Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Luận văn chế tài hủy hợp đồng trong trường hợp một bên vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế(CISG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.95 KB, 89 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
-----------***------------

CAO LÊ NGỌC ANH
MSSV: 1753801011003

CHẾ TÀI HỦY HỢP ĐỒNG TRONG TRƯỜNG HỢP MỘT
BÊN VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CÔNG ƯỚC
VIÊN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HĨA QUỐC TẾ
(CISG)

KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHOÁ: 2017 - 2021

Giảng viên hướng dẫn:
ThS. VŨ DUY CƯƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
-----------***------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CHẾ TÀI HỦY HỢP ĐỒNG TRONG TRƯỜNG HỢP MỘT
BÊN VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CÔNG ƯỚC
VIÊN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
(CISG)



SINH VIÊN THỰC HIỆN
KHÓA: 42
MSSV

: CAO LÊ NGỌC ANH
: 1753801011003

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

: ThS. VŨ DUY CƯƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận này được viết trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19 đang bùng
phát trở lại và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nếu khơng có sự chia sẻ, giúp đỡ và tạo
điều kiện từ nhiều phía, em sẽ khó khăn lắm mới có thể hồn thành được. Khóa luận
không chỉ là cơ hội để em được một lần trải nghiệm q trình thực hiện một cơng
trình nghiên cứu khoa học mà còn là một kỉ niệm đẹp em may mắn có được trong
những ngày cuối cịn được là sinh viên của trường. Và hơn hết, khoảng thời gian
viết khóa luận này sẽ ln nhắc em nhớ rằng dù mọi thứ có như thế nào thì cuộc
sống vẫn ln tồn tại những điều đáng biết ơn và trân trọng.
Dòng cuối, em xin phép được gửi đến Thầy Vũ Duy Cương lời tri ân chân
thành nhất vì sự tận tâm Thầy đã dành cho em trong suốt q trình hồn thành khóa
luận.


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Vũ Duy Cương, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Người cam đoan

Cao Lê Ngọc Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CISG

United Nations Convention on Contracts for the International Sale

of Goods (Công ước của Liên hợp quốc năm 1980 về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế)
PICC

Principles of International Commercial Contract (Bộ Nguyên tắc
của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế)

PECL

Principles of European Contract Law (Bộ Nguyên tắc Luật hợp
đồng Châu Âu)

LTM

Luật Thương mại 2005 (Luật số 36/2005/QH11) ngày 14/06/2005


BLDS

Bộ luật Dân sự 2015 (Luật số 91/2005/QH11) ngày 24/11/2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ TÀI HỦY HỢP ĐỒNG
VÀ VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CISG.............................................7
1.1 Khái quát về chế tài hủy hợp đồng theo CISG................................................7
1.1.1 Khái niệm chế tài hủy hợp đồng theo CISG................................................7
1.1.2 Các trường hợp dẫn đến việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng theo CISG. . .9
1.1.3 Hậu quả pháp lý của chế tài hủy hợp đồng theo CISG............................. 13
1.2 Khái quát về vi phạm cơ bản hợp đồng theo CISG...................................... 16
1.2.1 Khái niệm vi phạm hợp đồng theo CISG................................................... 16
1.2.2 Vi phạm cơ bản hợp đồng theo CISG: Khái niệm và đặc điểm.................19
1.2.3 Các yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng theo CISG.....................23
1.2.4 Các tiêu chí được xem xét nhằm xác định vi phạm cơ bản.......................30
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ TÀI HỦY HỢP
ĐỒNG KHI MỘT BÊN VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CISG.........36
2.1 Quyền áp dụng chế tài hủy hợp đồng của bên mua trong trường hợp bên
bán vi phạm cơ bản hợp đồng.............................................................................. 36
2.1.1 Bên bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng........................................................ 36
2.1.2 Bên bán vi phạm nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa..........42
2.2 Quyền áp dụng chế tài hủy hợp đồng của bên bán trong trường hợp bên
mua vi phạm cơ bản hợp đồng............................................................................. 44
2.2.1 Bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán..................................................... 44
2.2.2 Bên mua vi phạm nghĩa vụ nhận hàng..................................................... 48
2.3 Quyền áp dụng chế tài hủy hợp đồng trong trường hợp vi phạm cơ bản dự
đoán trước.............................................................................................................. 50

2.3.1 Quy định về mức độ chắc chắn của vi phạm cơ bản trước thời hạn........50
2.3.2 Thực tiễn áp dụng chế tài hủy hợp đồng do vi phạm cơ bản dự đoán trước
54
2.4 Nghĩa vụ thông báo hủy hợp đồng theo CISG............................................... 56
2.4.1 Giá trị của thơng báo.................................................................................. 56
2.4.2 Hình thức thơng báo.................................................................................. 60
2.4.3 Nội dung thông báo.................................................................................... 62


2.5 Mất quyền tuyên bố hủy hợp đồng theo CISG.............................................. 64
2.5.1 Đối với bên bán........................................................................................... 65
2.5.2 Đối với bên mua......................................................................................... 66
KẾT LUẬN............................................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC VỤ VIỆC ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG KHÓA LUẬN


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tính đến ngày 24 tháng 9 năm 2020, Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp
quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (viết tắt là CISG) đã ghi nhận sự gia
nhập của 94 quốc gia1. Với vai trò là một văn bản thống nhất luật, CISG – hiệp ước
thương mại hiện đại phù hợp với truyền thống pháp luật - đã dung hòa được nhiều
mâu thuẫn giữa các hệ thống luật khác nhau trên thế giới, đóng vai trị quan trọng
trong việc giải quyết các xung đột pháp luật thương mại quốc tế và thúc đẩy thương
mại quốc tế phát triển. Vì vậy, việc trở thành quốc gia thành viên của CISG đã đánh
dấu một cột mốc quan trọng của Việt Nam 2 trong việc tăng cường mức độ hội nhập
với nền kinh tế thế giới, góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp

cận và sử dụng một khung pháp lý chung, cơng bằng và an tồn để thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy khơng phải q trình thực hiện hợp đồng nào cũng
diễn ra suôn sẻ, rất nhiều trường hợp do một bên vi phạm nghĩa vụ đã cam kết trong
hợp đồng gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến mức làm cho bên cịn lại khơng đạt được
những gì họ kì vọng khi giao kết hợp đồng. Nhằm mục đích bảo đảm một mơi trường
lành mạnh và cơng bằng cho giao thương quốc tế được phát triển thuận lợi, CISG đã
quy định quyền được áp dụng các biện pháp chế tài để bên bị thiệt hại có thể chủ động
hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do hợp đồng bị vi phạm
dẫn đến quyền và lợi ích của bên bị vi phạm không được đảm bảo nên chế tài được đặt
ra chủ yếu nhằm hướng tới khôi phục các quyền và lợi ích bị vi phạm, bù đắp những
thiệt hại chứ không chỉ nhằm mục đích trừng phạt. Các chế tài trong CISG

1 truy cập ngày 4/6/2021.
2Việt Nam đã chính thức gia nhập Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế (viết tắt là CISG) vào cuối tháng 12/2015 và trở thành thành viên thứ hai tại ASEAN sau
Singapore gia nhập Công ước. Cơng ước này chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 1/1/2017.


