Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Tổng quan nghiên cứu đánh giá rủi ro do xâm nhập mặn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.79 KB, 3 trang )

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
ĐÁNH GIÁ RỦI RO DO XÂM NHẬP MẶN
1

2

2

2

Nguyễn Văn Đào , Vũ Thanh Tú , Nguyễn Mai Đăng , Trần Hồng Thái
1
Liên đồn Khảo sát Khí tượng Thủy văn, email:
2
Trường Đại học Thủy lợi

1. MỞ ĐẦU

Luật phòng, chống thiên tai của Việt Nam
(số 33/2013/QH13) quy định: rủi ro thiên tai
là thiệt hại mà thiên tai có thể gây ra về
người, tài sản, mơi trường, điều kiện sống và
hoạt động kinh tế - xã hội. Rủi ro thiên tai
xuất hiện từ việc kết hợp giữa hiểm họa tự
nhiên và tính dễ bị tổn thương của các yếu tố
bị phơi bày trước hiểm họa, làm tăng khả
năng khơng thực hiện được các chức năng
bình thường của xã hội bị ảnh hưởng khi
thiên tai xảy ra (IPCC, 2012). Khác với các


loại hình thiên tai như bão và lũ lụt, xâm
nhập mặn lại diễn ra chậm và có thể gây ra
thiệt hại trong thời gian dài. Bởi vậy, những
tác động của xâm nhập mặn đối với mơi
trường, KTXH có thể cũng không nhỏ. Trong
bối cảnh BĐKH và nước biển dâng như hiện
nay, đánh giá rủi ro do xâm nhập mặn trở nên
rất cần thiết, thơng qua đó có thể cảnh báo
những tác động tiêu cực và đề xuất giải pháp
ứng phó trong tương lai.
Từ nghiên cứu các tài liệu, báo cáo và bài
báo khoa học đã công bố, bài báo này khái quát
về những nghiên cứu đánh giá rủi ro do xâm
nhập mặn, các phương pháp đã được áp dụng
và chỉ ra những hạn chế, những khó khăn trong
nghiên cứu, qua đó giúp định hướng những
nghiên cứu phát triển bộ tiêu chí đánh giá rủi ro
phù hợp với điều kiện của từng vùng.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐÁNH
GIÁ RỦI RO DO XÂM NHẬP MẶN

Nhiều nghiên cứu đánh giá rủi ro và tính
dễ bị tổn thương trong quá khứ đã bị chỉ trích

rằng nhấn mạnh quá nhiều ảnh hưởng đến yếu
tố vật lý, dẫn đến sự tách biệt các yếu tố vật lý
và kinh tế xã hội (Blaikie P. & nnk, 1994;
Gough J.D & nnk, 1998; IPCC, 2001; Nicholls
S., 2005). Các nghiên cứu gần đây về tính dễ
bị tổn thương ở vùng ven biển đã cố gắng áp

dụng cách tiếp cận đánh giá tích hợp hơn bằng
cách đo lường cả tổn thương các yếu tố vật lý
và tình trạng kinh tế xã hội để kết hợp chúng
với nhau thông qua một hệ thống chỉ số dễ bị
tổn thương tổng hợp (Cutter S.L. & nnk, 2000;
Wu S. & nnk, 2002; Boruff B.J. & nnk, 2005;
Preston B.L. & nnk, 2008).
Trong nghiên cứu thường niên từ năm
2011 - 2016, Hilft B.E đã đưa ra chỉ số rủi ro
do thiên tai trên phạm vi 171 quốc gia được
tính từ 28 biến bao gồm 4 thành phần: Độ
phơi bày trước hiểm họa, Tính nhạy, Khả
năng thích ứng và Khả năng đối phó với 5
loại rủi ro: động đất, lốc xoáy, lũ lụt, hạn hán
và mực nước biển dâng. Kết quả là giá trị chỉ
số cho mỗi thành phần được chia thành các
lớp và được biểu diễn dưới dạng các bản đồ
dựa trên GIS. Tác giả nhận định rằng độ lớn
và thời gian của một hiện tượng tự nhiên
không phải lúc nào cũng là lý do chính của
thảm họa mà cấu trúc xã hội và các điều kiện
kinh tế chính trị cũng đóng một vai trò rất
quan trọng dẫn tới rủi ro cao hoặc thấp. Cũng
nhìn nhận đến vai trị của yếu tố chính trị xã
hội, Wongbusarakum S. và Loper C., 2011
cũng đưa ra một bộ chỉ số liên quan đến
BĐKH. Hầu hết các chỉ số trong nghiên cứu
này biểu thị năng lực thích ứng thơng qua
điều kiện xã hội, kinh tế và chính trị của cộng
đồng cũng như sự quản lý và thể chế có liên

