Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

LUẬN VĂN: Chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm 2005 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.42 KB, 41 trang )














LUẬN VĂN:

Chiến lược hướng về xuất khẩu của
Việt Nam từ nay đến năm 2005





Lời giới thiệu

Trong thế giới hiện đại, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa với
nước ngoài mà lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước. Muốn phát triển
nhanh mỗi nước không chỉ đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận
dụng có hiêụ quả tất cả những thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của loài người
đã đạt được. Chính vì lẽ đó V.I. Lênin đã khẳng định "có một sức mạnh lớn hơn
nguyện vọng, ý chí và quyết tâm của bất cứ Chính phủ hay giai cấp thù định nào, đó
là quan hệ kinh tế thế giới".


Kinh nghiệm của nhiều quốc gia Đông á cho thấy, nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng cao trong nhiều thập niên của họ có nguyên nhân một phần là nhờ đã thực
hiện chiến lược hướng ngoại khôn ngoan. Việt Nam muốn phát triển nhanh nền
kinh tế và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như tài nguyên
con người thì không thể không ưu tiên cho xuất khẩu.
ở Việt Nam xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế và xây dựng CNXH. Việc mở rộng xuất khẩu là phương tiện thúc đẩy
cho sự phát triển kinh tế nhằm tăng thu nhập ngoại tệ cho nguồn tài chính, cho nhu
cầu xã hội cũng như tạo cơ sở cho sự phát triển các cơ sở hạ tầng, khuyến khích
việc sản xuất trong nước. Vai trò này đã được Đảng nhận thức rất lớn và được nhân
mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1996 "xuất khẩu là một trong 3
chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế xã hội không những có ý nghĩa sống
còn đối với tình hình trước mắt mà còn là điều kiện ban đầu không thể thiếu được
để triển khai công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Để khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển kinh
tế xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định và nhất quán thực hiện "Chiến
lược hướng về xuất khẩu từ nay đến năm 2005". Đã có nhiều hội nghị thảo luận và
nhiều bài viết về vấn đề này, tuy nhiên mỗi bài viết lại đề cập đến một khía cạnh
khác nhau, chưa nêu lên được toàn cảnh trong quá trình thực hiện. Để góp phần làm
sáng tỏ vấn đề, tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Chiến lược hướng về xuất khẩu
của Việt Nam từ nay đến năm 2005"


Trong bài này tôi xin đề cập tới những vấn đề chung nhất, nổi bật, đồng thời
cố gắng tiếp cận tối đa tính toàn diện. Nhưng vì đây là một đề tài lớn và phức tạp,
khả năng có hạn nên khong tránh khỏi những sai sót.



I- Tổng quan về chiến lược hướng về xuất khẩu.

Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế - xã hội,
khai thác tôi ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn
định, mỗi nước phải xác định cơ cấu kinh tế hợp lý trang bị kỹ thuật ngày càng hiện
đại do các ngành kinh tế. ở nước ta đang phát triển quá trình ấy gắn liền với quá
trình công nghiệp hoá.
Vậy công nghiệp hoá như thế nào để phát triển kinh tế -xã hội của một đất
nước.
Trong các sách báo kinh tế hiện nay người ta thường gặp nhiều thuật ngữ khác
nhau liên quan đến đường hướng công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển.
Những thuật ngữ phổ biến là "mô hình phát triển", "mô hình công nghiệp hoá",
"chiến lược công nghiệp hoá" Việc luận giải những thuật ngữ này không phải là
đơn giản. Bởi lẽ, nếu không đủ chứng cứ xác thực và cụ thể về xuất xứ và nội dung
của chúng, việc luận giải sẽ mang tính suy lý chủ quan áp đặt. Thật ra việc đi sâu
vào luận giải các thuật ngữ là không cần thiết. Điều quan trọng không phải là từ ngữ
sử dụng mà là nội dung cốt lõi của vấn đề.
Hiện nay, ngoài một số ít nước đang phát triển đã cất cánh và đang tiến tới sự
trưởng thành một cách ổn định, phần lớn các nước đang phát triển vẫn chưa thoát
khỏi cái "vòng luẩn quẩn" của lạc hậu đói nghèo và chậm phát triển về kinh tế và xã
hội. Các nước này đang mày mò tìm kiếm phương hướng và giải pháp dài hạn trong
việc thực hiện quá trình công nghiệp hoá nhằm nhanh chóng giải quyết các vấn đề
kinh tế xã hội bức xúc. Việc xác định chiến lược công nghiệp hoá theo kiểu nào đó
là nhiệm vụ tiền đề phức tạp. Nếu quan niệm vấn đề một cách giản dị thì xác định


mô hình chiến lược về công nghiệp hoá đòi hỏi phải xác định được hệ thống các
quan điểm phát triển, các phương hướng dài hạn phát triển kinh tế xã hội những giải
pháp then chốt thực hiện mục tiêu và phương hướng đã định nhằm đưa đất đến
trạng thái tương lai ấy.
Trong khoa học kinh tế hiện đại có nhiều cách tiếp cận chiến lược công nghiệp
hoá. Bản thân công nghiệp hoá là một quá trình nhiều mặt, bởi vậy "chiến lược"

thực hiện cũng phải thể hiện tính toàn diện và tổng hợp của quá trình này. Từ thực
tiễn của nhiều nước, đặt biệt là những nước đang phát triển đã thực hiện thành công
quá trình công nghiệp hoá. Người ta đã khái quát thành hai loại mô hình chiến lược
công nghiệp hoá theo nội dung trọng tâm của mỗi mô hình "chiến lược thay thế
nhập khẩu", "chiến lược hướng về xuất khẩu". Đây là hai mô hình được các nước áp
dụng thành công trong việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các
nước đó.
1. Chiến lược phát triển kinh tế của các nước.
a. Chiến lược thay thế nhập khẩu.
Về mặt lịch sử, chiến lược này được các nước đi tiên phong trong công nghiệp
hoá thực hiện từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, thông qua việc lập hàng rào bảo hộ
sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh của hàng ngoại nhập. Tư tưởng cơ bản
của chiến lược này là mỗi nước đang phát triển cần phát triển mạnh mẽ việc sản
xuất các hàng hoá, đặc biệt là hàng tiêu dùng, để thay thế các hàng hoá xưa nay vẫn
phải nhập khẩu từ các nước tư bản phát triển. Sự phát triển như vậy sẽ mang lại tác
dụng nhiều mặt: khai thác nguồn lực sẵn có để thoả mãn nhu cầu cơ bản và cần thiết
trong nước, mở rộng thị trường phát triển sản xuất hàng hoá, tạo thêm việc làm góp
phần giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, tiết kiệm ngoại tệ. Tuy nhiên, chiến lược
này không đi đến "đóng cửa" hoàn toàn nền kinh tế nhưng đã chứa đựng một số
nhược điểm và hạn chế sau:
Một là: Với yêu cầu sản xuất chỉ để tiêu dùng trong nước, các nhà sản xuất
không được tiếp xúc với thị trường bên ngoài, hàng hoá không được đánh giá kiểm
nghiệm theo tiêu chuẩn quốc tế, nên không có sức ép buộc phải cải tiến kỹ thuật và
công nghệ, hợp lý hoá sản xuất bồi dưỡng tay nghề nhằm nâng cao chất lượng sản


phẩm. Do đó cả quy mô lẫn trình độ sản xuất không có động lực để mở rộng, phát
triển. ở Malaysia thời kỳ công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (1960-1970) ngành
khai khoáng dậm chân tại chỗ chỉ chiếm 6% trong GDP. Ngành chế tạo chỉ tăng
4%

