LỜI GIỚI THIỆU
Trong thế giới hiện đại, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa
với nước ngoài mà lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước. Muốn phát
triển nhanh mỗi nước không chỉ đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải
biết tận dụng có hiêụ quả tất cả những thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của
loài người đã đạt được. Chính vì lẽ đó V.I. Lênin đã khẳng định "có một sức
mạnh lớn hơn nguyện vọng, ý chí và quyết tâm của bất cứ Chính phủ hay giai
cấp thù định nào, đó là quan hệ kinh tế thế giới".
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia Đông Á cho thấy, nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng cao trong nhiều thập niên của họ có nguyên nhân một phần là nhờ
đã thực hiện chiến lược hướng ngoại khôn ngoan. Việt Nam muốn phát triển
nhanh nền kinh tế và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng
như tài nguyên con người thì không thể không ưu tiên cho xuất khẩu.
Ở Việt Nam xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế và xây dựng CNXH. Việc mở rộng xuất khẩu là phương tiện
thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế nhằm tăng thu nhập ngoại tệ cho nguồn tài
chính, cho nhu cầu xã hội cũng như tạo cơ sở cho sự phát triển các cơ sở hạ
tầng, khuyến khích việc sản xuất trong nước. Vai trò này đã được Đảng nhận
thức rất lớn và được nhân mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1996
"xuất khẩu là một trong 3 chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế xã hội....
không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là điều
kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa.
Để khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định và nhất quán thực hiện
"Chiến lược hướng về xuất khẩu từ nay đến năm 2005". Đã có nhiều hội nghị
thảo luận và nhiều bài viết về vấn đề này, tuy nhiên mỗi bài viết lại đề cập đến
một khía cạnh khác nhau, chưa nêu lên được toàn cảnh trong quá trình thực
hiện. Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Chiến
lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm 2005"
Trong bài này tôi xin đề cập tới những vấn đề chung nhất, nổi bật, đồng
thời cố gắng tiếp cận tối đa tính toàn diện. Nhưng vì đây là một đề tài lớn và
phức tạp, khả năng có hạn nên khong tránh khỏi những sai sót. Kính mong được
sự góp ý kiến bổ sung của các thầy cô giáo và những ai quan tâm đến đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, giáo viên hướng và các thầy cô giáo đã
tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
1
I- TỔNG QUAN VỀ CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU.
Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế - xã hội,
khai thác tôi ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và
ổn định, mỗi nước phải xác định cơ cấu kinh tế hợp lý trang bị kỹ thuật ngày
càng hiện đại do các ngành kinh tế. Ở nước ta đang phát triển quá trình ấy gắn
liền với quá trình công nghiệp hoá.
Vậy công nghiệp hoá như thế nào để phát triển kinh tế -xã hội của một đất
nước.
Trong các sách báo kinh tế hiện nay người ta thường gặp nhiều thuật ngữ
khác nhau liên quan đến đường hướng công nghiệp hoá ở các nước đang phát
triển. Những thuật ngữ phổ biến là "mô hình phát triển", "mô hình công nghiệp
hoá", "chiến lược công nghiệp hoá".... Việc luận giải những thuật ngữ này không
phải là đơn giản. Bởi lẽ, nếu không đủ chứng cứ xác thực và cụ thể về xuất xứ
và nội dung của chúng, việc luận giải sẽ mang tính suy lý chủ quan áp đặt. Thật
ra việc đi sâu vào luận giải các thuật ngữ là không cần thiết. Điều quan trọng
không phải là từ ngữ sử dụng mà là nội dung cốt lõi của vấn đề.
