Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Đánh giá khái quát về công tác tiêu thụ của công ty xi măng Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.06 KB, 75 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................... 1
Lời Mở Đầu............................................................................................1
Chương 1- Giới thiệu chung về công ty Xi măng Hải Phòng...............3
Chương 2- Thực trạng về tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty xi
măng Hải Phòng ..................................................................................17
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản
phẩm ở công ty xi măng Hải Phòng.....................................................56
Kết luận................................................................................................. 72
Danh mục tài liệu tham khảo...............................................................74
Chuyên đề tốt nghiệp 1 Bùi Xuân Hải-TH47A
Lời Mở Đầu
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, một nội dung vô cùng
quan trọng là đổi mới cơ chế quản lý đang diễn ra ở các doanh nghiệp và các
thành phần kinh tế. Cơ chế quản lý theo tiêu chuẩn kế hoạch hoá tập trung bao
cấp đã bị xoá bỏ, cơ chế thị trường từng bước được xác lập với xác lập của
Nhà nước. Nó đã mở ra triển vọng phát triển cho tất cả các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, cho dù doanh nghiệp với thành phần sở hữu
nào cũng đều có quyền bình đẳng như nhau, đều có sự tồn tại và phát triển.
Chung quy lại nếy biết giải quyết tốt 3 vấn đề kinh tế cơ bản:
- Sản xuất cái gì?
- Sản xuất cho ai?
- Sản xuất như thế nào?
Triển vọng ở trước mặt, những nguy cơ thất bại cũng nhãn tiền nếu
không giải quyết tốt, còn để tồn tại, khúc mắc ở một mặt nào đó. Chẳng hạn
vấn đề “Sản xuất cho ai?” nếu không sản xuất được, tức là cái mà doanh
nghiệp sản xuất ra không phục vụ cho đối tượng tiêu dùng nào, không phù
hợp với nhu cầu, không được thị trường chấp nhận... Thì sớm hay muộn
doanh nghiệp cũng đi đến chỗ lụi bại và phá sản.
Công ty xi măng Hải Phòng mà một doanh nghiệp Nhà nước, cũng như
các doanh nghiệp khác khi chuyển sang cơ chế mới được dành nhiều quyền


chủ động song cũng phải đối phó với không ít những khó khăn mới, nếu
không xử lý tốt sẽ dẫn đến thất bại.
Công ty được quền tự chủ, xác định lấy nhiệm vụ sản xuất kinh doanh là
chính và tất nhiên là phải lo đủ vật tư, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất
và tổ chức tiêu thụ sản phẩm để thu hồi vốn, bù đắp cho chi phí, đạt hiệu quả
cao có lãi. Để không bị đào thải trong cạnh tranh, được nằm trong danh sách
Chuyên đề tốt nghiệp 2 Bùi Xuân Hải-TH47A
các doanh nghiệp phát triển luôn là vấn đề trăn trở chra các lãnh đạo và cán
bộ công nhân viên công ty. Với cố gắng tìm tòi lời giải đáp cho sự tồn tại và
phát triển dần được tháo gỡ, các sản phẩm của công ty sản xuất ra rồi, nhưng
làm thế nào để tiêu thụ được, đẩy mạnh tiêu thụ hơn nữa và sớm thu hồi được
vốn, phcụ vụ mở rộng sản xuất ở chu kỳ sau luôn là vấn đề thời sự.
Được đăng ký thực tập tại công ty xi măng Hải Phòng, qua khảo sát và
tìm hiểu thực tế, tôi thấy vấn đề tiêu thụ đang có rất nhiều vấn đề cần giải
quyết. Vì vậy tôi đã quan tâm nghiên cứu vấn đề tiêu thụ sản phẩm của công
ty với đề tài: “Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản
phẩm ở công ty xi măng Hải Phòng”.
Chuyên đề tốt nghiệp 3 Bùi Xuân Hải-TH47A
Chương 1- Giới thiệu chung về công ty Xi măng Hải Phòng.
1.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của công ty xi măng Hải
Phòng.
Tên doanh nghiệp : Công ty Xi măng Hải Phòng.
Tên giao dịch tiếng anh : Hai Phong Cenment Company.
Địa chỉ : Tràng Kênh – Minh Đức – Thủy Nguyên.
Mã số thuế : 020015521.
Diện tích : 3.161.000 m2.
Tổng cán bộ công nhân viên hiện nay là hơn 1200 người.
Công ty Xi măng Hải Phòng là doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Tổng
công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam. Được thành lập theo Quyết định số
353/BXD-TCLĐ, ngày 09/8/1993 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Tiền thân của

Công ty là nhà máy Xi măng Hải Phòng, được Đế quốc Pháp xây dựng ngày
25/12/1899 trên vùng đất ngã ba Sông Cấm và Kênh đào Hạ Lý.
Xi măng Hải Phòng được ra đời sớm nhất ở Việt Nam và Đông Dương,
từ lâu được coi là những trọng điểm kinh tế của đất nước và là cái “Nôi” của
ngành Công nghiệp Xi măng Việt Nam.
Từ năm 1899 – 1925 : Đây là giai đoạn khởi công xây dựng và đi vào
sản xuất, toàn bộ nhà máy có 04 lò đứng theo phương pháp khô ( nửa thủ
công) năm 1925 phát triển thêm thành 25 lò đứng theo kiểu Vertical Candlot
sản xuất Xi măng theo phương pháp khô, hoạt động nửa thủ công, nửa cơ khí.
Công suất thiết kế có khả năng sản xuất 150.000 tấn/năm.
Ngày 8/1/1930 dưới sự lãnh đạo và tổ chức của Chi bộ Đảng đã phát
động cuộc đình công lớn thu hút gần 2000 công nhân tham gia đấu tranh với
giới chủ, đòi tăng lương, giảm giờ làm... Ngày 8/1/1930 đã trở thành ngày
truyền thống cách mạng của Công nhân xi măng Hải Phòng và nay trở thành
Chuyên đề tốt nghiệp 4 Bùi Xuân Hải-TH47A
ngày truyền thống của công nhân viên chức ngành Công nghiệp Xi măng Việt
Nam.
Trong thời kỳ giành chính quyền (1941-1945) cũng như trong 9 năm
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) Đảng bộ Xi măng Hải Phòng
luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường, sáng tạo để đóng góp sức
người, sức của cho chiến tranh giải phóng dân tộc. Sau Hiệp định Giơ - Ne -
Vơ về Đông Dương (1954), địch âm mưu phá hoại nhà máy, di chuyển máy
móc thiết bị vào Nam, Cấp uỷ đảng đã lãnh đạo cán bộ đảng viên, công nhân
Xi măng Hải Phòng mưu trí, dũng cảm phân tán cất giấu máy móc. Đến năm
1955 Chính quyền ta tiếp quản, hàng nghìn công nhân đã trở lại làm việc và
mang máy móc đã cất giấu về lắp đặt, sửa chữa khôi phục nhà máy.
Từ năm 1925 - 1954 Công ty sản xuất theo phương pháp ướt lò hiện đại (
3 lò nung ) tổ chức theo giây truyền khép kín sản lượng đạt trên 305.000 tấn
xi măng đen / năm.
- Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, Xi măng