1
, ở Philipins chiến lược thay thế nhập khẩu không làm giảm sự phụ thuộc vào
bên ngoài, trái lại càng phụ thuộc nhiều hơn về máy móc thiết bị, nguyên liệu và sản
phẩm trung gian. Do đó GDP bình quân đầu người liên tục giảm từ 250 đôla năm
1969 xuống 230 đôla năm 1970
2
.
Hai là: Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu tất yếu đưa đến cơ cấu kinh tế mở
rộng, bao gồm nhiều ngành nghề. Với cơ cấu mở rộng đất nước không tập trung
được nhân tài, vật lực vốn còn hạn chế vào những ngành mà trong nước có điều
kiện phát huy lợi thế so sánh với các nước khác trên thế giới. Mặt khác thị trường
trong nước bị bão hoà và trở nên chật hẹp so với khả năng phát triển của sản xuất.
Những cơ sở sản xuất dựa trên kỹ thuật, công nghệ mới, có công suất lớn do
quá trình công nghiệp hoá tạo ra đã không phát huy được hiệu quả. ở Thái Lan qua
4 kế hoạch 5 năm (từ năm 1961 đến 1981) mục tiêu của chiến lược công nghiệp hoá
thay thế nhập khẩu không thực hiện được mà ngày càng phụ thuộc vào nhập khẩu,
nhập siêu ngày càng lớn từ 12,08 tỷ bạt năm 1976 lên 25,83 tỷ bạt năm 1978.
Ba là: việc thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước có thể sản xuất
được với bất cứ giá nào vì mục đích hạn chế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ đã đưa
đến tình trạng có những sản phẩm, sản xuất ra đạt hiệu quả thấp, gây lãng phí lao
động sống và lao động vật hoá trong nước so với sản phẩm nếu được nhập khẩu.
Đối với sản phẩm do cơ sở sản xuất của nước ngoài đầu tư, các nhà đầu tư nước
ngoài thu được lợi nhuận siêu ngạch và người dân trong nước phải chịu mức giá
cao hơn mức giá quốc tế.
Bốn là: Việc lập hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước và chính sách trợ giúp
cho sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu thường đưa đến tâm lý ỷ lại, chờ đợi
trong sản xuất và độc quyền trong buôn bán. Việc đẩy mạnh sản xuất hàng hoá thay
thế nhập khẩu có mục đích tiết kiệm ngoại tệ, dành số ngoại tệ còn hạn hẹp vào việc
nhập khẩu thiết bị kỹ thuật là đúng hướng. Song do nhấn mạnh một chiều và thái


1
Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 2- tháng 4/1996. Trang 51


quá đối với việc thay thế nhập khẩu, không chú trọng đến đầu tư cho những sản
phẩm xuất khẩu nên khả năng tham gia của những sản phẩm trong nước ra thị
trường ngoài nước vốn đã yếu lại càng yếu thêm và do đó nguồn ngoại tệ vốn đã ít
ỏi ở những nước đang phát triển lại càng căng thẳng thêm trước yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá.
Những hạn chế nói trên khiến cho việc thực hiện mục tiêu thay thế nhập khẩu
không đạt được theo ý muốn. Các nguồn lực trong nước không được khai thác và sử
dụng có hiệu quả, nền kinh tế phải đối mặt với cuộc khủng hoảng trong cán cân
thanh toán; nhập siêu, nợ nước ngoài. Trình độ kỹ thuật và công nghệ thấp; thiếu
vốn đầu tư; năng lực quản lý yếu kém v.v là những trở ngại lớn cho việc đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước.
Thực tiễn mỗi nước và xu thế thời đại đã buộc các nước lựa chọn chiến lược,
chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu phải chuyển sang lựa chọn chiến
lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
b. Chiến lược hướng về xuất khẩu.
Trong điều kiện thế giới ngày nay, tất cả các nước ở những mức độ khác nhau
đều được cuốn hút vào quá trình phân công lao động quốc tế và tham gia vào hoạt
động thương mại quốc tế. Để thực hiện công nghiệp hoá với quy mô lớn và nhịp độ
nhanh, nhát thiết phải mở rộng thị trường ra nước ngoài. Song các nước đang phát
triển và phát triển vấp phải những khó khăn lớn : Trình độ kinh tế - kỹ thuật thấp
kém, vốn thiếu nghiêm trọng, kỹ năng quản lý kém, kinh nghiệm thương mại quốc
tế ít ỏi Để thực hiện hướng ngoại, nghĩa là phát triển sản xuất trong nước với thị
trường quốc tế là trọng tâm, phải phát huy được lợi thế tương đối của đất nước so
với các nước bạn hàng. Lý thuyết lợi thế tương đối của D.Ricardo đưa ra từ năm
1817 vẫn được coi là cơ sở lý luận xuất phát của chiến lược hướng về xuất khẩu mà
các nước đang phát triển thực hiện rộng rãi từ đầu những năm 60 của thế kỷ này.

Tư tưởng cơ bản của chiến lược này là phát triển các ngành sản xuất sản phẩm
chủ yếu phục vụ xuất khẩu, trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của đất nước.

2
Tư liệu kinh tế trước thành viên ASEAN 1993- Trang 196


Nhằm phát huy lợi thế về tài nguyên phong phú nhân công dồi dào và rẻ, trong
thời gian đầu thông thường các nước phát triển tập trung vào phát triển các ngành
khai thác và sản xuất sản phẩm thô xuất khẩu sang nước công nghiệp phát triển. Sự
phát triển này trong giai đoạn nhất định để tạo điều kiện phát triển kinh tế, giải
quyết những vấn đề kinh tế -xã hội cấp thiết của đất nước. Tuy nhiên việc tập trung
phát triển các ngành này gặp một số trở ngại:
- Cần sản phẩm thô trên thị trường quốc tế tăng chậm.
- Điều kiện mậu dịch bất lợi: Giá nguyên liệu thô giảm hoặc tăng chậm, giá
sản phẩm chế biến tăng nhanh.
- Sự phát triển các ngành này trong nhiều trường hợp phụ thuộc vào sự đầu tư
của các nước công nghiệp phát triển.
Sự tập trung quá mức vào một ngành ở một nước lại dẫn đến toàn bộ nền kinh
tế phụ thuộc vào sự biến động của ngành ấy. Đó là điều mà các nhà kinh tế học đã
đúc rút thành "sự bất lợi của chuyên môn hoá quá hẹp".
Các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động sống (như dệt, may mặc, lắp ráp các
sản phẩm cơ khí và điện tử ) cũng được chú ý phát triển nhằm khai thác lợi thế về
nhân công.
Sự phát triển có kết quả những ngành này sẽ tạo nên những điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển các ngành kinh tế khác và giải toả những căng thăng về kinh tế -
xã hội của đất nước. Giai đoạn tiếp theo kế thừa những kết quả này, các ngành chế
biến được chú trọng phát triển nhiều hơn, tỷ trọng sản xuất và xuất khẩu sản phẩm
thô giảm dần.
Giai đoạn phát triển thứ ba gắn liền vưói quá trình "cất cánh" và "trưởng

thành" của đất nước. Các ngành sản xuất sản phẩm chế biến và các ngành sản xuất
các sản phẩm có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao sẽ giữ vị trí trọng yếu trong đóng
góp vào xuất khẩu.
Sự thành công của mô hình chiến lược hướng ngoại phụ thuộc nhiều vào một
loạt chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Những chính sách chủ yếu đó là:


- Chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt bám sát sự biến động tỷ giá trên thị
trường quốc tế và tỷ giá ở nước bạn hàng để các nhà sản xuất trong nước có thể thu
lãi khi bán sản phẩm thị trường thế giới.
- Chính sách khuyến khích và trợ giúp xuất khẩu. Do xâm nhập vào thị trường
quốc tế khó khăn hơn và nhiều rủi ro hơn là sản xuất cho thị trường trong nước, nên
việc sản xuất và xuất khẩu cần được những ưu đãi hơn về thuế quan, về tín dụng, về
trợ giá.
- Chính sách khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài, khắc phục những yếu
kém về vốn, kỹ thuật, kỹ năng quản lý và kỹ thuật thâm nhập thị trường quốc tế.
Thông thường loại chính sách này được thể hiện tập trung trong luật đầu tư nước
ngoài.
- Thành lập và quản lý các khu chế xuất, phát triển một cách tập trung các cơ
sở sản xuất hoặc dịch vụ của các chủ đầu tư trong và ngoài nước với mục đích chủ
yếu là phục vụ cho xuất khẩu.
Trong những năm 70 và 80 của thế kỷ này, một số nước đã đặc biệt thành
công trong việc thực hiện chiến lược hướng ngoại: Tốc độ tăng trưởng nhanh và khá
ổn định; cơ cấu kinh tế thay đổi năng động địa vị kinh tế trên thị trường thế giới
được cải thiện rõ rệt. Bởi vậy mô hình chiến lược này có sức hấp dẫn cao với nhiều
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
2. Mục tiêu của chiến lược hướng về xuất khẩu.
ở Việt Nam, công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã được đề cập từ Đại hội
toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986). Văn kiện hội
nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá VII) của Đảng đã xác định mô hình chiến lược

công nghiệp hoá hướng mạnh về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu một số
mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Đến Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định
dứt khoát đường lối chiến lược "xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu".
Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, từ công nghiệp chế biến dựa
trên lao động thủ công, kỹ thuật giản đơn đến công nghiệp chế tạo dựa trên vốn cao


và kỹ thuật hiện đại. Trong đó sự chuyển dịch cơ cấu ngành chế tạo và tỷ lệ hàng
chế tạo xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh.
Công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu không phải là mục đích tự thân và nó là
phạm trù lịch sử cho nên mục tiêu trực tiếp cụ thể không thể nào khác là nhằm phát
triển kinh tế - xã hội nhanh bền vững có hiệu quả. Trước mắt trong chặng đường
đầu tiên này công nghiệp hoá phải nhằm đưa nền kinh tế nước ta "ra khỏi khủng
hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo
và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh tạo
điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ 21".
Thực chất của chiến lược kinh tế hướng vào xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc
gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm: phát huy lợi thế so sánh
(cả về tự nhiên, kinh tế , xã hội), buộc sản xuất trong nước phải luôn đổi mới công
nghệ, không thể tồn tại với năng suất thấp kém, mau chóng nâng cao khả năng tiếp
thị, tự do hoá thương mại. Đích cuối cùng là đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu của thị
trường và giá rẻ, kể cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Hướng về xuất
khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không chú ý thay thế nhập
khẩu. Quan điểm hướng về xuất khẩu được hiểu theo nghĩa: không chỉ sản phẩm
xuất khẩu mà tất cả các sản phẩm sản xuất trong nước phải có sức cạnh tranh trên
thị trường thế giới, từ đó mà cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng có hiệu quả
nhất.
Cùng với đó, chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm gắn sản xuất và nền kinh tế
trong nước với các hoạt động của nền kinh tế thế giới, nối kết các nền kinh tế quốc

gia với nhau và tạo ra một không gian kinh tế rộng lớn hơn nhờ liên kết và buôn bán
quốc tế.
Chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn tốc
độ tăng trưởng kinh tế. ý nghĩa quan trọng của xuất khẩu không chỉ ở chỗ tạo ra
ngoại tệ để nhập khẩu mà còn có những tác dụng sau:
- Khai thác ưu thế để sản xuất khối lượng lớn thì mới có giá rẻ, ở đây cần thấy
rằng sản xuất khối lượng lớn không cùng nghĩa với qui mô lớn.


- Buộc các ngành kinh tế, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải đổi mới công
nghệ tiếp thu kỹ thuật mới, phát huy lợi thế của nước đi sau để đi tất vào kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến nhất (công nghệ nào thế giới đã giải quyết rồi thì học, tiếp thu
ngay, bỏ qua các bước tuần tự để đi thẳng vào công nghệ hiện đại).
Ngay từ đầu của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là phải nhằm
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. Đây vừa là yêu cầu của
việc thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhưng cũng là khó khăn lớn nhất của
các doanh nghiệp nước ta hiện nay.
- Chiến lược hướng về xuất khẩu vừa là hệ quả vừa là tác nhân nhằm đảm bảo
sự thắng lợi cho tiến trình tự do hoá thương mại của Việt Nam trong quan hệ cạnh
tranh và hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực cũng như các các khác trên thế
giới.
- Chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tận dụng nguồn vốn của nước ngoài có
tính đến kinh nghiệm của các nước đi trước.
3. Tính tất yếu của việc chuyển sang chiến lược hướng về xuất khẩu của
Việt Nam.
Đã từ lâu Đảng ta xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hơn 30 năm qua sự nghiệp công nghiệp hoá
đất nước mặc dù đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng Việt Nam vẫn còn là nước
nghèo và lạc hậu. Trong khi đó các nước NIC và ASEAN lại đạt được sự phát triển
"thần kỳ", "năng động" trong sự công nghiệp hoá đất nước. Điều đó cho thấy rõ

nguy cơ tụt hậu kinh tế ngày càng sâu và xa hơn của Việt Nam.
Để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu đó, dĩ nhiên, nền kinh tế nước ta phải tăng
trưởng thực tế cao hơn so với các nước khác. Đồng thời phải duy trì tốc độ cao hơn
đó liên tục nhiều năm. Nói khác đi nền kinh tế Việt Nam phải tạo ra sự "thần kỳ"
mới hơn cả sự "thần kỳ" mà các nền kinh tế Đông á đã tạo ra 3-4 thập niên trước
đây.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong điều kiện hiện đại, muốn tăng trưởng
nhanh lâu bền cần tạo ra một động lực mạnh là tăng trưởng xuất khẩu. Các nước