Hiện nay, ngoài một số ít nước đang phát triển đã cất cánh và đang tiến tới
sự trưởng thành một cách ổn định, phần lớn các nước đang phát triển vẫn chưa
thoát khỏi cái "vòng luẩn quẩn" của lạc hậu đói nghèo và chậm phát triển về
kinh tế và xã hội. Các nước này đang mày mò tìm kiếm phương hướng và giải
pháp dài hạn trong việc thực hiện quá trình công nghiệp hoá nhằm nhanh chóng
giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội bức xúc. Việc xác định chiến lược công
nghiệp hoá theo kiểu nào đó là nhiệm vụ tiền đề phức tạp. Nếu quan niệm vấn
đề một cách giản dị thì xác định mô hình chiến lược về công nghiệp hoá đòi hỏi
phải xác định được hệ thống các quan điểm phát triển, các phương hướng dài
hạn phát triển kinh tế xã hội những giải pháp then chốt thực hiện mục tiêu và
phương hướng đã định nhằm đưa đất đến trạng thái tương lai ấy.
Trong khoa học kinh tế hiện đại có nhiều cách tiếp cận chiến lược công
nghiệp hoá. Bản thân công nghiệp hoá là một quá trình nhiều mặt, bởi vậy
"chiến lược" thực hiện cũng phải thể hiện tính toàn diện và tổng hợp của quá
trình này. Từ thực tiễn của nhiều nước, đặt biệt là những nước đang phát triển đã
thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá. Người ta đã khái quát thành hai
loại mô hình chiến lược công nghiệp hoá theo nội dung trọng tâm của mỗi mô
2
hình "chiến lược thay thế nhập khẩu", "chiến lược hướng về xuất khẩu". Đây là
hai mô hình được các nước áp dụng thành công trong việc thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của các nước đó.
1. Chiến lược phát triển kinh tế của các nước.
a. Chiến lược thay thế nhập khẩu.
Về mặt lịch sử, chiến lược này được các nước đi tiên phong trong công
nghiệp hoá thực hiện từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, thông qua việc lập hàng
rào bảo hộ sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh của hàng ngoại nhập. Tư
tưởng cơ bản của chiến lược này là mỗi nước đang phát triển cần phát triển
mạnh mẽ việc sản xuất các hàng hoá, đặc biệt là hàng tiêu dùng, để thay thế các
hàng hoá xưa nay vẫn phải nhập khẩu từ các nước tư bản phát triển. Sự phát
triển như vậy sẽ mang lại tác dụng nhiều mặt: khai thác nguồn lực sẵn có để thoả
mãn nhu cầu cơ bản và cần thiết trong nước, mở rộng thị trường phát triển sản
xuất hàng hoá, tạo thêm việc làm góp phần giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc,
tiết kiệm ngoại tệ. Tuy nhiên, chiến lược này không đi đến "đóng cửa" hoàn toàn
nền kinh tế nhưng đã chứa đựng một số nhược điểm và hạn chế sau:
Một là: Với yêu cầu sản xuất chỉ để tiêu dùng trong nước, các nhà sản xuất
không được tiếp xúc với thị trường bên ngoài, hàng hoá không được đánh giá
kiểm nghiệm theo tiêu chuẩn quốc tế, nên không có sức ép buộc phải cải tiến kỹ
thuật và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất bồi dưỡng tay nghề nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm. Do đó cả quy mô lẫn trình độ sản xuất không có động lực để
mở rộng, phát triển. Ở Malaysia thời kỳ công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
(1960-1970) ngành khai khoáng dậm chân tại chỗ chỉ chiếm 6% trong GDP.
Ngành chế tạo chỉ tăng 4%
1
, ở Philipins chiến lược thay thế nhập khẩu không
làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài, trái lại càng phụ thuộc nhiều hơn về máy
móc thiết bị, nguyên liệu và sản phẩm trung gian. Do đó GDP bình quân đầu
người liên tục giảm từ 250 đôla năm 1969 xuống 230 đôla năm 1970
2
.
Hai là: Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu tất yếu đưa đến cơ cấu kinh tế
mở rộng, bao gồm nhiều ngành nghề. Với cơ cấu mở rộng đất nước không tập
trung được nhân tài, vật lực vốn còn hạn chế vào những ngành mà trong nước có
điều kiện phát huy lợi thế so sánh với các nước khác trên thế giới. Mặt khác thị
1
Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 2- tháng 4/1996. Trang 51
2
Tư liệu kinh tế trước thành viên ASEAN 1993- Trang 196
3
trường trong nước bị bão hoà và trở nên chật hẹp so với khả năng phát triển của
sản xuất.