Hải Phòng là những mục tiêu trọng điểm của đế quốc Mỹ ném bom phá hoại,
nhà máy đã bị Mỹ phá hoại năng nề, nhiều lò nung không hoạt động được.
Nhưng Cán bộ đảng viên công nhân viên chức Công ty đã hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ vẻ vang của mình tiếp tục tiếp quản và khôi phục lại hoàn toàn
dây truyền sản xuất xi măng đen của thực dân Pháp để lại. Được sựu giúp đỡ
và đầu tư của nhà nước Rumani, 2 dây truyền lò Nung số 6 và số 7 ra đời.tiếp
tục tiếp quản và khôi phục lại hoàn toàn dây truyền sản xuất xi măng đen của
thực dân Pháp để lại. Được sự giúp đỡ và đầu tư của nhà nước Rumani, 2 dây
truyền lò Nung số 6 và số 7 ra đời .Với những khẩu hiệu “ Trái tim còn đập,
Lò còn quay”; “ Hãy sản xuất nhiều xi măng cho Tổ quốc”...thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) và kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1966
-1970). Công ty nghiên cứu sản xuất thành công xi măng mác P600 để dự xây
Chuyên đề tốt nghiệp 5 Bùi Xuân Hải-TH47A
dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo Tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cầu
Thăng Long, Thuỷ điện Hoà Bình và một số công trình trọng điểm của đất
nước.
- Sau năm 1975 đất nước thống nhất, cán bộ công nhân viên nhà máy đã
nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình là nhà máy duy nhất ở miền bắc lúc
đó nên phải gồng mình lên vượt qua mọi thử thách với khẩu hiệu “Hãy sản
xuất nhiều Xi măng cho Tổ quốc” để mau chóng hàn gắn vết thương chiến
tranh. Chính những năm tháng này nhà máy đã sản xuất được Xi măng P400,
P500, P600 và nhiều chủng loại Xi măng khác đáp ứng kịp thời những nhu
cầu cấp bách đặt ra.
Mười năm đổi mới cũng là thời kì thử thách khốc liệt nhất. Trước đây ở
Việt Nam chỉ có duy nhất một nhà máy Xi măng Hải Phòng đến nay đã có
thêm rất nhiều nhà máy mới như Xi măng Chinh phong, Thủ Đức, Bỉm Sơn,
Thanh Hoá... và hàng chục nhà máy địa phương khác, nhà máy Xi măng Hải
Phòng lại đứng trước sự lựa chọn và thách thức mới. Với truyền thống sẵn có
nên toàn bộ nhà máy đã từng bước vượt lên chính mình, vượt lên trên hết khó
khăn để tồn tại và phát triển như ngày nay. Chất lượng Xi măng không ngừng

được nâng cao, công suất các thiết bị chính đến nay đã vượt xa công suất thiết
kế, sản lượng hàng năm đều vượt kế hoạch đề ra. Chính vì vậy đời sống công
nhân viên được đảm bảo, trật tự, kỉ cương an ninh được giữ vững.
- Năm 1993 thực hiện Quyết định số 353/BXD, ngày 9/8/1993 của Bộ
trưởng Bộ Xây dựng, nhà máy xi măng Hải phòng được sát nhập với Công ty
kinh doanh xi măng thành Công ty xi măng Hải Phòng vừa sản xuất, vừa kinh
doanh đã đáp ứng được với cơ chế thị trường.
- Thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá- hiện đại hoá, Đảng bộ Xi măng Hải Phòng đã ý thức được vấn đề cần
phải đổi mới công nghệ sản xuất để cạnh tranh và tồn tại trong điều kiện kinh
Chuyên đề tốt nghiệp 6 Bùi Xuân Hải-TH47A
tế thị trường. Mặt khác vấn đề quy hoạch đô thị, vấn đề trả lại môi trường
trong sạch cho nhân dân thành phố, càng đòi hỏi phải di dời chuyển đổi một
nhà máy đã quá cũ và lạc hậu về công nghệ sản xuất.
- Năm 1997 thực hiện Quyết định số 1019/TTg, ngày 29/11/1997 của
Thủ Tướng Chính phủ cho phép Công ty Xi măng Hải Phòng xây dựng nhà
máy mới, trên mảnh đất Tràng Kênh, bên cạnh dòng Sông Bạch Đằng lịch sử,
với dây chuyền công nghệ của hãng F.l.S.Midth Vương quốc Đan Mạch, tiên
tiến, hiện đại bậc nhất Việt Nam hiện nay, đạt trình độ tự động hoá cao, công
suất 1,4 triệu tấn sản phẩm năm.
- Năm 1998 nhà máy chính thức đổi tên thành Công ty Xi măng Hải
Phòng.
- Ngày 30/11/2005 mẻ clinker đầu tiên của nhà máy đã được ra lò đạt
chất lượng tốt, đánh dấu một bước ngoặt mới, một sự phát triển mới của Xi
măng Hải Phòng.
- Năm 2006, năm đầu tiên sản xuất đồng bộ tại Nhà máy mới, Công ty xi
măng Hải Phòng sản xuất và tiêu thụ vượt kế hoạch đề ra, không ngừng mở
rộng thị phận, giữ chữ tín về Chất lượng, hiệu quả với khách hàng. Đặc biệt
trong quý 1/2007, Công ty đã tiêu thụ được hơn 210.000 tấn xi măng tăng gấp
hơn 2 lần so với cùng kỳ năm trước - Đó là 1 tín hiệu vui.