2

bao gồm buộc thực hiện nghĩa vụ, ngừng thực hiện hợp đồng, yêu cầu bồi thường
thiệt hại, yêu cầu thanh toán lãi suất và nặng nề nhất là hủy bỏ hợp đồng.
Do đó, việc hiểu rõ các căn cứ dẫn đến hủy hợp đồng cũng như hậu quả pháp
lý mà chế tài này mang lại chính là cách cơ bản nhất để các bên khi tham gia hợp
đồng có thể bảo đảm việc thực hiện hợp đồng của mình được diễn ra thuận lợi.
Trong các căn cứ hủy hợp đồng, trường hợp một bên “vi phạm cơ bản” hợp đồng
được xem là trường hợp phổ biến hơn cả. Tuy vi phạm cơ bản khơng cịn là một
khái niệm q xa lạ3 nhưng tính chất phức tạp của nó và những vấn đề liên quan vẫn
là điều mà chưa ai dám phủ nhận, thậm chí có tác giả cịn cho rằng vi phạm cơ bản

hợp đồng là khái niệm “trừu tượng và mơ hồ” 4. Với mong muốn mang đến một cái
nhìn rõ ràng và sắc nét hơn về chế tài hủy hợp đồng, đặc biệt là khi hủy hợp đồng
do có vi phạm cơ bản trên cả hai phương diện quy định và thực tiễn, người viết
quyết định chọn đề tài “Chế tài hủy hợp đồng trong trường hợp một bên vi phạm cơ
bản hợp đồng theo Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)”
để làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế tài hủy hợp đồng và vi phạm cơ bản hợp đồng không phải là chủ đề xa lạ
nhưng không vì thế mà mất đi tính mới khi cần nghiên cứu sâu và kĩ hơn. Dưới đây
là một số một cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước.
Đối với tình hình nghiên cứu trong nước, có thể điểm qua các cơng trình tiêu
biểu sau:
- Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Võ Sỹ Mạnh: “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo
quy định của Công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định

3

Khái niệm này đã được định nghĩa trong Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 được Quốc hội khóa 11
thơng qua vào ngày 14/6/2005.
4
Ulrich Huber, ‘Der UNCITRAL-Entwurf eines Übereinkommens über interntr.ionale Warenkaufvertrage’
(1979) 43 RabelsZ 413, 524, trích dẫn thơng qua Võ Sỹ Mạnh, Bàn về khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng
theo Công ước Viên 1980, tham khảo tại truy cập ngày
4/5/2021.


3

hướng hồn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam”, Đại học Luật
Tp. Hồ Chí Minh năm 2015. Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề

liên quan đến vi phạm cơ bản, là các quy định của Công ước Viên và pháp luật Việt
Nam; phạm vi nghiên cứu về mặt nội dung của Luận án tập trung vào vấn đề về vi
phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên 1980 trong
mối quan hệ với việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bằng cách yêu
cầu giao hàng thay thế hoặc hủy bỏ hợp đồng khi bên bán hoặc bên mua vi phạm
hợp đồng; đồng thời phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ
bản hợp đồng, với việc áp dụng các chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ
thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng.
- Khóa luận tốt nghiệp “Căn cứ áp dụng chế tài hủy hợp đồng theo Công ước Viên
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Quy định pháp luật và thực tiễn tài
phán” của tác giả Huỳnh Thị Bảo Trân, Đại học Luật TP.HCM năm 2016. Trong
khóa luận này, tác giả đi sâu vào việc làm rõ từng yếu tố của chế tài hủy hợp đồng
cũng như căn cứ để áp dụng chế tài đó dưới góc độ quy định pháp luật và các vụ
việc thực tế.
- Bài viết “Vi phạm cơ bản hợp đồng” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 9/2004 đã giải nghĩa thuật ngữ “cơ bản”, “vi phạm cơ bản”.

Tác giả nhấn mạnh một số văn bản quốc tế về hợp đồng như PICC, PECL đều
không sử dụng khái niệm “vi phạm cơ bản”, đồng thời cũng cho rằng khơng nên
tiếp nhận từ nước ngồi những thuật ngữ cũ hoặc khơng rõ ràng, bởi sự khó khăn
trong áp dụng thống nhất mà việc này có thể đem lại.
Chế tài huỷ hợp đồng do vi phạm cơ bản hợp đồng theo CISG cũng được tìm
thấy trong các nghiên cứu nước ngoài sau:
- Cuốn sách “Remedies in International Sales: Perspective from CISG, UNIDROIT
Principles and PECL” của hai tác giả Chengwei Liu và Marie Stefanini Newman
được Nhà xuất bản Jurist Net xuất bản năm 2017 (tạm dịch: Các chế tài trong thương

mại quốc tế: Dưới góc độ CISG, Bộ quy tắc UNIDROIT về Hợp đồng thương mại



4

quốc tế và Các nguyên tắc của pháp luật hợp đồng châu Âu). Đây là cơng trình
nghiên cứu về các chế tài áp dụng cho việc không thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, cụ thể trong các văn bản CISG, Bộ quy tắc UNIDROIT và Các nguyên
tắc của pháp luật hợp đồng châu Âu PECL. Các tác giả phân tích chi tiết từng chế
tài đồng thời so sánh điều kiện, cách thức áp dụng chúng trong các công ước quốc tế
kể trên.
- Ulrich Magnus (2005), ‘The Remedy of Avoidance of Contract under CISG: General