Những cơ sở sản xuất dựa trên kỹ thuật, công nghệ mới, có công suất lớn
do quá trình công nghiệp hoá tạo ra đã không phát huy được hiệu quả. Ở Thái
Lan qua 4 kế hoạch 5 năm (từ năm 1961 đến 1981) mục tiêu của chiến lược
công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu không thực hiện được mà ngày càng phụ
thuộc vào nhập khẩu, nhập siêu ngày càng lớn từ 12,08 tỷ bạt năm 1976 lên
25,83 tỷ bạt năm 1978.
Ba là: việc thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước có thể sản xuất
được với bất cứ giá nào vì mục đích hạn chế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ đã
đưa đến tình trạng có những sản phẩm, sản xuất ra đạt hiệu quả thấp, gây lãng
phí lao động sống và lao động vật hoá trong nước so với sản phẩm nếu được
nhập khẩu. Đối với sản phẩm do cơ sở sản xuất của nước ngoài đầu tư, các nhà
đầu tư nước ngoài thu được lợi nhuận siêu ngạch và người dân trong nước phải
chịu mức giá cao hơn mức giá quốc tế.
Bốn là: Việc lập hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước và chính sách trợ
giúp cho sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu thường đưa đến tâm lý ỷ lại, chờ
đợi trong sản xuất và độc quyền trong buôn bán. Việc đẩy mạnh sản xuất hàng
hoá thay thế nhập khẩu có mục đích tiết kiệm ngoại tệ, dành số ngoại tệ còn hạn
hẹp vào việc nhập khẩu thiết bị kỹ thuật là đúng hướng. Song do nhấn mạnh một
chiều và thái quá đối với việc thay thế nhập khẩu, không chú trọng đến đầu tư
cho những sản phẩm xuất khẩu nên khả năng tham gia của những sản phẩm
trong nước ra thị trường ngoài nước vốn đã yếu lại càng yếu thêm và do đó
nguồn ngoại tệ vốn đã ít ỏi ở những nước đang phát triển lại càng căng thẳng
thêm trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá.
Những hạn chế nói trên khiến cho việc thực hiện mục tiêu thay thế nhập
khẩu không đạt được theo ý muốn. Các nguồn lực trong nước không được khai
thác và sử dụng có hiệu quả, nền kinh tế phải đối mặt với cuộc khủng hoảng
trong cán cân thanh toán; nhập siêu, nợ nước ngoài. Trình độ kỹ thuật và công
nghệ thấp; thiếu vốn đầu tư; năng lực quản lý yếu kém v.v... là những trở ngại
lớn cho việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước.
4
Thực tiễn mỗi nước và xu thế thời đại đã buộc các nước lựa chọn chiến
lược, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu phải chuyển sang lựa chọn
chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
b. Chiến lược hướng về xuất khẩu.
Trong điều kiện thế giới ngày nay, tất cả các nước ở những mức độ khác
nhau đều được cuốn hút vào quá trình phân công lao động quốc tế và tham gia
vào hoạt động thương mại quốc tế. Để thực hiện công nghiệp hoá với quy mô
lớn và nhịp độ nhanh, nhát thiết phải mở rộng thị trường ra nước ngoài. Song
các nước đang phát triển và phát triển vấp phải những khó khăn lớn : Trình độ
kinh tế - kỹ thuật thấp kém, vốn thiếu nghiêm trọng, kỹ năng quản lý kém, kinh
nghiệm thương mại quốc tế ít ỏi... Để thực hiện hướng ngoại, nghĩa là phát triển
sản xuất trong nước với thị trường quốc tế là trọng tâm, phải phát huy được lợi
thế tương đối của đất nước so với các nước bạn hàng. Lý thuyết lợi thế tương
đối của D.Ricardo đưa ra từ năm 1817 vẫn được coi là cơ sở lý luận xuất phát
của chiến lược hướng về xuất khẩu mà các nước đang phát triển thực hiện rộng
rãi từ đầu những năm 60 của thế kỷ này.