1.2 Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty Xi Măng Hải Phòng.
Trên cơ sở những nguyên tắc, quan điểm trên Công ty Xi măng Hải
Phòng tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh theo mô hình phân xưởng, bộ máy
của Công ty được tổ chức sản xuất theo kiểu trực tuyến, chức năng nhiệm vụ
bao gồm : Ban lãnh đạo Công ty và các phòng ban trực thuộc sự quản lý sản
xuất và phục vụ sản xuất.
Chuyên đề tốt nghiệp 7 Bùi Xuân Hải-TH47A
Hiện tại công ty có 2 xí nghiệp trực thuộc là xí nghiệp Đá Tràng Kênh
và xí nghiệp vận tải và tiêu thụ sản phẩm 4 và có 5 phân xưởng sản xuất
chính. Trong đó:
+ Xí nghiệp Đá Tràng kênh chịu trách nhiệm khai thác đá vôi, phục vụ
cho sản xuất xi măng.
+ Xí nghiệp vận tải và tiêu thụ sản phẩm: chịu trách nhiệm vận chuyển
xi măng tới các địa bàn tiêu thụ.
+ Các phân xưởng sản xuất chính tạo thành 2 hệ thống sản xuất xi măng
đen và trắng. (Phân xưởng máy đá nghiền nguyên liệu; xưởng lò nung; xưởng
nghiền than mịn; nghiền đóng bao xi măng; phân xưởng xi măng trắng).
+ Ngoài ra còn có 3 đơn vị phụ trách đầu vào: phòng vật tư, tổng kho,
đoàn vận tải thuỷ .
Hiện tại công ty có 29 đầu mối đơn vị; Đảng uỷ Công ty; Ban Giám đốc;
Công đoàn Công ty; Đoàn thanh niên; 2 Ban quản lý dự án (Ban quản lý nhà
máy Xi măng Hải Phòng mới và Khu đô thị Xi măng Hải Phòng; 12 Phòng
ban; 5 Xưởng sản xuất chính; 4 đơn vị hỗ trợ và 2 Trung tâm tiêu thụ sản
phẩm tại nội thành, thành phố Hải Phòng và tỉnh Thái Bình.
Cụ thể Công ty gồm có phòng tham mưu, các phòng chức năng và các
đơn vị hỗ trợ sản xuất : Phòng kế hoạch; Phòng kỹ thuật cơ điện;Phòng kỹ
thuật sản xuất; Phòng xây dựng cơ bản; Phòng tiếp thị; Phòng KCS; Văn
phòng hành chính quản trị; Phòng bảo vệ quân sự; Phòng an toàn vệ sinh môi
trường; Phòng y tế; Cơ quan Đảng, đoàn thể; Ban giám đốc; Phân xưởng
động học; Phân xưởng cơ khí; Phân xưởng bao giấy; Phân xưởng sửa chữa

công trình; Phân xưởng lắp ráp; Phân xưởng sửa chữa và vận tải cơ giới.
SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC CÔNG TY XI MĂMG HẢI PHÒNG

ĐẢNG ỦY
GIÁM ĐỐC
CÔNG ĐOÀN
PGĐ BAN
QLDA Đ. THỊ
PGĐ
CƠ ĐIỆN
PGĐ
CÔNG NGHỆ
ĐOÀN TN
PGĐ
KINH
DOANH
PGĐ BAN
QLDA XMHP MỚI
THỦ KHO
P. VẬT

P. ATLĐ
P. CƠ
P. ĐIỆN
P. BVQS
X. CƠ KHÍ
X. ĐIỆN
X. NƯỚC
P. TCLĐ
P. KTTC

V. P
CLB - BĐ
P. KH
P. GNSP
TTTT
P. KTCN
P. KCS
P. ĐHTT
X. MỎ
X. LIỆU
X. LÒ
P. KH
P. GS
X. NĐB
Chuyên đề tốt nghiệp 9 Bùi Xuân Hải-TH47A
1.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Xi măng Hải
Phòng.
1.2.1 Đặc điểm về cơ sở vật chất, kĩ thuật.
Với dây chuyền sản xuất xi măng hiện đại nhất Việt Nam hiện nay được
xây dựng tại Mỏ đá Tràng Kênh - Thị trấn Minh Đức - Huyện Thuỷ Nguyên -
Hải Phòng công suất 1,4 triệu tấn xi măng một năm theo phương pháp khô (lò
quay) do hãng F.L.Smith (Đan Mạch) chế tạo, cung cấp. Dây chuyền này có
rất nhiều ưu điểm như tiêu hao nhiệt năng và điện năng thấp. Đặc biệt, trong
quá trình sản xuất, năng suất thiết bị có khả năng vượt từ 10-15% so với công
suất thiết kế. Đây là thành công lớn trong quá trình đầu tư và lắp đặt thiết bị.
Mặt khác, dự án xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng mới đã thực hiện tổng
vốn đầu tư đạt 2.900 tỷ VND - tương đương 208,68 triệu USD, giảm 18 triệu
USD so với dự toán. Không chỉ thế, việc xây dựng nhà máy đã vượt trước
thời hạn 1 tháng. Nhờ vậy, hàng chục nghìn tấn clinker đã được sản xuất, đem
lại giá trị hàng chục tỷ VND.