quan. Sự phức tạp của năng lực thích ứng xã

563


Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3

hội địi hỏi chúng ta phải tính đến các đặc
điểm xã hội khác nhau của các cá nhân, hộ
gia đình và cộng đồng cùng một lúc.
Quan tâm đến các khía cạnh kinh tế, xã hội
trong đánh giá tính dễ bị tổn thương do xâm
nhập mặn, Colburn & nnk, 2016 đã xây dựng
các chỉ số tính dễ bị tổn thương đối với các ngư
dân vùng ven biển. Nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng tính dễ bị tổn thương cần phải được
nghiên cứu kỹ trong từng điều kiện của các
vùng ven biển khác nhau, về kinh kế, dân số và
năng lực ứng phó khác nhau. Sự mở rộng của
các tiêu chí sẽ làm rõ hơn mối quan hệ phức
tạp giữa BĐKH và tính dễ bị tổn thương, từ đó
làm rõ hơn và nâng cao nhận thức về những tác
động và khả năng ứng phó. Các tác giả Haider
và Hossai, 2013 cũng đã đánh giá những tác
động của xâm nhập mặn đến sinh kế của nơng
dân và hoạt động ứng phó của họ đối với vấn
đề xâm nhập mặn tại 4 làng thuộc quận
Satkhira, Bangladesh. Thông qua các phiếu
điều tra và phỏng vấn trực tiếp người dân địa
phương, kết quả cho thấy trong khi những tác

động bất lợi tới nguồn thu nhập, sự tiêu dùng
và cơ hội nghề nghiệp do xâm nhập mặn thì
những tác động tích cực về hoạt động ni
trồng tơm lại khá có triển vọng.
Trong lĩnh vực nơng nghiệp, nghiên cứu về
ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến sản lượng
lúa, Farshid F., 2013 đã chỉ ra rằng, xâm nhập
mặn có ảnh hưởng lớn làm suy giảm sản lượng
cây trồng, tuy nhiên nước nhiễm mặn vẫn có
thể sử dụng nếu sự suy giảm sản lượng có thể
khắc phục. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự gia
tăng độ mặn làm suy giảm lớn đến sản lượng
hạt, sự kết bông, chất lượng hạt và thu hoạch
nhưng lại khơng có ảnh hưởng nhiều đến sự
sinh trưởng, trọng lượng của hạt, số lượng
nhánh và chiều cao của cây trồng. Các nghiên
cứu khác của Akihiko K., 2018 hay của Yen
T.B.N, 2016 đều có đánh giá ảnh hưởng của
xâm nhập mặn đến sản lượng lúa. Tuy nhiên
các nghiên cứu này lại chỉ tập trung vào khía
cạnh về thiệt hại (độ phơi bày) và ít quan tâm
tới các yếu tố khác.
Ứng dụng các cơng nghệ tiên tiến phân
tích đánh giá rủi ro, tính dễ bị tổn thương do
xâm nhập mặn, đa phần các nghiên cứu đều
dựa trên nền tảng của cơng nghệ GIS