Tư tưởng cơ bản của chiến lược này là phát triển các ngành sản xuất sản
phẩm chủ yếu phục vụ xuất khẩu, trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của đất
nước.
Nhằm phát huy lợi thế về tài nguyên phong phú nhân công dồi dào và rẻ,
trong thời gian đầu thông thường các nước phát triển tập trung vào phát triển các
ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô xuất khẩu sang nước công nghiệp phát
triển. Sự phát triển này trong giai đoạn nhất định để tạo điều kiện phát triển kinh
tế, giải quyết những vấn đề kinh tế -xã hội cấp thiết của đất nước. Tuy nhiên
việc tập trung phát triển các ngành này gặp một số trở ngại:
- Cần sản phẩm thô trên thị trường quốc tế tăng chậm.
- Điều kiện mậu dịch bất lợi: Giá nguyên liệu thô giảm hoặc tăng chậm, giá
sản phẩm chế biến tăng nhanh.
- Sự phát triển các ngành này trong nhiều trường hợp phụ thuộc vào sự đầu
tư của các nước công nghiệp phát triển.
5
Sự tập trung quá mức vào một ngành ở một nước lại dẫn đến toàn bộ nền
kinh tế phụ thuộc vào sự biến động của ngành ấy. Đó là điều mà các nhà kinh tế
học đã đúc rút thành "sự bất lợi của chuyên môn hoá quá hẹp".
Các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động sống (như dệt, may mặc, lắp ráp
các sản phẩm cơ khí và điện tử....) cũng được chú ý phát triển nhằm khai thác lợi
thế về nhân công.
Sự phát triển có kết quả những ngành này sẽ tạo nên những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển các ngành kinh tế khác và giải toả những căng thăng về
kinh tế - xã hội của đất nước. Giai đoạn tiếp theo kế thừa những kết quả này, các
ngành chế biến được chú trọng phát triển nhiều hơn, tỷ trọng sản xuất và xuất
khẩu sản phẩm thô giảm dần.
Giai đoạn phát triển thứ ba gắn liền vưói quá trình "cất cánh" và "trưởng
thành" của đất nước. Các ngành sản xuất sản phẩm chế biến và các ngành sản
xuất các sản phẩm có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao sẽ giữ vị trí trọng yếu
trong đóng góp vào xuất khẩu.
Sự thành công của mô hình chiến lược hướng ngoại phụ thuộc nhiều vào
một loạt chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Những chính sách chủ yếu đó
là:
- Chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt bám sát sự biến động tỷ giá trên thị
trường quốc tế và tỷ giá ở nước bạn hàng để các nhà sản xuất trong nước có thể
thu lãi khi bán sản phẩm thị trường thế giới.
- Chính sách khuyến khích và trợ giúp xuất khẩu. Do xâm nhập vào thị
trường quốc tế khó khăn hơn và nhiều rủi ro hơn là sản xuất cho thị trường trong
nước, nên việc sản xuất và xuất khẩu cần được những ưu đãi hơn về thuế quan,
về tín dụng, về trợ giá.
- Chính sách khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài, khắc phục những
yếu kém về vốn, kỹ thuật, kỹ năng quản lý và kỹ thuật thâm nhập thị trường
quốc tế. Thông thường loại chính sách này được thể hiện tập trung trong luật
đầu tư nước ngoài.
- Thành lập và quản lý các khu chế xuất, phát triển một cách tập trung các
cơ sở sản xuất hoặc dịch vụ của các chủ đầu tư trong và ngoài nước với mục
đích chủ yếu là phục vụ cho xuất khẩu.