Chuyên đề tốt nghiệp 10 Bùi Xuân Hải-TH47A
Sơ đồ công nghệ sản xuất của công ty xi măng Hải Phòng.
Than cám
Mýa sấy than
Đất sét Đá vôi Quặng
Máy bừa
Máy nghiền than
Kho chứa xi măng
Bể chứa
Lò Nung
Clinker
Than mịn
Két chứa
Bể dự chữ bùn pát
Máy nghiền
xi măng
Máy
Đóng
bao
Máy bừa
Máy nghiền bùn
Giếng
điều
chế
Clinker
Thạch cao
nhỏ
Máy hấp
thạch cao
Thạch cao

to
Ủ Clinker
Si lô
chứa
xi măng
bột
Chuyên đề tốt nghiệp 11 Bùi Xuân Hải-TH47A
Các thiết bị công nghệ chính
1 - Máy nghiền:
* Nghiền phụ gia: Năng suất 30 tấn/h.
* Nghiền xi măng: Nghiền đứng: Năng suất 240 tấn/h.
Nghiền bi: Năng suất 200 tấn/h.
* Nghiền than: Năng suất 25 tấn/h.
2 - Lò nung: Năng suất 3300 tấn/ ngày.
1.2.2 Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu và tình hình vốn kinh doanh của Công
ty xi măng Hải Phòng.
- Sản xuất, kinh doanh các chủng loại Xi măng và Clinker:
. Xi măng thông dụng: PC30, PC40
. Xi măng Portland hỗn hợp: PCB30
. Xi măng đặc biệt: Xi măng Portland bền Sulfat, Xi măng Portland ít toả
nhiệt.
Cung ứng xi măng cho khách hàng ở địa bàn các tỉnh Thái Bình, Lào
Cai, Yên Bái, Vĩnh Phú, Hà Giang, Tuyên Quang và Thành phố Hải Phòng.
Ngoài ra, công ty còn tổ chức các hoạt động Văn Hóa Thể Thao như tổ
chức CLB Bóng đá Xi Măng Hải Phòng và tổ chức các trận đấu Bóng đá
trong thành phố.
- Vốn là một yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với bất kỳ một hoạt
động sản xuất kinh doanh nào. Qua bảng tốc độ tăng giảm nguồn vốn qua các
năm dễ nhận thấy.
Chuyên đề tốt nghiệp 12 Bùi Xuân Hải-TH47A

Tốc độ tăng giảm nguồn vốn qua các năm :
Năm
Tốc độ tăng(giảm)
Vốn
Tốc độ tăng (giảm)
Vốn ngắn hạn
Tốc độ tăng (giảm)
Vốn dài hạn
Chênh lệch % Chênh lệch % Chênh lệch %
06/07 304.198.290 10,35 177.388.993 33,48 126.809.297 0,53
07/08 -7.861.904 0,024 -44.507.949 6,29 36.646.046 1,45
- Vốn năm 2007 tăng 1 lượng khá lớn so với năm 2006. Cuối năm 2006
tổng nguồn vốn là 2.938.043.684 nghìn đồng qua 1 năm hoạt động đến cuối
năm 2007 tổng nguồn vốn đó là 3.242.241.984 nghìn đồng tăng 304.198.290
nghìn đồng tương ứng với tăng 10,35%. Lượng vốn tăng mạnh như vậy là do
tốc độ tăng của vốn ngắn hạn là rất cao tăng 33,48%. Bởi công ty đã giảm
được lượng phải thu thu về tiền mặt để hoạt động sản xuất tiếp tục hiệu quả.
Sự giảm nhẹ về tổng nguồn vốn năm 2008 so với năm 2007 ( giảm
7.861.904 nghìn đồng tương đương 0,024%) là do nguồn vốn ngắn hạn giảm
mạnh, giảm 6,29%.
1.1.3 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Lực lượng cán bộ đảng viên lao động của Công ty hiện nay gồm: 1.171
người trong đó :
- 03 người có trình độ trên Đại học.
- 355 người trình độ Đại học.
- 103 người trình độ cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp.
Còn lại là lực lượng công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề được đào
tạo bài bản chuyên sâu có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh
của Công ty.Vì vậy trong những năm gần đây công ty xi đã đạt được những
thành tích đáng khen ngợi. Cụ thể như:

Kết quả SXKD Năm 2006
Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện % so KH
% so với
năm trước
Chuyên đề tốt nghiệp 13 Bùi Xuân Hải-TH47A
Sản xuất clinker 800.000 tấn 1.001.411 tấn 125,18 225,53
Tiêu thụ sản phẩm 800.000 tấn 1.079.240 tấn 134,91 239,81
Tổng doanh thu 486 tỷ 635,630 tỷ 130,78 218,76
Lợi nhuận LỗKH178 tỷ 78 tỷ Giảm 100 tỷ
Nộp ngân sách 9,3 tỷ 36,15 tỷ 388,87 225,10
Tiết kiệm chi phí 60 tỷ đồng
Thu nhập BQ 2.500.000đ 4.300.000đ 172,00 172,00
Kết quả SXKD Năm 2007
Chỉ tiêu KH Thực hiện % so KH
% so với
năm trước
Sản xuất clinker 850.000 tấn 1.060.000 tấn 124,70 105,89
Tiêu thụ sản phẩm 1.000.000 tấn 1.366.441 tấn 136,64 126,61
Tổng doanh thu 670 tỷ 932,197 tỷ 139,10 146,77
Lợi nhuận - 96,5 tỷ 30,1 tỷ Tăng
126,5tỷ
Nộp ngân sách 22 tỷ 60,10 tỷ 273,18 166,94
Tiết kiệm chi phí 90 tỷ
Thu nhập BQ 4.500.000đ 6.000.000đ 133.30 139,53
Công ty xi măng Hải Phòng là Công ty đầu tiên trong ngành xi măng
Việt Nam sau hai năm đầu tư xây dựng đưa vào sản xuất phải trả vốn vay đầu
tư đã sản xuất có lãi 30,1 tỷ đồng. Đây là thành tích đặc biệt xuất sắc của Cán
bộ đảng viên công nhân viên chức công ty.Năm 2007 là năm thứ 2 đưa nhà
máy xi măng Hải Phòng mới vào sản xuất trên công nghệ hiện đại vào bậc
nhất Châu âu, người thợ xi măng Hải Phòng nhanh chóng làm chủ công