Đông á sở dĩ vượt hẳn nhiều nước khác có cùng điểm xuất phát là do họ theo đuổi
mô hình tăng trưởng đưa vào xuất khẩu trong nhiều năm liên tục. Nhưng cần lưu ý
rằng chiến lược tăng trưởng xuất khẩu được thực thi ở đây là tăng trưởng xuất khẩu
hàng chế tạo chứ không phải tăng trưởng xuất khẩu bất kỳ nào. Nigeria cũng theo
mô hình tăng trưởng xuất khẩu nhưng đã chịu thất bại vì chủ yếu dựa vào xuất khẩu
đầu thô.
Những điều nói trên gợi ý quan trọng về nguyên tắc lựa chọn chiến lược mô
hình công nghiệp hoá cho quốc gia đi sau. Tuy nhiên không nên quên rằng so với
thời đại của các "con rồng" trước đây điều kiện phát triển hiện nay của những nước
đi sau như ta, đặc biệt là trong hoàn cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Đó là
những lý do để khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn đường lối tăng trưởng
dựa vào xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó phải xem xét, đánh giá
kỹ các điều kiện thực hiện đường lối đó. Chỉ trên cơ sở này mới có thể tìm kiếm
được các chính sách và giải pháp phù hợp.
Chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu mang tính quy luật và tính quy luật
này quy định cả từ hai phía yêu cầu và khả năng thực hiện.
Thứ nhất: Đứng về phía đòi hỏi khách quan mà xét thì nước ta vẫn thuộc vào
một trong những nước nghèo nhất thế giới, một nước nông nghiệp lạc hậu chưa ra
khỏi "xã hội truyền thống" để sang xã hội "văn minh công nghiệp". Do đó khách
quan đòi hỏi phải tiến hành tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. Như vậy định hướng

xuất khẩu là lối thoát duy nhất cho các quốc gia lạc hậu xuất phát muộn để có được
nguồn vốn ngoại tệ, cũng như công nghệ- kỹ thuật cao. Nói chung với một nước
nhỏ (hoặc lạc hậu, hoặc tổ hợp cả hai yếu tố đó) do thị trường nội địa hạn hẹp, để
nền kinh tế hoạt động có hiệu qả, tăng trưởng cao, lâu bền thì xu hướng chỉ đạo là
phải mở cửa để tăng dung lượng thị trường. Một nền kinh tế hướng vào xuất khẩu
có thể tăng trưởng nhanh vì sức gia tăng của tổng cầu không bị bó hẹp trong khuôn
khổ cầu nội địa.
Thứ hai: Xét về khả năng thực hiện. Chiến lược công nghiệp hoá hướng vào
xuất khẩu về thực chất là dựa trên logic của kinh tế thị trường trong điều kiện nền
kinh tế thế giới vận động, vận động theo xu hướng toàn cầu hoá. Về mặt lý thuyết


chiến lược này có nhiều khả năng thành công vì nó cho phép tận dụng tối đa lợi thế
so sánh của đất nước là hiệu quả kinh tế theo quy mô và khả năng chiếm dụng
nguồn lực.
a. Hiệu quả kinh tế theo quy mô hay lợi suất tăng dần theo qui mô có nghĩa là
hầu hết các hàng hoá được sản xuất ra đắt hơn khi sản xuất với số lượng nhỏ, và trở
nên rẻ hơn khi qui mô sản xuất tăng lên.
Hiệu quả kinh tế theo qui mô rất quan trọng cho nền thương mại quốc tế của
các nước nhỏ như Việt Nam. Phạm vi các hàng hoá mà theo đó họ có thể có được
quy mô hiệu quả trong sản xuất bị giới hạn nhiều hơn so với nước lớn. Điều này cho
thấy tạo sao các nước nhỏ như Việt Nam mở rộng thương mại hơn so với các nước
lớn.
b. Khả năng chiếm dụng nguồn lực.
Một lý do chủ yếu khác của việc hướng ngoại là ở chỗ các nước có nhưng khả
năng chiếm dụng khác nhau về nguồn lực. Tức là họ có những nguồn cung cấp khác
nhau về cái mà nhà kinh tế gọi là "các yếu tố sản xuất".
Với một nguồn lực riêng lẻ tương đối phong phú của Việt Nam thì việc sản
xuất ra các sản phẩm sử dụng nhiều loại nguồn lực cũng rẻ hơn. Do đó việc hướng
tới xuất khẩu các sản phẩm này là một tất yếu khách quan.

4. Những thuận lợi và thách thức của Việt Nam trong việc thực hiện chiến
lược hướng về xuất khẩu.
4.1. Thuận lợi:
Việc thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu đòi hỏi phải thực hiện một cách
bao quát, toàn diện và tổng hợp của nhiều vấn đề: Phải đánh giá điều kiện thuận lợi
và khó khăn để thấy được khả năng của việc thực hiện, từ đó đưa ra các chính sách
và biện pháp hợp lý nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt hơn chiến lược.
Đối với nước ta hiện nay, việc đánh giá mặt thuận lợi trong việc thực hiện
chiến lược là rất cần thiết nó vừa cho thấy tính đúng đắn của việc lựa chọn chiến
lược và khả năng mang lại thành công của nó. Việc đánh giá các nguồn lực có lợi


thế so sánh trong phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta sẽ cho thấy mặt thuận lợi
của chiến lược hướng về xuất khẩu.
ở nước ta khi nói đến nguồn lực sản xuất có lợi thế so sánh để phát triển kinh
tế đối ngoại thường đề cập đến ba nguồn lực cơ bản là: nguồn nhân lực, tài nguyên
thiên nhiên và vị trí địa lý thuận lợi của đất nước. Đây cũng là những nhân tố đầu
tiên của một quốc gia khi xem xét có lợi thế hay không và lợi thế như thế nào so với
các nước trên thế giới.
a. Nguồn nhân lực: Đến năm 1998 dân số nước ta đã là hơn 78 triệu người
trong đó khoảng 50% là lực lượng lao động mỗi năm có khoảng trên 1 triệu thanh
niên bước vào độ tuổi lao động. Giá lao động của một người Việt Nam rẻ. Điều đó
tạo thuận lợi cho Việt Nam khi tham gia phân công lao động quốc tế. Người Việt
Nam có truyền thống lao động cần cù, có tinh thần vượt khó và đoàn kết cao, thông
minh sáng tạo có khả năng nắm bắt khoa học kỹ thuật hiện đại và ứng dụng nó, có
khả năng thích ứng với những tình huống phức tạp.
Người Việt Nam ngày càng được nâng cao về thể lực trình độ kỹ thuật, kỷ
luật, trình độ quản lý. Với truyền thống lao động, học tập trải qua những thử thách
của lịch sử dân tộc, nguồn lực lao động của Việt Nam được nhân lên và có sức
mạnh nhiều hơn vì lao động đó chứa đựng trí tuệ tầm cao của thời đại.

Như vậy nguồn nhân lực nước ta vừa có lợi thế về số lượng vừa đạt cả chất
lượng khi thực hiện chiến lược phát triển kinh tế dựa trên xuất khẩu.
b. Nguồn tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên thiên nhiên nước ta đa dạng
phong phú bao gồm đất đai, rừng, biển, nguồn nước, khoáng sản đủ loại, khí hậu
(sức gió, ánh nắng, lượng mưa để có thể hình thành năng lượng tự nhiên). Có thể
nói rằng với một phần tài nguyên như thế đất nước ta có điều kiện thuận lợi và tiềm
năng để phát huy lợi thế của mình.
c. Vị trí địa lý: Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi, có chiều dài tiếp giáp với biển
đông là bao lớn của Thái Bình Dương, có tuyến đường giao thông hàng hải, hàng
không từ đông sang tây với những vịnh cảnh, sân bay quan trọng. Đường bộ, đường
sông đã nối ba nước Đông Dương thành thế chiến lược kinh tế, quân sự thuận lợi.
Điều này cho phép Việt Nam có khả năng phát triển nhiều loại hình kinh tế, dịch vụ