Remarks and Special Cases’, Journal of Law and Commerce, 423 (tạm dịch: Chế tài
hủy hợp đồng theo quy định của CISG: Những lưu ý tổng quan và một số vụ việc
đặc biệt). Trong bài viết này, tác giả tập trung trình bày quyền áp dụng chế tài hủy
hợp đồng từ cả góc độ của cả bên mua và bên bán, đồng thời, phân tích làm rõ
những lý thuyết trên qua các vụ việc thực tiễn điển hình.
- Leung Sze Lum (2013), A Comparative Analysis on the Avoidance of Contract
under CISG and PICC, Outstanding Academic Papers by Students, City University
of Hong Kong, CityU Intenational Repository (tạm dịch: So sánh việc hủy hợp đồng
theo quy định của CISG và Bộ Nguyên tắc Hợp đồng thương mại quốc tế PICC).
Bài viết phân tích chi tiết chế tài hủy hợp đồng trong trường hợp áp dụng quy định
của CISG và Bộ Nguyên tắc Hợp đồng thương mại quốc tế PICC, từ đó rút ra kết
luận về cách giải quyết những bất cập khi áp dụng từng công ước.
Đây đều là những cơng trình có giá trị tham khảo rất lớn đồng thời cũng đóng
vai trị nền tảng trong việc tìm hiểu những nội dung xoay quanh chế tài hủy hợp đồng
theo CISG của người viết. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu, người viết cũng nhận
thấy rằng hiện nay, chưa một cơng trình nào đi sâu vào chế tài hủy hợp đồng trong
trường hợp một bên có hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng. Vì vậy, người viết càng mong
muốn được tìm hiểu kĩ hơn và đưa ra một số kết luận về đề tài này nhằm đóng góp
thêm một góc nhìn về chế tài hủy hợp đồng và vi phạm cơ bản.
3.


Mục đích nghiên cứu


5

Thông qua việc cung cấp kiến thức tổng hợp về chế tài hủy hợp đồng trong trường
hợp một bên vi phạm cơ bản hợp đồng dựa trên quy định của CISG cũng như những
phân tích trong các phán quyết và nghiên cứu của các học giả, đề tài sẽ rút ra những
kết luận với mục đích giúp các bên khi tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế có những nhận thức chính xác về vi phạm cơ bản hợp đồng và chế tài hủy hợp
đồng, từ đó có thể áp dụng chế tài hủy hợp đồng khi xảy ra vi phạm cơ bản một
cách hiệu quả nhất.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chế tài hủy hợp đồng khi một bên vi phạm cơ bản theo
CISG.
- Phạm vi nghiên cứu : Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của CISG liên
quan đến chế tài hủy hợp đồng trong trường hợp có vi phạm cơ bản hợp đồng và
việc vận dụng các quy định này trong thực tiễn giải quyết tranh chấp. Việc áp dụng
chế tài hủy hợp đồng trong các trường hợp khác sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứ
của đề tài. Ngoài ra, đề tài cũng dành ra một dung lượng nhỏ để so sánh các quy
định này với các văn bản pháp luật trong nước là Luật Thương mại 2005, Bộ luật
Dân sự 2015 và một số vấn đề lưu ý trong các hệ thống pháp luật phổ biến khác.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích, bình luận được sử dụng nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
cơ bản về chế tài hủy hợp đồng theo CISG, đồng thời làm rõ những phán quyết từ thực
tiễn giải quyết tranh chấp. Qua đó phân tích việc áp dụng luật, cũng như bình

luận các bản án, nhằm đánh giá việc áp dụng trong thực tế.
-


Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm phát hiện và lý giải các điểm tương

đồng và khác biệt giữa quy định của pháp luật Việt Nam và quy định của CISG về
các biện pháp chế tài do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa.


6

- Phương pháp quy nạp, tổng hợp được sử dụng để rút ra những kết luận có tính khái
qt về chế tài hủy hợp đồng khi một bên vi phạm cơ bản hợp đồng trên cả hai phương

diện lý luận và thực tiễn.
7. Bố cục tổng quát
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và danh mục các vụ
việc được sử dụng trong khóa luận, nội dung của khóa luận gồm 2 chương, cụ thể:
Chương 1: Khái quát về chế tài hủy hợp đồng và vi phạm cơ bản theo CISG
Chương 2: Quy định và thực tiễn áp dụng chế tài hủy hợp đồng trong trường hợp
một bên vi phạm cơ bản theo CISG


7

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ TÀI HỦY HỢP ĐỒNG VÀ
VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CISG
1.1 Khái quát về chế tài hủy hợp đồng theo CISG
1.1.1 Khái niệm chế tài hủy hợp đồng theo CISG
Theo nghĩa thông thường, hủy bỏ là đưa về trạng thái không còn tồn tại nữa 5.
Theo nghĩa pháp lý, một số tác giả định nghĩa như sau: Tác giả Nguyễn Thị Việt Hà
cho rằng: “Hủy bỏ hợp đồng là triệt tiêu quá khứ cũng như tương lai của hợp đồng

đã được giao kết hợp pháp với lý do triệt tiêu hợp đồng không tồn tại vào thời điểm
giao kết mà vào thời điểm thực hiện hợp đồng” 6. Tác giả Nguyễn Mạnh Bách nhận
định: “Sự hủy bỏ hiệu lực hợp đồng có hiệu lực hồi tố và đặt các đương sự trở lại
tình trạng trước khi ký kết hợp đồng, những nghĩa vụ chưa thi hành thì sẽ bị tiêu
hủy và những nghĩa vụ đã thi hành sẽ được thu hồi lại”7.
BLDS không quy định cụ thể về khái niệm hủy bỏ hợp đồng, cịn LTM thì
8

khơng nêu khái niệm riêng rẽ mà quy định thông qua việc phân biệt hủy bỏ toàn bộ và
9

hủy bỏ một phần hợp đồng tại khoản 2 và khoản 3 Điều 312 LTM. Như vậy, theo quy
định tại Điều 312 LTM, ta có thể hiểu trong pháp luật thương mại Việt Nam, hủy hợp
đồng là một chế tài đặc thù của pháp luật thương mại nhằm mục đích hủy bỏ hiệu lực
của một phần hoặc toàn bộ hợp đồng thương mại kể từ thời điểm giao kết.