nghệ, thể hiện ở việc sản xuất kinh doanh không ngừng tăng trưởng Clinkher
đạt hơn 1 triệu tấn , năng suất lò nung vượt gần 10% so với thiết kế, đưa
tổng sản lượng sản xuất của nhà máy vượt sản lượng thiết kế ,xi măng tiêu
thụ tăng gấp hơn 2 lần so với năm trước . Kết thúc năm 2007, Công ty xi
măng Hải Phòng đã lập kỉ lục mới trong sản xuất kinh doanh với tổng doanh
thu 932,197 tỷ đồng và nộp ngân sách 60,10 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần năm
2006.
Chuyên đề tốt nghiệp 14 Bùi Xuân Hải-TH47A
Kết quả SXKD Năm 2008
Chỉ tiêu KH Thực hiện % so KH
% so với
năm trước
Sản xuất clinker 1.100.000 tấn 1.121.000 tấn 102,00 105,75
Tiêu thụ sản phẩm 1.570.000 tấn 1.610.000 tấn 102,54 117,68
Tổng doanh thu 1.000 tỷ 1.194 tỷ 128,10 137,44
Lợi nhuận 41 tỷ 104,13 tỷ 250,37 345,94
Nộp ngân sách 62 tỷ 64 tỷ 103,22 106,48
Tiết kiệm chi phí 124 tỷ
Thu nhập BQ 6.000.000đ 7.000.000đ 116,66 116,66
Năm 2008, ngoài những khó khăn chung do diễn biến phức tạp, bất
thường về giá cả, lạm phát tăng cao, Công ty Xi măng Hải Phòng còn phải đối
mặt với những khó khăn ảnh hưởng trực tiếp từ chính sách cắt giảm vốn đầu tư
xây dựng cơ bản, giãn, hoãn tiến độ các công trình xây dựng cơ bản. Mặt khác,
là năm thứ 3 đưa nhà máy mới đi vào hoạt động, Công ty tiếp tục phải cân đối
nguồn tài chính để trả vốn và lãi vay đầu tư xây dựng nhà máy. Song, với sự nỗ
lực cố gắng, Đảng bộ Công ty đã nêu cao tinh thần đoàn kết, phát huy dân chủ,
kiên trì khắc phục khó khăn, chủ động, nhạy bén, năng động sáng tạo, lãnh đạo
Công ty hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu và đạt tốc độ tăng trưởng khá cao so
với năm 2007.
Trong tháng 1/2009, Cty đã sản xuất được 95.177 tấn clinker và tiêu thụ

gần 60.000 tấn xi măng. Sáng mùng 2 tết, Cty đã tổ chức bán lô hàng xi măng
đầu tiên năm Kỷ Sửu.
Nhận xét :
Qua 3 năm thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty xi măng
Hải Phòng từ năm 2006 đến năm 1998 đã có những bước nhảy vọt đáng khích
lệ . Tất cả các chỉ tiêu như, doanh thu, lợi nhuận , nộp ngân sách và thu nhập
bình quân đều tăng khá ổn định.
Cụ thể :
Chuyên đề tốt nghiệp 15 Bùi Xuân Hải-TH47A
- Tổng sản phẩm tiêu thụ năm 2008 đạt 1.610.000 tấn tăng 530.760 so
với 1.079.240 năm 2006 tăng 49,18%.
- Lợi nhuận năm 2008 đạt 104,13 tỷ đồng tăng 26.13 tỷ so với 78 tỷ năm
2006 tăng 33.5%.
- Tổng doanh thu năm 2008 đạt 1194 tỷ đổng tăng 558.37 tỷ so với
635,630 tỷ đồng năm 2006 tăng 87.85%.
- Thu nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 7.000.000đ tăng
2.700.000 đồng so với 4.300.000 năm 2006 tăng 62,79%.
Đó là những con số điển hình cụ thể phản ánh thực lực của cán bộ công
nhân viên Công ty xi măng Hải Phòng đã làm được trong 3 năm qua nhờ việc
sắp xếp lại tổ chức sản xuất và bộ máy quản lý. Để có được những thành quả
đó Công ty xi măng Hải Phòng đã tiến hành tiết kiệm triệt để vật tư và các chi
phí quản lý, duy trì và hoàn thiện chế độ hạch toán kinh tế, giao quyền chủ
động quản lý vật tư, thiết bị và chất lượng sản phẩm cho cán bộ công nhân
viên các đơn vị cơ sở, cân đối chặt chẽ tiền vốn vật tư, tổ chức tiêu sản nhanh,
có kết quả trong quá trình thu hồi vốn, khắc phục tình trạng ứ đọng vật tư, đẩy
nhanh công tác tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở hoàn thiện đội ngũ tiếp thị, đảm
bảo nhanh gọn, hiệu quả để mặt hàng xi măng luôn đáp ứng kịp thời nhu cầu
của người tiêu dùng.
Với những thành tích đạt được trong quá trình chiến đấu và xây dựng,
cán bộ công nhân viên Xi măng Hải Phòng đã được Đảng, Nhà nước tặng

thưởng 80 huân chương các loại, trong đó có:
- 01 huân chương độc lập hạng Nhất.
- 01 huân chương chiến công hạng Nhất.
- 01 huân chương chiến công hạng Nhì.
- 02 huân chương lao động hạng Nhất.
- 02 huân chương lao động hạng Nhì.
Chuyên đề tốt nghiệp 16 Bùi Xuân Hải-TH47A
- 10 huân chương lao động hạng Ba.
- Được tặng thưởng Danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân
cho Cán bộ công nhân viên Xi măng Hải Phòng.
- 01 Tổ Anh hùng lao động - Tổ đá nhỏ Ca A với danh hiệu “ Con chim
đầu đàn của phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa toàn miền Bắc ”.
- 03 cá nhân Anh hùng lao động.
- 01 chiến sỹ thi đua toàn quốc.
- Nhiều lần được tặng cờ thi đua và bằng khen của Thủ tướng chính phủ,
Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Xây dựng, Bộ LĐTB&XH, Bộ Công An, Vụ Tổng
LĐLĐ Việt Nam, UBND Thành phố Hải Phòng và Tổng công ty xi măng
Việt Nam.
- Đảng bộ, Công đoàn, Thanh niên Công ty nhiều năm được công nhận
đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh, xuất sắc.
Chuyên đề tốt nghiệp 17 Bùi Xuân Hải-TH47A
Chương 2- Thực trạng về tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công
ty xi măng Hải Phòng .
2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ xi măng của Công ty.
2.1.1 Các nhân tố khách quan.
2.1.1.1 Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Mặc dù chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp được quyền
chủ động trong sản xuất kinh doanh, tự hạch toán lỗ lãi. Nhưng Nhà nước lại
quản lý trên cơ sở đề ra đường lối chính sách và cơ chế quản lý kinh tế. Đó là
chính sách ưu tiên hoặc hạn chế xuất, nhập khẩu, chính sách thế và các quy