khác nhau, đặc biệt nước ta nằm trong khu vực kinh tế phát triển năng động với tốc
độ tăng GDP từ 7-9%/năm trong vài ba thập kỷ trở lại đây.
Những lợi thế so sánh về nhân lực. Tài nguyên thiên nhiên vị trí địa lý thuận
lợi chỉ là lợi thế tính, thực chất là lợi thế về chi phí sản xuất. Trong giao lưu kinh tế
giữa các nước, các ngành sử dụng nhiều nguyên liệu, lao động có lợi thế chi phí
thấp, hàng hoá xuất khẩu sẽ có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế,
đồng thời sẽ hấp dẫn và thu hút nước ngoài vào đầu tư trực tiếp (FDI) để sử dụng
các nguồn lực đó.
Bên cạnh những thuận lợi về lợi thế so sánh của các nguồn lực của nước ta,
cần phải thấy được những mặt thuận lợi khác về tình hình kinh tế, xã hội, chính trị,
các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đó là:
- Công cuộc đổi mới đã khai phá một chặng đường đầu rất quan trọng, tạo ra
những tiền đề cơ bản cho những bước đi tiếp theo, môi trường kinh tế xã hội thuận
lợi; tình hình chính trị ổn định.
- Đảng và Nhà nước nhất quán chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu. Chính phủ Việt Nam đưa ra các chính sách khuyến khích sản xuất hàng hoá

có lợi thế so sánh cao trên cơ sở các nguồn lực sản xuất dồi dào trong nước.
- Thêm vào đó cơ chế quản lý kinh tế của Việt Nam đã trở nên nhạy cảm hơn
bởi chính sách mở cửa làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, tạo thuận lợi cho
kinh tế Việt Nam hoà nhập và kinh tế toàn cầu. Với đường lối mở rộng quan hệ
quốc tế hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước các tổ chức
quốc tế, cùng một thời điểm Việt Nam có thể thực hiện những sách lược kinh tế đối
ngoại khác nhau tương hợp với các nước có các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau
để đạt mục tiêu kinh tế xã hội của mình.
Hiện nay Việt Nam đang là thành viên của ASEAN, AFTA và chuẩn bị tham
gia hội nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới khác như WTO. Điều đó tạo thuận lợi
cho hàng hoá của Việt Nam lưu thông trên thị trường khu vực và thế giới.
Nhìn ra bên ngoài cục diện thế giới đang thay đổi nhanh chóng và sâu sắc trên
nhiều mặt, xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Châu á-


Thái Bình Dương sẽ tiếp tục phát triển năng động và đạt được tốc độ tăng trưởng
cao hơn các khu vực khác. Trong khu vực hoạt động đầu tư ngày càng mạnh mẽ,
tiếp tục diễn ra sự liên kết kinh tế nhiều tầng nấc. Các trung tâm kinh tế thế giới, các
nước lớn đều hướng trọng tâm hoạt động kinh tế chính trị vào Châu á- Thái Bình
Dương. Điều này cho thấy sự thuận lợi quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của
Việt Nam.
4.2. Thách thức.
Không một quốc gia, dân tộc nào phát triển trong thời đại ngày nay mà không
đứng trước những thách thức và đều là thách thức to lớn.
Nước ta trên đường tăng trưởng nhằm phát triển kinh tế - xã hội dựa trên xuất
khẩu ít nhất là phải đối mặt với nhưng thách thức chủ yếu sau đây.
a. Điểm xuất phát thấp.
- Nước ta vẫn còn là một nước nghèo và kém phát triển. GDP/người năm 1997
là 321 USD, 20% số dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
- Dân số còn tăng nhanh (1,9%) và đặc biệt mật độ dân cư trên nhiều vùng rất

cao nhưng lại thiếu đất làm ăn. Nước ta hiện nay còn 70% lực lượng lao động làm
nông nghiệp. áp lực dân số đông và thiếu việc làm là rất lớn.
- Trình độ công nghệ trong các ngành kinh tế nói chung còn rất thấp. Chỉ một
số ít có công nghệ tương đối hiện đại. Nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được trang
bị từ những năm 1960, thấp thua so với trình độ trung bình của thế giới đến 2-4 thế
hệ công nghệ .
- Trình độ phát triển kinh tế kém, nền kinh tế hàng hoá mới bắt đầu hình
thành trong năm tới, lực lượng sản xuất nhỏ bé, cơ sở vật chất nhất là kết cấu hạ
tầng còn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ chuyển biến chậm. Thêm vào đó
Việt Nam chưa hiểu biết đầy đủ về các thiết chế thị trường quốc tế do vậy không
tránh khỏi phải mất một thời gian ngỡ ngàng lúng túng sơ sơ trong việc hợp tác kinh
tế với nước ngoài.


Điểm xuất phát thấp có nghĩa là đã tụt hậu nhiều và nguy cơ tụt hậu ngày càng
xa hơn với thế giới là rất rõ. Có thể nói khắc phục nguy cơ này là thách thức lớn
nhất trong việc thực hiện mục tiêu của chiến lược.
b. Nền kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi, một sự chuyển đổi vừa
theo định hướng thị trường, vừa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự tìm tòi hoàn toàn mới chưa có
mấy thành công trên thế giới.

c. Cạnh tranh quốc tế gay gắt.
- Khu vực Đông Nam á và Đông á đã từng phát triển nhanh và năng động.
Nhưng hiện nay nhiều nước đang lâm vào khung hoảng tài chính tiền tệ nghiêm
trọng mà dự báo còn phải mất nhiều thời gian mới khắc phục được. Trong việc tham
gia ASEAN, AFTA chuẩn bị gia nhập WTO, APEC nước ta phải chấp nhận sự cạnh
tranh đan xen với tác động của khủng hoảng, bất ổn định cũng gay gắt chưa từng có.
- Nước ta là một quốc gia ven biển đông vừa có thuận lợi cho sự phát triển,
đồng thời Biển đông cũng đang chứa đựng nhiều tranh chấp rất phức tạp về chủ

quyền và lợi ích. Bên cạnh đó Mỹ và phương Tây tiếp tục mưu toan thực hiện "diễn
biến hoà bình" ở Việt Nam gây áp lực với ta về "dân chủ, nhân quyền". Chính sách
hai mặt của Trung Quốc với ta chưa hề thay đổi. Đối phó sức uy hiếp này ngày càng
tăng, cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương diễn ra phức
tạp đe doạ an ninh, chủ quyền và lãnh thổ nước ta buộc chúng ta phải hết sức coi
trọng việc củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng.
d. Nguồn nhân lực bị hạn chế.
Nước ta có tiềm năng lớn về nguồn nhân lực, chủ yếu là về mặt tinh thần và
văn hoá. Nhưng ở giai đoạn hiện nay Việt Nam đang phải đương đầu với thách đố
về lợi thế so sánh của nguồn nhân lực. Mặt hạn chế và yếu kém về chất lượng (kiến
thức, kỹ năng, tác phong) của nguồn nhân lực nhất là ở các vùng nông thôn, miền
núi, còn là một trở ngại lớn cho sự phát triển. Đòi hỏi thì rất lớn và cấp bách song
khả năng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực lại quá nhỏ bé.