(Eriksson Marcus, 2017) ví dụ như nghiên
cứu của El-Raey & nnk, 2015 đã đánh giá
tính dễ bị tổn thương và khả năng ứng phó

dưới tác động của BĐKH đến vùng
Alexandria bằng mơ hình DIVA-GIS. Đây là
mơ hình nhằm kết hợp các moduyn từ những
phần riêng lẻ nhằm hỗ trợ cho q trình phân
tích tổng hợp từ các điều kiện khác nhau,
thông qua các bản đồ số hóa. Kết quả cho
thấy, ảnh hưởng lớn nhất là các khu công
nghiệp, trung tâm nghiên cứu, cảng, khu vực
đô thị, cơ sở hạ tầng vùng ven biển và hệ
thống đường sắt.
Việt Nam cũng rất chủ động đưa ra những
nghiên cứu, giải pháp, dự báo và cảnh báo
xâm nhập mặn (Lã Thanh Hà, 2006; Đoàn
Thanh Hằng, 2010; Phạm Tất Thắng, 2012).
Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu mới chỉ
xét tới diễn biến và cơ chế theo các kịch bản
mà rất ít những đánh giá về rủi ro, tính dễ bị
tổn thương do xâm nhập mặn gây ra. Một số
nghiên cứu của Thái Thành Lượm & nnk,
2009 đánh giá tính dễ bị tổn thương của hệ
thống vùng biển Hà Tiên - vịnh Cây Dương
(Kiên Giang); Tô Ngọc Thúy & nnk, 2010
nghiên cứu đánh giá tổn thương do nước biển
dâng ở Thừa Thiên Huế, tập trung vào các
ngành: nông nghiệp, công nghiệp, thủy sản;
Đinh Thái Hưng & nnk, 2013 nghiên cứu,
xây dựng chỉ số tính dễ bị tổn thương cho
vùng bờ biển Việt Nam trong các kịch bản
nước biển dâng, theo hai thành phần là tính
nhạy và khả năng chống chịu của hệ thống bờ

biển để thích ứng với những biến đổi của
điều kiện môi trường. Nghiên cứu của
Nguyen Thanh Binh, 2015 đánh giá tính dễ bị
tổn thương của các nhóm xã hội khác nhau
đối với xâm nhập mặn và các vấn đề liên
quan ở các cộng đồng ven biển của đồng
bằng sông Cửu Long để cải thiện hiểu biết
của chúng ta về các hiểm họa có tính diễn
biến chậm như xâm nhập mặn, từ đó giúp các
nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra các
biện pháp thích ứng phù hợp.
Việt Nam cũng ban hành Luật phòng,
chống thiên tai năm 2013 và Quy định chi tiết
về cấp độ rủi ro thiên tai, số: 44/2014/QĐTTg năm 2014, trong đó điều 13 đề cập phân

564


Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3

cấp độ rủi ro thiên tai do xâm nhập mặn gồm có thể thực hiện thơng qua các cuộc điều tra
2 cấp dựa trên độ mặn, phạm vi, thời gian lấy ý kiến.
Mặc dù vậy, việc phát triển tổng hợp các
ảnh hưởng và tổng lượng nước thiếu hụt.
chỉ số vẫn còn một số thách thức cần phải đề
3. PHÁT TRIỂN BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ cập tới, đó là: (1) Sự sẵn có của các dữ liệu,
RỦI RO VÀ CÁC THÁCH THỨC
nó có thể là yếu tố quyết định trong việc lựa
Nhìn chung các nghiên cứu đánh giá rủi ro chọn các biến để đưa vào bộ chỉ số; (2) Việc
hoặc tính dễ bị tổn thương do xâm nhập mặn áp dụng các chỉ số nhất định ở nhiều cấp độ