định về pháp luật. Đây là việc tạo môi trường cho sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Đặc biệt với công ty xi măng Hải Phòng là công ty trực thuộc của Tổng
công ty công nghiệp xi măng Việt Nam. Do Tổng công ty nắm giữ 100% vốn
điều lệoi nên sẽ chịu ảnh hưởng ít nhiều đến sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX: "Doanh nghiệp nhà
nước (...) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả,
giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà
nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ
yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế".
Nhận thức rõ vị trí của một doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt xi
măng Hải phòng cần phát triển sản xuất đúng hướng, luôn tăng sản lượng sản
phẩm sản xuất ra để đảm bảo nguồn cung đáp ứng đủ nhu cầu thị trường
thường xuyên tăng lên, trên cơ sở đó đã thực hiện tốt nhiệm vụ bình ổn thị
trường xi măng Nhà nước giao.
Chuyên đề tốt nghiệp 18 Bùi Xuân Hải-TH47A
2.1.1.2 Đặc thù riêng của sản phẩm.
Xi măng là loại hàng hoá cấp thiết đối với khách hàng có những đặc thù
riêng của xi măng là:
- Sản phẩm đồng thể, chất lượng sản phẩm của các công ty không chênh
lệch nhau nhiều, do đó nhãn hiệu này dễ dàng bị thay thế bởi nhãn hiệu khác.
Đặc điểm này kết hợp với cơ cấu thị trường thiểu số độc quyền sẽ dẫn đến
việc giảm giá của công ty này có nguy cơ kéo theo việc giảm giá đồng loạt
của các đối thủ cạnh tranh.
- Tính ít co giãn của cầu theo giá làm cho việc giảm giá đồng loạt của
các công ty sẽ không kích cầu nhiều. Điều này giải thích tại sao các công ty
liên doanh sử dụng quảng cáo và khuyến mãi là công cụ chiến lược để tăng số
lượng bán, không thích việc giảm giá bán.
- Vốn đầu tư cho nhà máy xi măng rất lớn, chí phí cố định chiếm trên

65% trong tổng chi phí. Các công ty tìm mọi cách sử dụng 100% công suất
nhà máy để đưa chi phí sản xuất ở mức thấp nhất. Để làm được điều này, các
công ty tìm mọi cách giành giật thị phần lẫn nhau. Hơn nữa, do xi măng là
loại sản phẩm có trọng lượng nặng so với giá trị, chi phí phân phối cao và phụ
thuộc theo vùng, do đó các công ty sẵn sàng bán chi phí biên ở những thị
trường xa.
2.1.1.3 Khách hàng.
Khách hàng là đối tượng phục vụ của doanh nghiệp, là người quyết định
số phận của sản phẩm trên thị trường. Khái niệm khách hàng có thể là người
tiêu dùng cá nhân, có thể là các cơ quan, đơn vị, các nhà sản xuất hoặc các
nhà phân phối. Số lượng khách hàng là nhân tố ảnh hưởng cùng chiều với số
lượng tiêu thụ: nếu trên thị trường đông đảo khách hàng thì khối lượng sản
phẩm luân chuyển lớn và ngược lại.
Chuyên đề tốt nghiệp 19 Bùi Xuân Hải-TH47A
Khách hàng là người tiêu dùng cá nhân thường chịu tác động của nhiều
nhân tố như văn hoá, chính trị, phong tục tập quán, tâm lý… tuy nhiên khi đề
cập đến khái niệm cầu thì phải hội đủ hai yếu tố : có khả năng mua (thu nhập)
và sẵn sàng mua (mức độ thoả mãn nhu cầu). Vì vậy yếu tố quyết định ở đây
là thu nhập của dân cư và chất lượng sản phẩm.
Khách hàng và sức ép từ phía khách hàng có tác động hết sức mạnh mẽ
tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khách hàng và nhu cầu của
khách hàng quyết định đến quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường của doanh
nghiệp. Đó là yếu tố quan trọng nhất khi tiến hành kế hoạch và hoạch định
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để nâng cao hiểu quả hoạt động tiêu
thụ sản phẩm thì doanh nghiệp nên duy trì và phát triển các mối quan hệ với
khách hàng cũ và lôi cuốn tạo niềm tin với khách hàng mới. Nói cách khác là
doanh nghiệp phải luôn luôn giữ được “chữ tín” với khách hàng của mình.Vì
vậy muốn làm được việc đó thì chẳng có cách nào khác là doanh nghiệp phải
quan tâm chăm sóc, phân tích sự biến động của nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của
khách hàng và tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó. Doanh nghiệp phải luôn