6
Trong những năm 70 và 80 của thế kỷ này, một số nước đã đặc biệt thành
công trong việc thực hiện chiến lược hướng ngoại: Tốc độ tăng trưởng nhanh và
khá ổn định; cơ cấu kinh tế thay đổi năng động địa vị kinh tế trên thị trường thế
giới được cải thiện rõ rệt. Bởi vậy mô hình chiến lược này có sức hấp dẫn cao
với nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
2. Mục tiêu của chiến lược hướng về xuất khẩu.
Ở Việt Nam, công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã được đề cập từ Đại
hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986). Văn
kiện hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá VII) của Đảng đã xác định mô hình
chiến lược công nghiệp hoá hướng mạnh về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập
khẩu một số mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Đến Đại hội VIII, Đảng
ta đã khẳng định dứt khoát đường lối chiến lược "xây dựng nền kinh tế hướng về
xuất khẩu".
Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, từ công nghiệp chế
biến dựa trên lao động thủ công, kỹ thuật giản đơn đến công nghiệp chế tạo dựa
trên vốn cao và kỹ thuật hiện đại. Trong đó sự chuyển dịch cơ cấu ngành chế tạo
và tỷ lệ hàng chế tạo xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh.
Công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu không phải là mục đích tự thân và
nó là phạm trù lịch sử cho nên mục tiêu trực tiếp cụ thể không thể nào khác là
nhằm phát triển kinh tế - xã hội nhanh bền vững có hiệu quả. Trước mắt trong
chặng đường đầu tiên này công nghiệp hoá phải nhằm đưa nền kinh tế nước ta
"ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình
trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc
phòng và an ninh tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ
21".
Thực chất của chiến lược kinh tế hướng vào xuất khẩu là đặt nền kinh tế
quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm: phát huy lợi thế
so sánh (cả về tự nhiên, kinh tế , xã hội), buộc sản xuất trong nước phải luôn đổi
mới công nghệ, không thể tồn tại với năng suất thấp kém, mau chóng nâng cao
khả năng tiếp thị, tự do hoá thương mại. Đích cuối cùng là đáp ứng nhanh nhạy
nhu cầu của thị trường và giá rẻ, kể cả thị trường trong nước và thị trường quốc
tế. Hướng về xuất khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không
7
chú ý thay thế nhập khẩu. Quan điểm hướng về xuất khẩu được hiểu theo nghĩa:
không chỉ sản phẩm xuất khẩu mà tất cả các sản phẩm sản xuất trong nước phải
có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, từ đó mà cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng có hiệu quả nhất.
Cùng với đó, chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm gắn sản xuất và nền
kinh tế trong nước với các hoạt động của nền kinh tế thế giới, nối kết các nền
kinh tế quốc gia với nhau và tạo ra một không gian kinh tế rộng lớn hơn nhờ liên
kết và buôn bán quốc tế.
Chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ý nghĩa quan trọng của xuất khẩu không chỉ ở chỗ
tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu mà còn có những tác dụng sau:
- Khai thác ưu thế để sản xuất khối lượng lớn thì mới có giá rẻ, ở đây cần
thấy rằng sản xuất khối lượng lớn không cùng nghĩa với qui mô lớn.
- Buộc các ngành kinh tế, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải đổi mới công
nghệ tiếp thu kỹ thuật mới, phát huy lợi thế của nước đi sau để đi tất vào kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến nhất (công nghệ nào thế giới đã giải quyết rồi thì học,
tiếp thu ngay, bỏ qua các bước tuần tự để đi thẳng vào công nghệ hiện đại).
Ngay từ đầu của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là phải
nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. Đây vừa là
yêu cầu của việc thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhưng cũng là khó
khăn lớn nhất của các doanh nghiệp nước ta hiện nay.
- Chiến lược hướng về xuất khẩu vừa là hệ quả vừa là tác nhân nhằm đảm
bảo sự thắng lợi cho tiến trình tự do hoá thương mại của Việt Nam trong quan
hệ cạnh tranh và hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực cũng như các các
khác trên thế giới.
- Chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tận dụng nguồn vốn của nước ngoài
có tính đến kinh nghiệm của các nước đi trước.