so với các loại hình thiên tai khác như lũ lụt, và trong các bối cảnh khác nhau có thể làm
hạn hán có số lượng khơng lớn với những cho hiểu lầm; (3) Việc sử dụng dữ liệu từ các
hạn chế nhất định, ví dụ như từ cơ sở dữ liệu, cuộc điều tra có thể làm tăng mức độ về quan
phương pháp thực hiện v.v.. Trong khi đó với điểm; (4) Bằng cách đơn giản hoá các khái
các loại hình thiên tai khác như lũ lụt, hạn niệm phức tạp và sử dụng các quy trình tổng
hán lại đa dạng hơn với nhiều cách tiếp cận hợp khó hiểu, một số phương pháp có thể
phù hợp với từng điều kiện địa phương.
làm giảm tiện ích hoặc thậm chí dẫn đến việc
Các nghiên cứu gần đây đã tiếp cận xác ra quyết định không phù hợp.
định rủi ro theo khái niệm rủi ro là hàm của
độ phơi bày, tính dễ bị tổn thương và hiểm 4. KẾT LUẬN
họa. Trong nhiều nghiên cứu đặc biệt là với
Đã có nhiều nghiên cứu đánh giá những
các nghiên cứu đánh giá tác động của BĐKH tác động cũng như rủi ro và tính dễ bị tổn
thì các tác giả thường xét đến tính dễ bị tổn thương do xâm nhập mặn trên Thế giới và ở
thương với độ phơi bày và hiểm họa có thể Việt Nam, các phương pháp thường được áp
được thể hiện bằng các chỉ số trong đó. Cùng dụng đó là xây dựng các bộ chỉ số bao gồm
với đó, để đánh giá tính dễ bị tổn thương các tiêu chí về tính nhạy, độ phơi bày, khả
nhiều nghiên cứu lại chỉ xét đến các khía năng ứng phó trước hiểm họa. Thơng qua
cạnh mang tính xã hội như tính nhạy và khả điều tra bằng bộ câu hỏi, các tài liệu thống
năng ứng phó hơn là góc độ thiệt hại về kinh
kê, các kết quả được tổng hợp và thể hiện
tế khi xâm nhập mặn xảy ra. Có thể thấy, bằng các chỉ số trên bản đồ GIS.
những hạn chế của các phương pháp này là
Mặc dù còn có những hạn chế nhất định
tính khơng chắc chắn và sai số có thể dẫn tới
trong phương pháp và tính đa dạng, tuy nhiên
các quyết định khơng phù hợp. Vì vậy, các
khung chỉ số tổng hợp có chất lượng và độ trong những đặc điểm tự nhiên và điều kiện
tin cậy cao khi có: (1) Xem xét mục đích, đặc KTXH khác nhau, các tác giả đã nỗ lực phát

biệt là liệu nó có cần thiết để so sánh trong triển bộ chỉ số và cho thấy những vấn đề
đáng quan tâm trong việc giảm thiểu những
nhiều vùng hoặc để tự đánh giá tại chỗ hay
không; (2) Lựa chọn các biến liên quan trực tác động. Bài báo này cũng đã chỉ ra những
tiếp và có ảnh hưởng cụ thể đến giá trị của rủi vấn đề cần lưu ý và những thách thức khi
ro, tính dễ bị tổn thương hoặc khả năng phục phát triển bộ chỉ số để đảm bảo tính phù hợp
hồi; (3) Các giá trị cần được xác định rõ và đem lại hiệu quả trong đánh giá rủi ro do
nguồn số liệu, cơ quan, năm công bố và các xâm nhập mặn.
từ ngữ của các câu hỏi khảo sát được sử
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
dụng. Điều này có thể đặc biệt quan trọng để
tăng tính minh bạch trong việc ra quyết định; [1] Bündnis Entwicklung Hilft (2011 - 2016),
World Risk Report.
(4) Các kết quả nên được đưa ra dưới dạng
các bảng, đồ thị và bản đồ để nâng cao sự [2] Blaikie, P., Cannon, T., Davis, I. and
Wisner, B., 1994, At Risk: Natural Hazards ,
hiểu biết và có thể nhận dạng được bằng các
People’s Vulnerability and Disaster,
cơng cụ máy tính và người dùng cuối; (5)
London, Routledge.
Cần có kiểm định giá trị của các chỉ số. Nó
565



×