đặt khách hàng vào vị trí trung tâm trong “bộ ba chiến lược”.
Việc định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh hướng vào nhu cầu của
khách hàng sẽ đem lại kết quả khả quan cho doanh nghiệp và tạo thói quen và
tổ chức các dịch vụ phục vụ khách hàng, đánh đúng vào tâm lý tiêu dùng của
khách là biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả của hoạt động tiêu thụ sản
phẩm. Một nhân tố đặc biệt quan trọng đó là mức thu nhập và khả năng thanh
toán của khách hàng có tính quyết định đến lượng hàng hóa tiêu thụ của
doanh nghiệp. Khi thu nhập tăng thì nhu cầu tăng và khi thu nhập giảm thì
nhu cầu giảm, do vậy doanh nghiệp cần có những chính sách giá và sản phẩm
hợp lý.
Chuyên đề tốt nghiệp 20 Bùi Xuân Hải-TH47A
Để có thể giảm thiểu sức ép của khách hàng, công ty cần phục vụ khách
hàng tốt hơn. Muốn có căn cứ xác định để tạo ra ưu thế trong việc xây dựng
chiến lược phục vụ khách hàng các doanh nghiệp cần phải lập hồ sơ theo dõi
và quản lý khách hàng, thiết lập hệ thống Marketing quan hệ bền vững.
Những năm trước cũng như trong những năm gần đây, công ty xi măng
Hải Phòng luôn tạo được niềm tin đối với khách hàng. “Xi măng Hải Phòng ”
gắn liền với người dân thành phố Hải Phòng.
2.1.1.4. Đối thủ cạnh tranh.
Cạnh tranh là yếu tố cơ bản quyết định sự sống còn của doanh nghiệp
trong điều kiện hiện nay. Các doanh nghiệp muốn chiến thắng trong cạnh
tranh, nhất là trong việc mua bán sản phẩm thì cần có chiến lược cụ thể.
Doanh nghiệp phải xét đến tiềm lực về vốn, con người và thế mạnh khác trên
thị trường, không chỉ có sự cạnh tranh giữa người mua và người bán, người
bán với nhau.
Trong những năm trước đây, Tổng công ty xi măng Việt Nam giữ vị trí
độc quyền về việc điều phối các hoạt động trên thị trường xi măng. Người
tiêu dùng và các nhà thầu xây dựng phải năn nỉ chờ duyệt kế hoạch, bị ám ảnh
bởi giá xi măng, đặc biệt là vào đầu mùa xây dựng.Năm 1995, khủng hoảng
thiếu làm cho giá cả tăng vọt, các nhà thầu phải đồng loạt ngưng thi công. Sự

phát triển của ngành xây dựng đã làm cho cầu xi măng tăng vọt. Tổng công ty
xi măng Việt Nam, được sự giao phó của nhà nước, đã huy động hết công
suất nhà máy nhưng vẫn không đáp ứng đủ cầu. Để giải quyết sự thiếu hụt
này, một mặt, chính phủ cho phép nhập khẩu xi măng và ấn định hạn ngạch
nhập khẩu để bảo vệ nhà sản xuất trong nước; mặt khác, nhà nước ấn định giá
bán cao nhất ở năm vùng trọng điểm : Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ
Chí Minh, Cần Thơ để bảo vệ người tiêu dùng. Điều này đã gây thiệt hại lớn
Chuyên đề tốt nghiệp 21 Bùi Xuân Hải-TH47A
cho ngân sách nhà nước do việc nhập khẩu lậu, làm phát sinh việc mua bán
hạn ngạch nhập khẩu và tạo ra những hoạt động phi sản xuất trong nước.
Trong bối cảnh cầu vượt cung và nguồn vốn trong nước bị hạn chế cũng
như vai trò quan trọng ngành công nghiệp xi măng. Chính phủ đã khuyến
khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành công nhiệp này dưới hình
thức liên doanh. Năm 1994, các tập đoàn Chinfon Global, Lucksvaxi,
Holderbank. đã nhảy vào và lập những dự án liên doanh : Chinfon, Văn Xá,
Sao Mai. Sự bước vào hoạt đọâng của các công ty liên doanh năm 1997 làm
thay đổi cơ cấu thị trường, từ một thị trường độc quyền chuyển sang thị
trường thiểu số độc quyền. Nền tảng và cơ sở cho việc phân tích thị trường và
chiến lược doanh nghiệp ở thị trường thiểu số độc quyền này dựa trên ba yếu
tố chính: chi phí sản xuất, hàng rào ngăn cản các nhà đầu tư nhảy vào và sự
phản ứng mang tính chiến lược giữa các công ty trong ngành xi măng này. Sự
chuyển sang cơ cấu thị trường thiểu số độc quyền làm tăng sức cạnh tranh
trong ngành qua việc giảm giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản
phẩm, cải thiện phong cách phục vụ của các công ty, mang lại cho người tiêu
dùng nhiều thuận lợi. Hơn nữa, việc xuất hiện những liên doanh đã loại bỏ
được việc chảy máu ngoại tệ do việc nhập khẩu, sử dụng nguồn tài nguyên
trong nước cũng như việc tận dụng nguồn lực từ nước ngoài.Vì vậy công ty
nên liên tục nghiên cứu thị trường để có thể đưa ra được những chiến lược cụ
thể để có thể tiêu thụ tốt kế hoạch đã đề ra.
Còn trong điều kiện hiện nay có nhiều thuận lợi song cũng không ít khó

khăn do những diễn biến phức tạp, bất thường của nền kinh tế thế giới tác
động trực tiếp tới nền kinh tế của đất nước, một doanh nghiệp muốn tồn tại
luôn luôn phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp khác.
Chuyên đề tốt nghiệp 22 Bùi Xuân Hải-TH47A
2.1.2 Các nhân tố chủ quan.
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố thuộc bên trong doanh nghiệp
hoặc nằm trong vòng kiểm soát của doanh nghiệp. Các yếu tố này bao gồm
những điểm mạnh, điểm yếu ảnh hưởng trực tiếp tới việc sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải phân tích cặn kẽ
những ưu, nhược điểm của mình để tìm ra những đối sách hợp lý nhằm phát
huy điểm mạnh, hạn chế điểm yếu của mình. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm
thường chịu ảnh hưởng của nhiều khâu từ khâu nghiên cứu thị trường, khâu
kế hoạch hoá tiêu thụ, khâu dự trữ, khâu lựa chọn kênh tiêu thụ, khâu tổ chức
các hoạt động bán hàng và dịch vụ sau bán hàng như đã phân tích trong phần
nội dung, ngoài ra còn có những nhân tố sau đây:
2.1.2.1 Chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm không phải do người sản xuất quyết định mà chính
do người tiêu dùng kiểm nghiệm quyết định. Chất lượng sản phẩm là hệ thống
những đặc tính nội tại của sản phẩm được xác định bằng những thông số có
thể so sánh được hoặc có thể đo được phù hợp với những điều kiện hiện tại và
thoả mãn những nhu cầu nhất định của xã hội.
Chất lượng sản phẩm được hình thành khi thiết kế sản phẩm, trở thành
hiện thực trong quá trình chế tạo sản phẩm được khẳng định qua kiểm tra kỹ
thuật và mang ra sử dụng.
Đảm bảo chất lượng sản phẩm là yếu tố rất cần thiết đảm bảo thực hiện
ba mục tiêu: Lợi nhuận – An toàn - Ưu thế của doanh nghiệp và đẩy nhanh
quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng thúc đẩy hoặc kìm hãm
hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường
chất lượng sản phẩm là một vũ khí cạnh tranh vô cùng sắc bén có thể dễ dàng

