một xã hội được thừa nhận là hiện đại hóa là một xã hội có nền kinh tế phát
triển, thể hiện tập trung ở nhịp độ tăng tổng sản phẩm chung và tính ra đầu người.
Sự tăng trưởng kinh tế này có quan hệ hữu cơ với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cái
cốt lõi của hiện đại hoá kinh tế là tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
Công nghiệp hóa-hiện đại hoá, gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ, phát triển
mạnh mẽ các ngành có hàm lượng khoa học-công nghệ cao.
Công nghiệp hóa-hiện đại hoá đất nước là quá trình xây dựng đất nước trở
thành nước công nghiệp hiện đại, tỉ trọng sản xuất công nghiệp chiếm phần lớn
trong nền kinh tế quốc dân với nền sản xuất hiện đại, sử dụng nhiều máy móc, thiết
bị hiện đại, công nghệ tiên tiến với hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và được tiến
hành trong một thời gian nhất định.
2.Đặc điểm của CNH,HĐH.
Thứ nhất, công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Sở dĩ như vậy là vì trên
thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, một số nước phát triển đã
bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức nên phải tranh thủ ứng
dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Thứ hai, công nghiệp hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Công nghiệp hoá là tất yếu với các nước phát triển nhưng với mỗi nước mục tiêu và
tính chất của công nghiệp hoá là khác nhau.
Thứ ba, Công nghiệp hoá trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều tiết
của nhà nước. Điều làm cho công nghiệp hoá trong giai đoạn hiện nay khác với công
nghiệp hoá trong thời kỳ trước đổi mới.
Thứ tư, công nghiệp hoá hiện đại hoá trong nền kinh tế Quốc dân trong bối
cảnh toàn cầu hoá kinh tế, vì thế mở của nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế
Quốc tế là tất yếu đối với nước ta.
3. Nội dung của CNH,HĐH.
a. Nội dung cơ bản của CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
- Phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên cơ
sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật, công nghệ hiện đại.
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá, hợp lý và hiệu quả cao.
- Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
b. Những nội dung cụ thể của CNH, HĐH ở nước ta trong những năm trước mắt.
- Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
- Phát triển công nghiệp.
- Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất
của nền kinh tế.
- Phát triển nhanh du lịch các ngành dịnh vụ.
- Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Phần thứ ba: Các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực công nghiệp phục
vụ CNH,HĐH.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giữ vị trí quyết định đến chất lượng
nguồn nhân lực. Các phương hướng cho vấn đề này là sự cụ thể hoá nghị quyết Hội
nghị Trung ương II khoá VIII về định hướng chiến lược giáo dục- đào tạo trong thời
kỳ CNH_ HĐH. Phát triển nguồn nhân lực là một phần hữu cơ của chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội nhằm tạo ra nguồn nhân lực trình độ cao để thực hiện các mục
tiêu kinh tế- xã hội của đất nước. Chiến lược nguồn nhân lực phải xác định những
mục tiêu ưu tiên, các giải pháp khả thi, các cơ chế điều hành, các chính sách, các
chương trình hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng của nguồn
nhân lực.
1. Một số quan điểm chủ đạo phát triển nguồn nhân lực.
- Chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định sự nghiệp CNH- HĐH ở
nước ta. Cùng với khoa học- công nghệ, vốn đầu tư, chất lượng nguồn nhân lực
đóng vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp đối mới toàn diện kinh tế- xã
hội ở nước ta do Đảng ta khởi xướng. Kinh tế nước ta có khả năng cạnh tranh hay
không, có hấp dẫn và thu hút được đầu tư nước ngoài hay không phụ thuộc phần lớn
vào chất lượng nguồn nhân lực mà chúng ta có.
- Giáo dục giữ vị trí quyết định phát triển nguồn nhân lực: giáo dục- đào tạo có
nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Quan điểm giáo
dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu được khẳng định từ nhận thức sâu sắc vai trò của
giáo dục trong quá trình phát triển của đất nước.
-Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo điều kiện phát triển tài năng.
Dù phát triển trong cơ chế thị trường và trong bối cảnh tăng cường hội nhập quốc
tế, giáo dục Việt Nam cần giữ vững định hướng XHCN. Nguyên tắc này thể hiện
chủ yếu trong hai mặt: Thứ nhất, giáo dục có mục tiêu đào tạo những con người có
lý tưởng độc lập tự do và CNXH; thứ hai, tạo ra sự bình đẳng về cơ hội học tập đại
học cho mọi người. Chống khuynh hướng thương mại hoá trong giáo dục, rút ngắn
sự cách biệt về cơ hội tiếp cận với giáo dục giữa các vùng thành thị, nông thôn,
vùng sâu, vùng xa.
-Phát triển nguồn nhân lực gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, tiến bộ
khoa học- công nghệ và sự nghiệp củng cố an ninh quốc phòng. Phát triển nguồn
nhân lực phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng giai
đoạn, gắn với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, gắn với nhu cầu phát triển của các
ngành kinh tế, giữa các vùng kinh tế, vùng dân cư, từng địa phương.
-Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Các doanh nghiệp sử dụng người lao động, người học và mọi tầng lớp nhân dân có
trách nhiệm tham gia góp ý, đóng góp trí tuệ và vật lực cho sự nghiệp chung đó.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sé tạo ra tiềm lực về trí tuệ cho đất nước, xây
dựng đội ngũ lao động khoa học- công nghệ trình độ cao và tạo ra động lực cho phát
triển kinh tế.
-Phát triển nguồn nhân lực phải tính đến sự hội nhập quốc tế và khu vực trên cơ
sở kế thừa và giữ vững những tinh hoa văn hoá dân tộc. Quốc tế hoá, hội nhập là xu
thế của thời đại chúng ta. Cần tăng cường học tập các kinh nghiệm quốc tế trong tổ
chức đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ sản xuất, từng bước hiện đại hoá cơ
sở vật chất thiết bị theo những tiêu chuẩn quốc tế; đổi mới chương trình, nội dung
phương pháp đào tạo theo hưỡng của các nước tiên tiến; tăng cường khẩ năng của
đội ngũ. Tất cả những đổi mới nói trên cần hợp tác với những nước tiên tiến và sự
hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên cần tính đến những điều kiện văn hoá,
kinh tế,chính trị và xã hội nước ta để vận dụng cho phù hợp . hoà nhập nhưng không
hoà tan . Chắt lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại và giữ gìn bản sắc dân tộc .
2 Phương thức phát triển
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải tiếp cận theo hướng , một mặt phải
đảm bảo tỷ lệ cơ cấu nguồn nhân lực, cân đối theo từng giai đoạn phát triển kinh tế
xã hội và nhu cầu của thị trường lao động, mặt khác đáp ứng về yêu cầu chất lượng .
Do điều kiện đầu tư cho đào tạo và phát triển còn rất hạn chế, nhưng lại phải
đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội với tốc độ cao để đuổi kịp các nước trong khu
vực, mặt khác phải đảm bảo tính công bằng xã hội cho mọi người, góp phần phát
triển hài hoà thành thị và nông thôn. Vì vậy phải phát triển theo hai hướng mũi nhọn
và đại trà:
-Mũi nhọn : đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề, kỹ thuật viên (
trong đó có một số trình độ đại học/ cao đẳng) đủ khả năng trí tuệ tiếp cận và sử
dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại . Theo hướng này
bên cạnh việc mở thêm trường mới sẽ hình thành một bộ phận chất lượng cao của hệ
thống, tuy số lượng không nhiều nhưng là tinh hoa để đáp ứng nhu cầu phát triển
của đất nước và đạt các chuẩn mực về khu vực và quốc tế , là khâu đột phá để thoát
khỏi sự tụt hậu về trình độ nhân lực hiện nay. Dự kiến có các trường chất lượng cao
ở các hành lang kinh tế trọng điểm nhằm đáp ứng nguồn nhân lực có kỹ thuật cao
cho các khu công nghệ cao, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất và bước
đầu tính đến khả năng xuất khẩu lao động .
-Đại trà : mở rộng các loại hình đào tạo nghề nghiệp ngắn hạn, từng bước phổ
cập nghề cho tất cả mọi người lao động bằng cách sớm hình thành nền giáo dục kỹ
thuật trong xã hội . Từng bước đưa giáo dục kỹ thuật tổng hợp , kỹ thuật ứng dụng
vào các trường phổ thông, trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết . Theo hướng này
hình thành các loại hình trung tâm đào tạo nghề nghiệp, mở rộng các loại hìng
trường ngoài công lập nhằm đáp ứng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế địa
phương, công nghiệp hoá nông thôn , chuyển đổi cơ cấu lao động và giải quyết việc
làm cho xã hội .
Kết luận.
Hội nhập là một tất yếu khách quan. Một doanh nghiệp có thể vươn lên phát
triển vững mạnh bằng thời cơ lớn mà hội nhập mang đến nhưng cũng còn chứa
trong đó lại là những thách thức, rủi ro không nhỏ.
Thời cơ lớn nhất có thể nói đó chính là sự bùng nổ của khoa học công nghệ
mà đỉnh cao là kinh tế tri thức (công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh
học…). Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có thể chớp lấy thành quả công nghệ,
nâng cao chất lượng, kỹ năng cũng như khả năng thay đổi trước môi trường.Nhưng
môi trường kinh doanh với sự biến đổi không ngừng, tổng hợp các yếu tố kinh tế,
khoa học, công nghệ, văn hoá xã hội , chính trị luật pháp …thách thức với những
khó khăn, phức tạp có khi không dự tính trước được cho hoạt động đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực. Một doanh nghiệp với các nhà quản trị giỏi và đội ngũ nhân