3. Tính tất yếu của việc chuyển sang chiến lược hướng về xuất khẩu
của Việt Nam.
Đã từ lâu Đảng ta xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hơn 30 năm qua sự nghiệp công
nghiệp hoá đất nước mặc dù đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng Việt Nam
8
vẫn còn là nước nghèo và lạc hậu. Trong khi đó các nước NIC và ASEAN lại
đạt được sự phát triển "thần kỳ", "năng động" trong sự công nghiệp hoá đất
nước. Điều đó cho thấy rõ nguy cơ tụt hậu kinh tế ngày càng sâu và xa hơn của
Việt Nam.
Để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu đó, dĩ nhiên, nền kinh tế nước ta phải tăng
trưởng thực tế cao hơn so với các nước khác. Đồng thời phải duy trì tốc độ cao
hơn đó liên tục nhiều năm. Nói khác đi nền kinh tế Việt Nam phải tạo ra sự
"thần kỳ" mới hơn cả sự "thần kỳ" mà các nền kinh tế Đông Á đã tạo ra 3-4 thập
niên trước đây.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong điều kiện hiện đại, muốn tăng trưởng
nhanh lâu bền cần tạo ra một động lực mạnh là tăng trưởng xuất khẩu. Các nước
Đông Á sở dĩ vượt hẳn nhiều nước khác có cùng điểm xuất phát là do họ theo
đuổi mô hình tăng trưởng đưa vào xuất khẩu trong nhiều năm liên tục. Nhưng
cần lưu ý rằng chiến lược tăng trưởng xuất khẩu được thực thi ở đây là tăng
trưởng xuất khẩu hàng chế tạo chứ không phải tăng trưởng xuất khẩu bất kỳ nào.
Nigeria cũng theo mô hình tăng trưởng xuất khẩu nhưng đã chịu thất bại vì chủ
yếu dựa vào xuất khẩu đầu thô.
Những điều nói trên gợi ý quan trọng về nguyên tắc lựa chọn chiến lược
mô hình công nghiệp hoá cho quốc gia đi sau. Tuy nhiên không nên quên rằng
so với thời đại của các "con rồng" trước đây điều kiện phát triển hiện nay của
những nước đi sau như ta, đặc biệt là trong hoàn cảnh quốc tế đã có nhiều biến
đổi sâu sắc. Đó là những lý do để khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn
đường lối tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó
phải xem xét, đánh giá kỹ các điều kiện thực hiện đường lối đó. Chỉ trên cơ sở
này mới có thể tìm kiếm được các chính sách và giải pháp phù hợp.
Chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu mang tính quy luật và tính quy
luật này quy định cả từ hai phía yêu cầu và khả năng thực hiện.
Thứ nhất: Đứng về phía đòi hỏi khách quan mà xét thì nước ta vẫn thuộc
vào một trong những nước nghèo nhất thế giới, một nước nông nghiệp lạc hậu
chưa ra khỏi "xã hội truyền thống" để sang xã hội "văn minh công nghiệp". Do
đó khách quan đòi hỏi phải tiến hành tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. Như vậy
định hướng xuất khẩu là lối thoát duy nhất cho các quốc gia lạc hậu xuất phát
muộn để có được nguồn vốn ngoại tệ, cũng như công nghệ- kỹ thuật cao. Nói
9
chung với một nước nhỏ (hoặc lạc hậu, hoặc tổ hợp cả hai yếu tố đó) do thị
trường nội địa hạn hẹp, để nền kinh tế hoạt động có hiệu qả, tăng trưởng cao, lâu
bền thì xu hướng chỉ đạo là phải mở cửa để tăng dung lượng thị trường. Một nền
kinh tế hướng vào xuất khẩu có thể tăng trưởng nhanh vì sức gia tăng của tổng
cầu không bị bó hẹp trong khuôn khổ cầu nội địa.