đè bẹp các đối thủ cạnh tranh cùng ngành.
Chuyên đề tốt nghiệp 23 Bùi Xuân Hải-TH47A
Chất lượng sản phẩm tốt không những thu hút được khách hàng làm tăng
khối lượng tiêu thụ sản phảm mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng
cao uy tín của mình, đồng thời có thể nâng cao giá bán sản phẩm một cách
hợp lý mà vẫn thu hút được khách hàng. Ngược lại, chất lượng sản phẩm quá
thấp thì việc tiêu thụ sẽ gặp khó khăn, ngay cả khi bán giá rẻ vẫn không được
người tiêu dùng chấp nhận.
Việc bảo đảm chất lượng lâu dài với phương châm “Trước sau như một”
sẽ có ý nghĩa là lòng tin của khách hàng đối với doanh nghiệp chính là uy tín
của doanh nghiệp đối với khách hàng. Chất lượng sản phẩm tốt sẽ như sợi dây
vô hình thắt chặt khách hàng với doanh nghiệp, tạo đà cho hoạt động tiêu thụ
diễn ra thuận lợi.
Những năm gần đây toàn bộ sản phẩm của tổng công ty xi măng Hải
Phòng đều được hợp chuẩn, được sản xuất theo công nghệ hiện đại. Tất cả các
dây chuyền sản xuất của các nhà máy đều được quản lý theo tiêu chuẩn chất
lượng quốc tế ISO 9000 và ISO 14000. Chất lượng sản phẩm của công ty rất
ổn định, thị trường các tỉnh phía Bắc chủ yếu tiêu thụ xi măng đen PCB 30.
Nhiều năm nay chất lượng sản phẩm của công ty đã có uy tín rất cao trên thị
trường, các công trình trọng điểm của Nhà nước đều sử dụng sản phẩm của
công ty. Về mặt chất lượng sản phẩm, công ty xi măng Hải Phòng đang có
nhiều lợi thế cạnh tranh và công ty nhận thức rằng chất lượng sản phẩm là vấn
đề mấu chốt quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi loại sản phẩm hàng hoá
trên thương trường, nên đã tập trung quản lý chặt chẽ quá trình sản xuất để
nâng cao uy tín của công ty đối với người tiêu dùng.
Theo các chuyên gia ở lĩnh vực xây dựng thì sản phẩm xi măng Hải
Phòng hiện có chất lượng tốt nhất trong các nhà máy sản xuất xi măng trong
cả nước.Sản phẩm xi măng Pooc lăng hỗn hợp PCB30, PCB40 và các loại xi
măng đặc biệt khác mang thương hiệu Con Rồng do nhà máy xi măng Hải
Chuyên đề tốt nghiệp 24 Bùi Xuân Hải-TH47A

Phòng sản xuất đã trở thành một trong những biểu tượng, thành niềm tự hào
của thành phố.
2.1.2.2 Giá cả sản phẩm.
Giá cả vẫn được coi là một nhân tố cạnh tranh rất lợi hại, đặc biệt trong
thị trường nhu cầu của dân cư thấp. Khá nhiều khách hàng khi mua hàng điều
đầu tiên họ quan tâm đó là giá cả.
Đặc biệt việc tiêu thụ sản phẩm chịu tác động rất lớn của nhân tố giá cả
sản phẩm về nguyên tắc, giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa
và giá cả xoay quanh giá trị hàng hóa, theo cơ chế thị trường giá cả được hình
thành tự phát trên thị trường theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán.
Do đó, doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng giá cả như một công cụ hết sức
sắc bén để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh nghiệp đưa ra một mức
giá phù hợp với chất lượng sản phẩm được đa số người tiêu dùng chấp nhận,
doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiêu thụ sản phẩm của mình. Và ngược lại, nếu định
giá quá cao, người tiêu dùng không chấp nhận thì doanh nghiệp chỉ có thể
ngồi nhìn sản phẩm chất đống trong kho mà không tiêu thụ được. Mặt khác,
nếu doanh nghiệp quản lý kinh doanh tốt làm cho giá thành sản phẩm thấp
doanh nghiệp có thể bán hàng với giá thấp hơn so với mặt bằng giá của các
sản phẩm cùng loại trên thị trường. Đây chính là một lợi thế trong cạnh tranh
giúp cho doanh nghiệp có thể thu hút được cả khách hàng của các đối thủ
cạnh tranh. Từ đó dẫn đến thành công của doanh nghiệp. Đối với thị trường
có sức mua có hạn, trình độ tiêu thụ ở mức độ thấp thì giá cả sẽ có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm. Với mức giá chỉ thấp hơn một
chút là đã có thể tạo ra một sức tiêu thụ lớn nhưng với mức giá chỉ nhỉnh hơn
đã có thể làm sức tiêu thụ giảm đi rất nhiều.
Hiện nay trên thị trường, ngoài cạnh tranh bằng giá cả, còn có các loại
hình cạnh tranh khác tiên tiến hơn như cạnh tranh bằng chất lượng, bằng dịch

×