e. Vốn đầu tư.
Khác với những năm đầu thực hiện chính sách đổi mới khi mà sự tăng trưởng
phụ thuộc phần lớn vào các yếu tố thuộc về cơ chế, nền kinh tế bước vào giai đoạn
muốn tăng trưởng nhất thiết phải có vốn đầu tư. Trong khi đó, đầu tư trực tiếp của
nước ngoài đang có xu hướng chững lại, tốc độ rải ngân vốn ODA chậm, cùng với
hiện tượng co cụm lại trong việc huy động và cho vay vốn của các ngân hàng trong
nước đang tạo nên mối lo ngại về tình trạng suy giảm vốn đầu tư, ảnh hưởng đến
tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Những thách thức nêu trên chỉ là một phía mà ở phía kia chính là cơ hội, thậm
chí là thời cơ. Vấn đề là phải có chính sách đúng để khai thác mọi thời cơ vượt qua
thách thức đi tới mục tiêu.
5. Kinh nghiệm của các nước.
Để xây dựng và thực hiện tốt "chiến lược hướng về xuất khẩu" tôi cho rằng,
nước ta cần nghiên cứu vận dụng những kinh nghiệm của nước ngoài, đặc biệt là
chú trọng kinh nghiệm của các nước trong khu vực trong quá trình thực hiện chiến

lược hướng về xuất khẩu. Sau đây là những kinh nghiệm chủ yếu.
Thứ nhất, trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược này, các nước thường phát
huy lợi thế về tài nguyên và nhân công dồi dào để phát triển các ngành khai thác và
sản xuất các sản phẩm thô xuất khẩu ra thị trường thế giới. Việc khai thác tài
nguyên - trong nhiều trường hợp lại phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài; vào nhu cầu
thị trường ngoài nước và giá cả sản phẩm thô bất lợi cho nước xuất khẩu. Do đó các
nước nhanh chóng chuyển sang giai đoạn phát triển công nghiệp chế biến, giảm dần
tỷ trọng xuất sản phẩm thô, đẩy mạnh các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt,
may, lắp ráp, gia công, đồng thời lựa chọn một số ngành để từng bước phát triển cơ
sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại, sử dụng nhiều chất xám và đã tạo ra sự chuyển biến
về chất trong cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu công nghiệp nói riêng.
Thứ hai, mỗi nước thường có nhiều tiềm năng có khả năng khai thác để xuất
khẩu ra thị trường bên ngoài. Song sự thành công nhiều hay ít của chủ trương
hướng về xuất khẩu phụ thuộc vào nhiều vấn đề, trong đó có những vấn đề chủ yếu
sau:


- Trong số những tiềm năng của đất nước thì phải xác định được tiềm năng
nào là lợi thế so sánh với nước ngoài, với khu vực nào trên thị trường quốc tế. Lợi
thế so sánh đó không phải là bất biến mà nó cũng vận động, biến đổi tuỳ thuộc vào
điều kiện cụ thể trong từng thời kỳ nhất định đối với từng nước bạn hàng, từng khu
vực.
- Việc khai thác lợi thế so sánh để xuất khẩu phải hướng tới mục tiêu toàn
diện: tạo việc làm, tích luỹ vốn, tiếp thu công nghệ, nâng cao tay nghề, trình độ
quản lý, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá cho nhân dân Song cần biết giới hạn
và mục tiêu cho từng giai đoạn phát triển và biết kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với
mục tiêu xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển với mục tiêu chủ yếu đã xác định, cần lựa
chọn hình thức, quy mô sản xuất, trình độ công nghệ, sản phẩm và thị trường xuất
khẩu thích hợp.
- Hướng về xuất khẩu, ưu tiên cho hoạt động xuất khẩu không được đi lệch

hướng cơ cấu kinh tế quốc dân đã lựa chọn. Xuất khẩu phải nhằm mục tiêu tạo ra
các tiền đề, điều kiện phục cụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân
theo hướng từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, từ công nghiệp
chế biến dựa trên lao động thủ công, kỹ thuật đơn giản đến công nghiệp chế tạo dựa
trên công nghệ hiện đại. Đồng thời cơ cấu kinh tế quốc dân ấy phải trở thành mắt
khâu không thể thiếu được trong hệ thống phân công lao động của khu vực và quốc
tế.
Thứ ba, hướng về xuất khẩu thì sản phẩm phải chen chân và đứng được ở thị
trường bên ngoài. Trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế còn thấp, khả năng
cạnh tranh của những sản phẩm xuất khẩu trên thị trường thế giới còn hạn chế thì
các yếu tố vốn, kỹ thuật, công nghệ phải được chuyển từ ngoài nước vào trong
nước một cách thuận lợi và dễ dàng. Điều này có liên quan chặt chẽ đến vai trò của
Chính phủ có khả năng tạo ra môi trường chính trị - xã hội ổn định, môi trường kinh
tế - pháp lý đồng bộ, thuận lợi cho các nhà sản xuất trong và ngoài nước với cơ chế,
chính sách và bộ máy có khả năng huy động đến mức tối đa các nguồn lực bên
trong, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được tiếp nhận từ bên ngoài, tận dụng tối
đa các cơ hội khách quan và đối phó có hiệu quả với những thách thức trước những
biến động thường xuyên của thị trường trong và ngoài nước.


II- Các chính sách để thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu.
1. Chính sách cơ cấu xuất khẩu - Quy hoạch xuất khẩu.
Nhân tố quyết định quy mô, nhịp độ xuất khẩu hàng hoá là cơ cấu hàng xuất
khẩu và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Xác định cơ cấu hàng hoá có hiệu quả
và những mặt hàng chủ lực là nội dung quan trọng của chính sách mặt hàng xuất
khẩu.
Trong nền kinh tế thị trường việc đổi mới chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu
phải căn cứ vào: thị trường xuất khẩu; điều kiện và khả năng sản xuất ở trong nước;
hiệu quả. Trong ba yếu tố này, hiệu quả là yếu tố quan trọng nhất trong sự lựa chọn
cơ cấu và mặt hàng xuất khẩu.

Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu cần có chính sách
chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng: Giảm tỷ trọng thuế và cơ chế
đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Giảm tỷ
trọng các sản phẩm xuất khẩu truyền thống đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm
xuất khẩu mới. Tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong giá trị kim
ngạch xuất khẩu.
Để đảm bảo quy hoạch xuất khẩu, Nhà nước cần ban hành các chính sách đầu
tư (vốn và công nghệ) đối với các ngành,các doanh nghiệp sản xuất, khai thác hàng
xuất khẩu, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất
kinh doanh các sản phẩm xuất khẩu.
Để tiếp tục thay đổi cơ cấu các loại hàng xuất khẩu theo hướng tránh bị kiệt
quệ tài nguyên thiên nhiên cần phải giải quyết các vấn đề sau:
- Tăng nhanh tỷ trọng hàng công nghiệp và khai khoáng, đặc biệt là các nhóm
hàng dầu mỏ và sản phẩm từ dầu mỏ, than đá, thiếc, đá quý, các mặt hàng chế biến
từ nông, thuỷ sản.
- Đẩy mạnh gia công, đa dạng hoá các mặt hàng gia công từ may mặc, dệt da,
hàng tiêu dùng, lắp ráp cơ khí điện tử. Muốn vậy phải hiện đại hoá công nghệ thiết
bị, đào tạo đội ngũ chuyên gia và công nhân kỹ thuật, cải tiến cách thức tổ chức sản
xuất.