Tuy CISG khơng có quy định định nghĩa về chế tài hủy hợp đồng nhưng ban
soạn thảo CISG ý thức rất rõ những hậu quả nặng nề mà một tun bố chấm dứt hợp
đồng từ một phía có thể đem lại nên đã đặt ra những yêu cầu khắt khe, nghiêm ngặt

5
6

Hoàng Phê (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.612.

Nguyễn Thị Việt Hà, 2010, Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng trong hoạt động
thương mại, Luận văn Thạc sĩ Luật học, ĐH Luật TP. HCM, tr.24.
7
Nguyễn Mạnh Bách (1995), Pháp luật về hợp đồng (lược giải), Nxb Chính trị Quốc gia, tr.58.
8

Khoản 2 Điều 312 LTM: “Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các
nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng.”
9
Khoản 3 Điều 312 LTM: “Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng,
các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.”


8

nhằm khắc phục tình trạng các bên tùy tiện áp dụng chế tài này. Khởi nguồn từ ý
niệm hợp đồng được tạo lập không phải để bị hủy bỏ, nhà làm luật luôn hướng tới
việc ngăn chặn tối đa những trường hợp tùy tiện hủy hợp đồng bởi một khi hợp
đồng bị hủy trái phát luật, hậu quả của việc này sẽ khiến các chủ thể hợp đồng phải
gánh chịu những thiệt hại rất đáng kể. Hơn nữa, khi giao kết hợp đồng, các bên đều
tự nguyện được ràng buộc mà không chịu bất cứ sự thúc ép, cưỡng chế nào. Vì vậy,
thật khơng hợp lý nếu một bên muốn thốt khỏi sự giao ước mà chính mình đã tự
nguyện xác lập trước đó. Nếu hợp đồng có thể dễ dàng bị phủ nhận hiệu lực như
vậy, hẳn sẽ không thể có một nền tảng ổn định nào để giao thương có thể phát triển.
Do đó, một vi phạm hợp đồng thông thường, giản đơn sẽ không cho phép bên bị vi
phạm hủy bỏ hợp đồng. Chỉ khi hành vi vi phạm của bên vi phạm nghiêm trọng đến
mức cấu thành một vi phạm cơ bản10 thì tuyên bố hủy hợp đồng mới được xem là
hợp pháp11. Có vi phạm cơ bản, bên bị vi phạm mới có cơ sở khẳng định họ khơng
cịn lý do hợp lý nào để tiếp tục tuân thủ hợp đồng. Tinh thần này của CISG đã
khiến các cơ quan tài phán và các nhà nghiên cứu kết luận rằng việc hủy bỏ hợp
đồng theo CISG là “ultima ratio”12 – biện pháp khắc phục cuối cùng, cụ thể:
Thứ nhất, bên bị vi phạm cần hiểu được bản chất nghiêm khắc của chế tài này
khi quyết định áp dụng. Trong khoa học pháp lý, có tác giả đã trình bày theo hướng
13

phân biệt “chế tài có tính chất tạm thời” và “chế tài có tính chất cuối cùng” . Biện

pháp có tính chất cuối cùng khơng hướng đến việc tiếp tục duy trì hợp đồng mà triệt
tiêu hiệu lực của hợp đồng, giải phóng các bên khỏi những quyền và nghĩa vụ đã được
thỏa thuận trước đó. Trong CISG, khơng một chế tài nào có thể làm chấm dứt hiệu lực
hợp đồng và đặt các bên về lại trạng thái ban đầu trước khi hợp đồng được ký kết như
hủy hợp đồng. Hủy hợp đồng làm chấm dứt mối quan hệ hợp đồng giữa các bên

10

Điều 25 CISG - khái niệm này sẽ được phân tích sâu hơn ở phần 1.2.

11

Điều 49(1), 64(1) CISG.
Ulrich Magnus, “The Remedy of Avoidance of Contract under CISG—General Remarks and Special

12

Cases”, truy cập
10/5/2021.
13
Đỗ Văn Đại (2019), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam,
Nxb. Hồng Đức, tr.42.


9

và đặt dấu chấm hết cho mọi lợi ích các bên mong muốn khi đặt bút ký vào hợp
đồng, các bên phải hoàn trả lại cho nhau tất cả những gì đã nhận14.
Thứ hai, tính chất cuối cùng của biện pháp hủy hợp đồng được thể hiện không
phải ở thứ tự thực hiện mà ở thứ tự ưu tiên so với các chế tài khác. Tức là, mặc dù xem

hủy hợp đồng là chế tài cuối cùng nhưng khơng có nghĩa bên áp dụng phải sử dụng hết
tất cả những chế tài khác rồi mới được dùng đến chế tài này. Vì muốn duy trì hiệu lực
hợp đồng cho các bên, CISG khuyến khích các bên xem xét sử dụng các chế tài khác
hủy hợp đồng và chỉ khi những chế tài này không mang lại kết quả khả quan hơn thì
15

các bên mới nên sử dụng chế tài này . Bởi một khi chế tài hủy hợp đồng được chọn để
xử lý vi phạm thì mối quan hệ hợp đồng giữa các bên được xem như chưa từng tồn tại
vì nó sẽ chấm dứt hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Do đó, việc có áp dụng chế tài hủy
hợp đồng hay không phải được cân nhắc một cách rất cẩn trọng.
Từ những phân tích trên, người viết xin được phép đưa ra định nghĩa khái quát
về chế tài hủy hợp đồng theo CISG như sau: “Hủy hợp đồng là chế tài có tính chất
cuối cùng, được sử dụng nhằm triệt tiêu hiệu lực của hợp đồng kể từ thời điểm giao kết
và đặt các chủ thể tham gia hợp đồng trở lại tình trạng trước khi ký kết hợp đồng.”

1.1.2 Các trường hợp dẫn đến việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng theo CISG
(i) Hủy hợp đồng do vi phạm cơ bản hợp đồng
Vi phạm cơ bản hợp đồng thường là nguyên nhân chính dẫn đến chế tài hủy hợp
đồng và là căn cứ tối quan trọng để bên bị vi phạm có thể tuyên bố hủy hợp đồng. Đây
cũng là “khái niệm trung tâm”

16

mang giá trị cốt lõi trong việc giải quyết các tranh

chấp phát sinh từ vi phạm hợp đồng. Một bên không thể viện cớ vi phạm để dễ

14
15


Điều 81 CISG

Jacob Ziegel (1984), “The Remedial Provisions in the Vienna Sales Convention: Some Common Law
Prespectives”, Nina M. Glalston and Hans Smit (chủ biên), International Sales: The United Nations
Convention on Contracts for the International Sale of Goods, tr.34.
16
“International Sale of Goods Under CISG”, tham khảo tại truy cập 13/6/2021.


10

dàng hủy hợp đồng, vi phạm nếu không đáng kể hoặc nếu đáng kể nhưng vẫn còn
khả năng khắc phục thì khơng thể dẫn đến việc áp dụng chế tài này.
Người viết chia các trường hợp bên bị vi phạm viện dẫn vi phạm cơ bản để hủy
hợp đồng thành hủy hợp đồng do xảy ra vi phạm cơ bản thực tế (actual breach)

17



18

hủy hợp đồng do vi phạm cơ bản dự đoán trước (anticipatory breach) . Những hành vi
vi phạm cơ bản thực tế, về phía bên bán, có thể là không giao hàng, không giao chứng
19

từ liên quan đến hàng hóa, giao hàng khơng phù hợp ; về phía bên mua, có thể là
20

khơng thanh tốn tiền hàng hay khơng nhận hàng theo đúng thỏa thuận .

Ngồi ra, có thể thấy CISG cơng nhận và áp dụng quy tắc “vi phạm dự đoán
trước” vốn quen thuộc với các quốc gia theo truyền thống Thông luật. Một số văn bản
pháp lý quốc tế khác cũng có quy định tương tự.

21

Quy tắc về “vi phạm hợp đồng dự

đốn trước” có thể được diễn giải như sau: Nếu bên có quyền biết hoặc có căn cứ để
nghi ngờ một cách hợp lý rằng nghĩa vụ sẽ khơng được thực hiện, thì cho dù chưa đến
hạn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng theo thỏa thuận, vẫn có thể thực hiện ngay các
quyền hoặc một số quyền mà thông thường chỉ được dành cho các trường hợp nghĩa vụ
22

đã không được thực hiện trên thực tế . Cụ thể, đối với hợp đồng mua bán hàng hóa
được giao hàng thành nhiều chuyến, Cơng ước quy định nếu bên bán có vi phạm cơ bản
đối với một lần giao hàng thì bên mua có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng tương ứng
23

đối với lần giao đó. Ngồi ra, được xem như một trường hợp đặc
17

Điều 49, Điều 64 CISG

18

Điều 72, Điều 73 CISG.

19


Điều 49(1)(a) CISG quy định: “Người mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng: a. Nếu việc người bán không
thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm
chủ yếu đến hợp đồng”, những nghĩa vụ này có thể kể đến giao hàng (đúng thời hạn theo Điều 33(a) CISG,
phù hợp với hợp đồng theo Điều 35(2) CISG), giao chứng từ liên quan đến hàng hóa (Điều 34 CISG).
20
Điều 64(1)(a) CISG quy định: “Người bán có thể tuyên bố hủy hợp đồng: a. Nếu sự kiện người mua khơng
thi hành nghĩa vụ nào đó của họ theo hợp đồng hay Công ước hay cấu thành một sự vi phạm chủ yếu hợp
đồng”, những nghĩa vụ này có thể kể đến thanh tốn (Điều 54 CISG), nhận hàng (Điều 60 CISG)
21
Tương tự Công ước Viên, Điều 7.3.3 PICC quy định: “Một bên có căn cứ để hủy hợp đồng nếu, trước thời
hạn, rõ ràng sẽ có việc khơng thực hiện chủ yếu từ phía bên kia”. PECL quy định tại Điều 9:304, “nếu, ngay
trước ngày mà hợp đồng phải thực hiện, thấy rõ là một bên sẽ vi phạm nghiêm trọng hợp đồng, bên kia có
quyền huỷ hợp đồng”.
22
Võ Sỹ Mạnh, (2015), Vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.230.
23
Điều 73(1) CISG.


11

biệt của quy tắc cơng nhận “vi phạm dự đốn trước”, hành vi vi phạm trong một lần
giao hàng cũng được Công ước ghi nhận là một cơ sở để bên mua kết luận rằng vi
phạm cơ bản sẽ xảy ra đối với những lần giao hàng sau; khi đó, bên mua có thể
tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng cho những lần giao hàng trong tương lai. 24 Các tranh
chấp minh họa sẽ được trình bày chi tiết hơn dưới đây.
(ii) Hủy hợp đồng không do vi phạm cơ bản
Các trường hợp này không phổ biến bằng vi phạm cơ bản nhưng cũng là

những căn cứ hợp pháp để một tuyên bố hủy hợp đồng có hiệu lực, có thể bao gồm
hủy hợp đồng do các bên không thực hiện chế tài buộc thực hiện hợp đồng hoặc
tuyên bố không thực hiện trong thời hạn bổ sung và hủy hợp đồng dựa trên thỏa
thuận của các bên.
Đối với trường hợp khi các bên không thực hiện chế tài buộc thực hiện hợp
đồng hoặc tuyên bố không thực hiện trong thời hạn bổ sung (additional period of
time), các quy định trong CISG liên quan đến thời hạn bổ sung này có thể kể đến
Điều 47, Điều 49(1)(b), Điều 63, Điều 64(1)(b). Các văn bản pháp luật quốc tế khác
như PICC25 hay PECL26 cũng có các quy định tương tự. Thời hạn này có thể là thời
hạn cố định các bên đã đặt ra từ trước, cũng có thể là thời hạn hợp lý được xác định
tại thời điểm xảy ra vi phạm.27
Quy định về thời hạn bổ sung của CISG được tiếp thu từ khái niệm “Nachfrist”
28

bắt nguồn từ luật dân sự Đức, có nghĩa là “thời gian ân hạn” . Sở dĩ có cơ chế linh
hoạt này là do một trong những nguyên tắc chính của CISG chính là nỗ lực duy trì khả
năng thực hiện hợp đồng cao nhất có thể. Mục đích hình thành của CISG là đảm bảo
giao thương hàng hóa quốc tế vượt qua các trở ngại về khoảng cách, thời gian,
24

Điều 73(2) CISG

25

Điều 7.1.5 PICC
Điều 3.106 PECL

26
27


Christiana Fountoulakis (2010), “Remedies for breach of contract under the United Nations Convention on
the International Sale of Goods”, ERA conference on International Commercial Transactions, tr.9.
28

John C. Duncan Jr (2000), “Nachfrist Was Ist? Thinking Globally and Acting Locally: Considering Time
Extension Principles of the U.N. Convention on Contracts for the International Sale of Goods in Revising the

Uniform Commercial Code”, BYU Law Review, Số 1363, tr.1369.