- Mở rộng hiểu biết và tiếp tục đầu tư tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
của thế giới kết hợp với nét nghệ thuật dân tộc cổ truyền làm ra các loại hàng thủ
công mỹ nghệ có sức hấp dẫn hơn.
- Xây dựng những ngành hàng và mặt hàng chủ lực cho xuất khẩu.
2. Chính sách gắn sản xuất với xuất khẩu.
Để xác định một số mặt hàng xuất khẩu có khả năng sản xuất với khối lượng
lớn, chất lượng cao để có thể chiếm lĩnh được thị trường, chúng ta cần phải quan
tâm đến một số lĩnh vực sản xuất sau đây:
Nông nghiệp: là lĩnh vực về lâu dài vẫn đóng vai trò cung cấp một khối lượng

hàng hoá đáng kể cho xuất khẩu trực tiếp và nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu.
Để biến gạo thành mặt hàng xuất khẩu chiến lược cần tạo ra những vùng sản
xuất lúa chuyên cho xuất khẩu, có chính sách ưu tiên vốn, khoa học kỹ thuật và cơ
sở hạ tầng đầy đủ cho các khâu: thâm canh, chế biến, bảo quản và vận chuyển. Phải
khẳng định vùng sản xuất lúa gạo chủ yếu cho xuất khẩu là đồng bằng sông Cửu
Long và một số tiểu vùng đồng bằng sông Hồng. Cần phải tạo ra giống lúa thơm
ngon, hạt dài, ít bị gãy trong quá trình xay xát. Song song với việc cải tiến thiết bị
xay xát, cần chú trọng nâng cao chất lượng thóc trong khâu phơi sấy.
Các mặt hàng nông sản khác muốn đạt được giá trị cao cần phải chuyển sang
dạng chế biến sẵn thay cho việc xuất khẩu dạng thô hoặc sơ chế. Vì vậy cần phải có
chính sách bảo đảm sản xuất, cần phải đầu tư bằng mọi nguồn vốn, khoa học kỹ
thuật, công nghệ để chuyển những mặt hàng nông sản xuất khẩu thô có giá trị thấp
sang những mặt hàng đã qua chế biến công nghiệp có giá trị cao.
Các mặt hàng công nghiệp và khai khoáng, sản lượng khai thác dầu thô và
than đá xuất khẩu ngày càng tăng nhanh và khả năng xuất khẩu trong những năm tới
con lớn. Tuy nhiên cần phải có đầu tư thiết bị, kỹ thuật khai thác, xử lý nguyên liệu
vận tải và cảng.
Một vấn đề nữa cần phải thấy rằng ở những ngành nào, địa phương nào, sản
phẩm nào có thể thực hiện xuất khẩu thì phải đầu tư sản xuất ngay. ở những nơi


khác chưa có điều kiện thì hoặc là tạo dần điều kiện cho nó hoạt động hoặc hướng
hoạt động của nó vào phục vụ những ngành, địa phương, sản phẩm xuất khẩu.
3. Chính sách mở cửa thị trường.
Để thúc đẩy chiến lược hướng về xuất khẩu, Đảng và Nhà nước chủ trương
mở rộng và tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại, thực hiện phương châm "mở
cửa" Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, các tổ chức chính phủ hay phi
chính phủ nhằm tìm kiếm thị trường và bạn hàng cho các chi phí xuất khẩu.
Mặt khác để thúc đẩy xuất khẩu cần phải có chính sách mở rộng thị trường
tiêu thụ, tăng cường hợp tác kinh tế, tổ chức và tìm hiểu tốt thị trường bên ngoài.

Nhận thức được điều đó, Bộ Thương mại đã giữ vững vai trò chủ yếu hoạch định
chiến lược hướng về xuất khẩu. Bộ đã tổ chức hội nghị về công tác thị trường ngoài
nước (từ ngày 20 -22/12/1997) và đã đưa ra các nhiệm vụ lớn là:
- Nâng cao nhận thức và xác định rõ trách nhiệm đối với công tác thị trường
ngoài nước.
- Khẩn trương nghiên cứu tình hình chiến lược thị trường.
- Tổ chức thực hiện tốt cam kết quốc tế và tiến hành ký các hiệp định mới
trong quan hệ thương mại song phương và đa phương.
- Tiếp tục đổi mới hoạt động và nâng cao năng lực công tác cho các cơ quan
đơn vị làm công tác thị trường ngoài nước.
- Tăng cường đào tạo cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thị
trường ngoài nước có đức có tài.
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống chính sách, biện pháp phục vụ việc mở rộng
thị trường ngoài nước, trước hết đối với thị trường xuất khẩu.
Bộ trưởng cùng các đại biểu thảo luận và làm rõ thêm mục tiêu của công tác
thị trường ngoài nước trong thời gian tới là hướng vào xuất khẩu, đồng thời các đại
biểu nhấn mạnh thêm công việc phải làm là:
- Cần có những quyết sách mạnh mẽ đối với công tác thị trường ngoài nước cả
về mặt tổ chức, cán bộ, tài chính.


- Cần lập một tổ chức phát triển thị trường ngoài nước thuộc Bộ Thương mại
trong đó có sự hỗ trợ của Nhà nước. Nghiên cứu mở Công ty của Việt Nam ở nước
ngoài, vốn do Nhà nước cấp. Tăng cường hơn nữa công tác thông tin báo chí
thương mại, cung cấp đủ thông tin và các báo chí của ngành cho các thương vụ.
- Bộ cần sớm tuyển chọn xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ đủ sức đáp ứng yêu cầu
mới.
- Nhằm phục vụ chiến lược hướng về xuất khẩu cần phải tổ chức thu thập, xử
lý và cung cấp về nước các thông tin về công nghệ và kỹ thuật của thế giới để phục
vụ sản xuất trong nước.

4. Chính sách đầu tư trong và ngoài nước
Đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của
quốc gia - Trong những năm trước mắt khi mà nguồn vốn tích luỹ nội bộ còn hạn
hẹp thì đầu tư nước ngoài (đầu tư trực tiếp) chiếm vị trí quan trọng. Thông qua đầu
tư trực tiếp của nước ngoài, chúng ta tranh thủ được vốn, kỹ thuật và công nghệ
mới, mở rộng thị trường ngoài nướ, tiếp thu kinh nghiệm tiên tiến, trên cơ sở đó xây
dựng những cơ sở kinh tế mới, hiện đại hoá cơ sở hiện có nhằm tạo việc làm cho
người lao động, khai thác một phần những tiềm năng của đất nước để tăng nhanh
nguồn hàng xuất khẩu.
Hoạt động đầu tư nước ngoài đóng vai trò to lớn cho việc thực hiện chiến lược
công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu . Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt
cơ cấu xuất khẩu tiên tiến chỉ có 26% là nguyên liệu, còn lại 74% là hàng chế biến
sâu. Hiện nay khu vực có đầu tư nước ngoài chiếm 100% sản lượng dầu thô 44,8%
sản lượng thép Trong đó kim ngạch xuất khẩu 1996 phần đóng góp của khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 11%, nếu tính cả xuất khẩu dầu thô thì tỷ lệ này lên
đến 25%. Trong thời gian tới chắc chắn phần xuất khẩu của khu vực này sẽ còn tăng
lên nữa.
Việc thu hút đầu tư nước ngoài được coi là giải pháp quan trọng để thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế dựa trên xuất khẩu . Do đó ngày 12/11/1996 Quốc hội
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại


Việt Nam. Với việc tạo ra một sân chơi thông thoáng, hấp dẫn, bình đẳng, đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam không ngừng tăng cả về số vốn và số dự án.
Trongthời gian thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà nước nên
tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể ban hành thêm các ưu đãi đầu tư,
song không nên thay đổi luật một cách quá nhanh chóng để tránh gây tình trạng bất
ổn trong quy chế.
Việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằm khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam
cần đặt trong tương quan so sánh với các nước trong khu vực và đặt trên quan điểm

thúc đẩy đầu tư trong nước với sự kiện gia nhập AFTA, giờ đây việc thu hút đầu tư
thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam cần phải được đặt chung trong bối cảnh phát triển
của cả khối ASEAN.
Để thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu, cần tập trung đầu tư theo một
số hướng sau đây:
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện, vững chắc,
phát huy tiềm năng nông nghiệp nhiệt đới.
- Đầu tư phát triển nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá hường về xuất khẩu.
- Phát triển mạnh công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông - lâm -
thuỷ, hải sản, tăng nhanh giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu, xây dựng một số
ngành công nghiệp hiện đại có khả năng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
- Phát triển các lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ ngoại thương.
Muốn làm tốt hướng trên, chúng ta không chỉ dựa vào nguồn vốn từ nước
ngoài mà cần phải tập trung huy động mọi nguồn vốn trong nước là chủ yếu. Nhà
nước có chính sách động viên tiết kiệm tăng nhanh tích luỹ nội bộ nền kinh tế.
Không chỉ từ khu vực kinh tế quốc doanh mà cả từ khu vực kinh tế tư nhân. Nhà
nước đưa ra tỷ lệ lãi suất phù hợp để huy động sức dân trong nước và đẩy mạnh
xuất khẩu.
5. Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu.


a. Thuế xuất khẩu: Nhà nước Việt Nam sử dụng chính sách thuế với tư cách
là một công cụ quan trọng để khuyến khích xuất khẩu.
Để khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu, vừa qua
Nhà nước đã áp dụng chính sách miễn giảm thuế: miễn thuế hầu hết các mặt hàng
xuất khẩu, áp dụng thuế xuất khẩu thấp đối với một số mặt hàng còn chịu thuế, sản
xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, các đơn vị
kinh tế dùng lợi nhuận đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu được miễn giảm thuế lợi
tức tối đa 50%, các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài được miễn

thuế nhập khẩu đối với thiết bị, vật tư tiêu dùng cho gia công hàng, vật tư nhâp khẩu
để sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn lại thuế nhập khẩu đã nộp.
Trong kỳ họp Quốc hội vừa qua Luật thuế giá trị gia tăng đã được thông qua
và sẽ được áp dụng từ này 01/01/1999, trong đó quy định mức thuế suất 0% đối với
tất cả các hàng hoá xuất khẩu và các hàng hoá này còn được thoái trả thuế giá trị gia
tăng ở các khâu trước. Đây thực sự là một biện pháp tài chính khuyến khích xuất
khẩu tích cực của Việt Nam.
b. Tỷ giá hối đoái: Sự thay đổi tỷ giá hối đoái là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng
đến hiệu quả xuất khẩu và đương nhiên nó ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất
khẩu. Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ đến quản lý kinh tế vĩ mô (cán cân thanh
toán, lạm phát, quản lý tiền tệ ). Vì vậy, chính sách tỷ giá hối đoái luôn được xem
xét trong bối cảnh của chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Vấn đề then chốt là phải
tạo ra tỷ giá hối đoái hiện thực nhằm bảo đảm đủ để khuyến khích xuất khẩu. Các
nhà xuất khẩu được thực hiện hối đoái trong điều kiện Chính phủ có khả năng kiểm
soát tỷ giá hối đoái.
Việc thả nổi tỷ giá hối đoái có điều tiết vĩ mô của Nhà nước tạo ra môi trường
cạnh tranh tự do, công bằng cho các nhà kinh doanh mọi thành phần, loại bỏ được
những tổ chức cá nhân doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ.
Không nên để đồng tiền Việt Nam và đồng tiền nước ngoài chênh lệch quá xa
so với tỷ giá trên thị trường, khắc phục tình trạng ngân hàng không có ngoại tệ để
bán ra, các đơn vị kinh tế tự do bán ngoại tệ cho nhau. Do đó, cần đổi mới cơ chế
quản lý ngoại tệ theo hướng ngân hàng Nhà nước mua lại toàn bộ số ngoại tệ của


các đơn vị xuất khẩu theo tỷ giá kinh doanh trên nguyên tắc thuận mua vừa bán.
Nhà nước cần dành một số ngoại tệ cho ngân hàng ngoại thương vay để làm vốn (ít
nhất là 100 triệu USD kinh doanh ngoại tệ và điều tiết tỷ giá cho thị trường ổn
định, không để đột biến.
Xét từ góc độ chính sách như vậy người ta đã rút ra một kết luận khá tổng quát
rằng: bất cứ nước noà muốn thúc đẩy tăng trưởng chung bằng động lực xuất khẩu

cũng đều phải thận trọng để tránh có một tỷ giá hối đoái bị nâng cao.
c. Hạn ngạch xuất khẩu: Hiện nay các mặt hàng xuất khẩu theo hạn ngạch là
gạo, hàng đệt may xuất khẩu và EU, Canada, Nauy. Cơ chế điều hành là Bộ thương
mại công bố hạn ngạch được thoả thuận theo hiệp định đã ký với EU, Canada, Na
uy, Bộ thương mại và Bộ công nghiệp tìm khả nang đàm phán với phía nước ngoài
nhằm tăng hạn ngạch và chủng loại hàng hoá phù hợp với năng lực sản xuất trong
nước và tập trung phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở sản xuất.
Việc giành hạn ngạch xuất khẩu trong nước và tập trung phân bổ hạn ngạch
cho các cơ sở sản xuất.
Việc giành hạn ngạch xuất khẩu để phân bổ cho các địa phương, đơn vị sản
xuất thông qua các Bộ, ngành hàng như hiện nay vừa gây phiền hà cho cơ sở vừa
không phù hợp với kinh tế thị trường. Các địa phương, các đơn vị sản xuất cố giành
cho được quota mặc dù thiếu vốn, không có thị trường, thiếu phương tiện kinh
doanh, không có khả năng thực hiện. Điều đó tất yếu dẫn đến tình trạng mua bán
quota vòng vèo. Do vậy cần hoàn thiện phương thức phân bổ quota theo nguyên tắc
"một cửa" chỉ phân cho các đơn vị đã có quyền xuất khẩu trực tiếp theo nhóm hàng
xuất khẩu đem lại hiệu quả cao, đóng góp nhiều cho Nhà nước. Tiến tới phân bổ
quota qua hình thức gọi thầu hoặc đấu giá với sự tham gia của các đơn vị sản xuất
và đơn vị lưu thông có vốn liếng và quan hệ thị trường.
d. Hỗ trợ xuất khẩu: Việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có một khuôn khổ
tổ chức có hiệu quả để giải quyết các lĩnh vực như thu thập thông tin, phân phối
thông tin và tiếp thị.
Những hình thức tổ chức hỗ trợ xuất khẩu bao gồm việc thành lập các tổ chức
đẩy mạnh xuất khẩu, giúp đỡ cho việc tiếp thị xuất khẩu và hỗ trợ cho các công ty

×