12

chi phí để có thể vận hành trơi chảy, thuận lợi nhất có thể. Do đó, nếu một vi phạm xảy
ra, việc áp dụng ngay những biện pháp nặng nề như hủy hợp đồng rất có thể sẽ làm cho
cơng sức các bên trở nên vơ nghĩa. Vì vậy, quy định về gia hạn trao cho bên

vi phạm cơ hội tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ chưa được thực hiện đúng của mình mà
khơng chịu sự cưỡng chế cứng nhắc từ phía cơ quan tài phán. Nếu bên vi phạm
khơng tận dụng khoảng thời gian này để khắc phục hậu quả kịp thời thì vi phạm cơ
bản xem như được chính thức cấu thành29.
Trường hợp hủy hợp đồng theo thỏa thuận của các bên thì về mặt quy định,
có thể thấy CISG khơng thể hiện trực tiếp việc có chấp nhận quyền hủy hợp đồng
khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy hợp đồng
hay không. PECL, PICC cũng không quy định trực tiếp về vấn đề này. Tuy nhiên, từ
Điều 29 CISG, người viết cho rằng có cơ sở để khẳng định việc này là được phép vì
Điều 29 quy định: “Một hợp đồng có thể được sửa đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa
thuận đơn thuần giữa các bên”. Tương tự, theo pháp luật Việt Nam, thỏa thuận của
các bên cũng là một điều kiện huỷ hợp đồng hợp pháp. Điều 312(4)(a) LTM cho
phép một bên có quyền hủy hợp đồng trong trường hợp “xảy ra hành vi vi phạm bên
đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng”, trừ trường hợp được miễn trách

nhiệm được quy định tại Điều 294 LTM30. Việc thừa nhận quyền hủy bỏ hợp đồng
trong trường hợp này xuất phát từ sự tôn trọng ý chí tự do định đoạt của các bên,
cũng là tinh thần của Công ước31.
Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp mà CISG được áp dụng, có thể thấy cơ quan
giải quyết tranh chấp cũng công nhận và áp dụng hướng giải quyết tại Điều 29 Cơng
ước. Ví dụ, ở tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa bên mua Nga

29

Chengwei Liu (2006), “Additional Period (Nachfrist) for Late Performance: Perspectives from the
CISG, UNIDROIT Principles, PECL and Case Law”, Review of the Convention on Contracts for the
International Sale of Goods (CISG) 2004-2005, Sellier. European Law Publishers, tr.5.
30
Điều 303 LTM: “Trong trường hợp miễn trách nhiệm được quy định tại Điều 294 LTM, bên bị vi phạm dù
cho có căn cứ hủy bỏ hợp đồng được quy định tại Điều 312 LTM cũng không được phép hủy bỏ hợp đồng”.
31
Điều 7(2) CISG: “Các vấn đề liên quan đến đối tượng điều chỉnh của Công ước này mà khơng quy định
thẳng trong Cơng ước thì sẽ được giải quyết chiếu theo các nguyên tắc chung mà từ đó Cơng ước được
hình thành”.


13

(nguyên đơn) và bên bán Đức (bị đơn) 32, Tòa án Trọng tài Thương mại quốc tế của
Liên bang Nga đã nhận định bên mua hồn tồn có thể dựa vào Điều 4.2 hợp đồng
giữa các bên để làm căn cứ tuyên bố hủy hợp đồng nên đã cho phép hủy bỏ một
phần hợp đồng và giải quyết hậu quả pháp lý tương ứng.
1.1.3 Hậu quả pháp lý của chế tài hủy hợp đồng theo CISG
(i) Chấm dứt hiệu lực hợp đồng, trừ những khoản bồi thường thiệt hại
Theo quy định tại Điều 81(1) CISG, “việc hủy hợp đồng giải phóng hai bên

khỏi những nghĩa vụ của họ, trừ những khoản bồi thường thiệt hại có thể có. Việc
hủy hợp đồng khơng có hiệu lực đối với quy định của hợp đồng liên quan đến việc
giải quyết các tranh chấp hay đến các quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong
trường hợp hợp đồng bị hủy.” Từ quy định trên, có thể nhận thấy hai vấn đề sau:
Thứ nhất, khi hợp đồng bị hủy, hợp đồng sẽ khơng cịn hiệu lực đối với các
bên, đồng nghĩa với việc các bên chấm dứt thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với
nhau, các bên được giải phóng khỏi việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hiện tại và
trong tương lai. Tức là, khi bên bán hủy hợp đồng thì bên mua được giải phóng khỏi
việc thực hiện nghĩa vụ thanh tốn và nhận hàng, ngược lại, nếu bên mua là bên hủy
hợp đồng thì bên bán sẽ khơng cịn nghĩa vụ phải giao hàng, chuyển giao quyền sở
hữu về hàng hóa và giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua.
Thứ hai, mặc dù hậu quả pháp lý chính của việc hủy hợp đồng là giải phóng các
bên khỏi việc thực hiện nghĩa vụ nhưng điều này khơng có nghĩa rằng tất cả các điều
khoản của hợp đồng cũng tự động hết hiệu lực. Hiệu lực hợp đồng bị hủy không bao
gồm các điều khoản về giải quyết tranh chấp hay các quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên
trong trường hợp hợp đồng bị hủy, đặc biệt là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Khi có
hành vi vi phạm, nhất là vi phạm cơ bản dẫn đến hủy hợp đồng, thiệt hại là điều không
tránh khỏi. Điều 81(1) CISG khẳng định việc hủy hợp đồng không giải

32
Russia, 16 February 1998 the ICAC at the RF CCI (Waren case), tham khảo tại
/>

14

phóng hai bên khỏi những khoản bồi thường thiệt hại có thể có. Khi đó, việc bồi
thường thiệt hại sẽ được thực hiện theo Điều 74 đến Điều 77 CISG. Như vậy, khi áp
dụng chế tài hủy hợp đồng, hai bên sẽ giải thoát cho nhau tất cả mọi nghĩa vụ của
hợp đồng, trừ những nghĩa vụ phát sinh sau khi hủy hợp đồng và từ giải quyết tranh
chấp. Điều này là quan trọng và cần thiết bởi nếu không được giải quyết thỏa đáng

thì xung đột sẽ càng trầm trọng thêm 33. Hơn nữa, các điều khoản giải quyết tranh
chấp không chỉ giúp các bên bảo đảm quyền và lợi ích của mình mà cịn là cơng cụ
bổ trợ cho việc hủy hợp đồng.
Có thể thấy LTM Việt Nam cũng thống nhất quan điểm này. Tại Điều 314(1),
LTM quy định: “sau khi hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm
giao kết, các bên khơng phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp
đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải
quyết tranh chấp.” Ngoài ra, tại Điều 314(3), LTM cũng ghi nhận rằng: “Bên bị vi
phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này”. Điều 316
LTM tiếp tục thể hiện sự thống nhất trên với nội dung: “Một bên không bị mất quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã
áp dụng các chế tài khác”. Như vậy, trong khi áp dụng chế tài hủy hợp đồng, bên bị

vi phạm cịn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ các trường hợp được quy
định tại Điều 294 LTM.
(ii) Phát sinh nghĩa vụ hồn lại những gì đã cung cấp hoặc đã thanh tốn
Ngồi ra, có thể thấy chế tài hủy hợp đồng có hiệu lực hồi tố và kéo theo đó,
nó đặt các bên trở lại tình trạng trước khi ký kết hợp đồng, tức là những nghĩa vụ
chưa thi hành sẽ bị hủy và những nghĩa vụ đã thi hành sẽ được thu hồi lại 34. Điều
81(2) CISG quy định: “Bên nào đã thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng có
thể địi bên kia hồn lại những gì họ đã cung cấp hay đã thanh toán khi thực hiện

33

Nguyễn Minh Hằng (chủ biên) (2016), 101 câu hỏi – đáp về Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, Nxb. Thanh niên, tr.81.
34
Võ Sỹ Mạnh, tlđd (22), tr.55.



15

hợp đồng. Nếu cả hai bên đều bị buộc phải thực hiện việc hồn lại, thì họ phải làm
việc này cùng một lúc”.
Chính hợp đồng bị hủy đã làm thay đổi quan hệ hợp đồng giữa bên bán và
bên mua sang quan hệ hoàn lại. Đối với bên bán, nếu trong quá trình thực hiện hợp
đồng bên mua đã thanh tốn tồn bộ hoặc một phần giá trị hợp đồng cho bên bán thì
khi hợp đồng bị hủy bên mua có quyền u cầu bên bán hồn lại số tiền mà bên mua
đã thanh toán cho bên bán theo hợp đồng. Đối với bên mua, nếu bên bán đã giao
một phần hoặc tồn bộ hàng hóa theo hợp đồng thì khi hợp đồng bị hủy, bên bán có
quyền yêu cầu bên mua hoàn trả lại một phần hoặc toàn bộ hàng hóa đã giao trong
tình trạng “về thực chất giống như tình trạng khi họ nhận hàng đó”35. Bên mua đồng
thời cũng phải hoàn trả cho bên bán “số tiền tương đương với mọi lợi nhuận” mà
bên mua đã được hưởng từ hàng hóa hoặc một phần hàng hóa 36. Tương tự, khi bên
bán hoàn lại tiền hàng cho bên mua thì họ phải trả tiền lãi trên tổng số tiền hàng đó
kể từ ngày bên mua thanh tốn37.
Ngồi ra, khi đề cập đến nghĩa vụ hoàn lại, CISG vẫn ưu tiên phải trả lại hàng
trước, khơng có hàng mới đến tiền, trong khi hiện nay, việc trả lại bằng tiền luôn là
cách đơn giản và hiệu quả hơn. Quy tắc này có nguồn gốc từ luật La Mã và vẫn hiện
diện trong luật mua bán hàng hóa của một số nước theo truyền thống Dân luật, và do
đó, biện pháp hủy hợp đồng sẽ bị loại trừ nếu hàng hóa đã bị tổn hại hoặc hư hỏng hoặc
38

thay đổi đến mức chúng khơng thể được trả lại trong tình trạng ban đầu . Nguyên tắc
hoàn trả in natura này là một điểm yếu trong Cơng ước, do nó kém phù hợp với xu
hướng thương mại quốc tế hiện đại. Vì thế, rất dễ hiểu khi các PICC, PECL và Dự thảo
Khung tham chiếu chung (DCFR) đã không kế thừa Công ước về

35


Điều 82(1) CISG

36

Điều 84(2) CISG
Điều 84(1) CISG

37
38

Điều 207 Luật Nghĩa vụ Thụy Sỹ; Điều 391–394 Bộ luật Dân sự Hy Lạp; Điều. 1647(1) Bộ luật Dân sự
Pháp.


16

điểm này mà thay vào đó, quy định rõ rằng nghĩa vụ hoàn trả sẽ được thực hiện
bằng tiền.39
Đối chiếu với LTM Việt Nam, theo quy định tại Điều 312 LTM, hủy bỏ hợp
đồng được phân thành hai loại: hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp
đồng. Hậu quả pháp lý của hai loại này không giống nhau. Hủy bỏ một phần hợp
đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong
hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Trong khi đó, hủy bỏ tồn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ
hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng.
Hợp đồng sẽ khơng có hiệu lực tồn bộ kể từ thời điểm giao kết, các bên không phải
tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ các điều khoản
thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh
chấp. Điều 314(2) LTM quy định tương tự CISG khi cho phép các bên có quyền địi
lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên
đều có nghĩa vụ hồn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường

hợp khơng thể hồn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hồn trả
bằng tiền. Nhìn chung, có thể thấy rõ sự tương đồng về hậu quả pháp lý của chế tài
hủy hợp đồng trong CISG và LTM Việt Nam.
1.2 Khái quát về vi phạm cơ bản hợp đồng theo CISG
1.2.1 Khái niệm vi phạm hợp đồng theo CISG
Trong bối cảnh thông thường, vi phạm được hiểu là “không tuân theo hoặc làm
40

trái những điều quy định” . Trong khoa học pháp lý, một số học giả đã đưa ra những
định nghĩa của riêng mình. Tác giả David Kelly cho rằng “vi phạm hợp đồng xảy ra khi
một trong các bên tham gia hợp đồng khơng thực hiện, hồn tồn hoặc thỏa đáng, nghĩa
vụ hợp đồng. Một vi phạm hợp đồng có thể xảy ra dưới 3 dạng: (1) Khi một bên, trước
thời hạn thực hiện hợp đồng, tuyên bố rằng họ sẽ không thực hiện
39

Điều 7.3.6 đoạn 1 PICC; Điều 9:309 PECL; Điều III.-3:511 đoạn. 3, 4 DCFR.

40

Hoàng Phê, tlđd (1), tr.1466.


17

nghĩa vụ hợp đồng; (2) khi một bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; (3) khi một
bên thực hiện khơng đúng nghĩa vụ hợp đồng” 41. Cịn tác giả Dương Anh Sơn nhận
định “hành vi vi phạm hợp đồng là những biểu hiện khách quan dưới dạng hành
động hoặc không hành động trái với các nội dung mà các bên đã thỏa thuận” 42.
Để chỉ hành vi vi phạm hợp đồng, các hệ thống pháp luật trên thế giới sử
dụng các thuật ngữ khác nhau: “không thực hiện hợp đồng (inexécution hay nonperformance)”, “vi phạm hợp đồng (breach of contract)” hay “vi phạm nghĩa vụ

(Pflichtverletzung)”. Mặc dù có sự khác biệt trong việc sử dụng thuật ngữ nhưng
khoa học pháp lý thế giới đều tiếp cận hành vi không thực hiện đúng hợp đồng theo
một trong hai cách: tiếp cận đơn hoặc tiếp cận kép 43. Cách tiếp cận đơn, có nguồn
gốc từ luật hợp đồng Anh và là cách tiếp cận của các quốc gia thuộc hệ thống Thông
luật, sử dụng một khái niệm duy nhất để chỉ mọi hành vi không thực hiện đúng hợp
đồng, dưới các dạng khơng thực hiện một phần, khơng thực hiện tồn bộ, chậm thực
hiện hay có khiếm khuyết trong việc thực hiện hợp đồng. Trong khi đó, cách tiếp
cận kép khơng đưa ra một khái niệm chung mà liệt kê từng trường hợp không thực
hiện đúng hợp đồng như vi phạm hợp đồng do bất khả kháng, vi phạm hợp đồng do
chậm thực hiện nghĩa vụ và vi phạm hợp đồng do thực hiện hợp đồng có khiếm
khuyết. Đây cũng là cách tiếp cận dễ thấy trong Luật nghĩa vụ cũ của Đức và của
các quốc gia chịu ảnh hưởng của Đức như Áo hay Thụy Sĩ44.
Khác với các hệ thống pháp luật trên, pháp luật hợp đồng Việt Nam sử dụng
cả thuật ngữ “vi phạm” và “không thực hiện” để chỉ hành vi không thực hiện đúng
hợp đồng. Cụ thể, trong khi LTM sử dụng thống nhất thuật ngữ “vi phạm hợp đồng”
để chỉ mọi hành vi không thực hiện hợp đồng, cho dù là không thực hiện một phần,

41
42

David Kelly (2002), Business Law, Cavendish Publishing, UK, tr.182.

Dương Anh Sơn (2007), “Tác động của các hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm hợp đồng”, Tạp
chí Khoa học pháp lý, Số 1(138)/2007, tr.34.
43
Mathias Reimann, Reinhard Zimmermann (2006), The Oxford Handbook of Comparative Law, Oxford
University, tr.956 - trích dẫn thơng qua Bùi Thị Thanh Hằng (2018), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.15.
44
Petar Sarcevic, Paul Volken (1986), “International Sale of Goods: Dubrovnik Lectures”, Oceana

publications, tr.318, trích dẫn thông qua Bùi Thị Thanh Hằng (2018), tlđd (43), tr.22.


18

khơng thực hiện tồn bộ, chậm thực hiện hay có khiếm khuyết trong việc thực hiện
hợp đồng45 thì BLDS lại sử dụng nhiều thuật ngữ như “vi phạm”, “không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng”, “không thực hiện đúng”. Trong LTM, định nghĩa “vi
phạm hợp đồng” được ghi nhận trực tiếp tại Điều 3(12). Theo đó, vi phạm hợp đồng
được hiểu là “việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật
này”. Không giống LTM, BLDS không trực tiếp đưa ra định nghĩa “vi phạm hợp
đồng” mà khái niệm vi phạm hợp đồng được biết đến thông qua khái niệm “vi phạm
nghĩa vụ” được quy định tại Điều 351(1). Dựa trên quy định này, có thể xác định vi
phạm nghĩa vụ nói chung và vi phạm nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng nói riêng bao
gồm các trường hợp “khơng thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn”, “thực hiện không
đầy đủ nghĩa vụ”, “thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ”. Như vậy, có thể
nhận thấy BLDS cũng như LTM đã lựa chọn cách tiếp cận đơn khi đề cập đến khái
niệm vi phạm hợp đồng.
Mặc dù không đưa ra định nghĩa, CISG tiếp cận khái niệm “vi phạm hợp đồng”
theo nghĩa rộng nhất, bao gồm tất cả các hành vi không tuân thủ quy định của hợp đồng
như không thực hiện nghĩa vụ, chậm thực hiện nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ không đầy
đủ hoặc không phù hợp mà khơng phân biệt đó là nghĩa vụ chính hay phụ, kể cả những
46

trường hợp được miễn trách nhiệm . Đây cũng là biểu hiện của cách tiếp cận đơn. Do
đó, vi phạm hợp đồng theo quy định của CISG được hiểu là việc không thực hiện nghĩa
vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, bao gồm cả những nghĩa vụ cam kết trong hợp
đồng, nghĩa vụ phát sinh từ các tập quán mà các bên đã thỏa thuận, từ những thói quen
thiết lập trong mối quan hệ kinh doanh giữa họ và từ quy định của chính CISG. Hành vi

vi phạm hợp đồng của bên vi phạm có thể là vi phạm thực tế hoặc vi phạm dự đoán
trước, tức là ngoài những hành vi vi phạm đã xảy

45
46

Điều 3(12), Điều 40, Điều 61, Điều 294, Điều 295 LTM

Michael Maggi (2002-2003), Review of the Convention on Contracts for the International Sale of
Goods (CISG), Kluwer Law International, tr.18.


×