Thứ hai: Xét về khả năng thực hiện. Chiến lược công nghiệp hoá hướng
vào xuất khẩu về thực chất là dựa trên logic của kinh tế thị trường trong điều
kiện nền kinh tế thế giới vận động, vận động theo xu hướng toàn cầu hoá. Về
mặt lý thuyết chiến lược này có nhiều khả năng thành công vì nó cho phép tận
dụng tối đa lợi thế so sánh của đất nước là hiệu quả kinh tế theo quy mô và khả
năng chiếm dụng nguồn lực.
a. Hiệu quả kinh tế theo quy mô hay lợi suất tăng dần theo qui mô có nghĩa
là hầu hết các hàng hoá được sản xuất ra đắt hơn khi sản xuất với số lượng nhỏ,
và trở nên rẻ hơn khi qui mô sản xuất tăng lên.
Hiệu quả kinh tế theo qui mô rất quan trọng cho nền thương mại quốc tế
của các nước nhỏ như Việt Nam. Phạm vi các hàng hoá mà theo đó họ có thể có
được quy mô hiệu quả trong sản xuất bị giới hạn nhiều hơn so với nước lớn.
Điều này cho thấy tạo sao các nước nhỏ như Việt Nam mở rộng thương mại hơn
so với các nước lớn.
b. Khả năng chiếm dụng nguồn lực.
Một lý do chủ yếu khác của việc hướng ngoại là ở chỗ các nước có nhưng
khả năng chiếm dụng khác nhau về nguồn lực. Tức là họ có những nguồn cung
cấp khác nhau về cái mà nhà kinh tế gọi là "các yếu tố sản xuất".
Với một nguồn lực riêng lẻ tương đối phong phú của Việt Nam thì việc sản
xuất ra các sản phẩm sử dụng nhiều loại nguồn lực cũng rẻ hơn. Do đó việc
hướng tới xuất khẩu các sản phẩm này là một tất yếu khách quan.
4. Những thuận lợi và thách thức của Việt Nam trong việc thực hiện
chiến lược hướng về xuất khẩu.
4.1. Thuận lợi:
Việc thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu đòi hỏi phải thực hiện một
cách bao quát, toàn diện và tổng hợp của nhiều vấn đề: Phải đánh giá điều kiện
thuận lợi và khó khăn để thấy được khả năng của việc thực hiện, từ đó đưa ra
10
các chính sách và biện pháp hợp lý nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt hơn chiến
lược.
Đối với nước ta hiện nay, việc đánh giá mặt thuận lợi trong việc thực hiện
chiến lược là rất cần thiết nó vừa cho thấy tính đúng đắn của việc lựa chọn chiến
lược và khả năng mang lại thành công của nó. Việc đánh giá các nguồn lực có
lợi thế so sánh trong phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta sẽ cho thấy mặt
thuận lợi của chiến lược hướng về xuất khẩu.
Ở nước ta khi nói đến nguồn lực sản xuất có lợi thế so sánh để phát triển
kinh tế đối ngoại thường đề cập đến ba nguồn lực cơ bản là: nguồn nhân lực, tài
nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý thuận lợi của đất nước. Đây cũng là những
nhân tố đầu tiên của một quốc gia khi xem xét có lợi thế hay không và lợi thế
như thế nào so với các nước trên thế giới.
a. Nguồn nhân lực: Đến năm 1998 dân số nước ta đã là hơn 78 triệu người
trong đó khoảng 50% là lực lượng lao động mỗi năm có khoảng trên 1 triệu
thanh niên bước vào độ tuổi lao động. Giá lao động của một người Việt Nam rẻ.
Điều đó tạo thuận lợi cho Việt Nam khi tham gia phân công lao động quốc tế.
Người Việt Nam có truyền thống lao động cần cù, có tinh thần vượt khó và đoàn
kết cao, thông minh sáng tạo có khả năng nắm bắt khoa học kỹ thuật hiện đại và
ứng dụng nó, có khả năng thích ứng với những tình huống phức tạp.
Người Việt Nam ngày càng được nâng cao về thể lực trình độ kỹ thuật, kỷ
luật, trình độ quản lý. Với truyền thống lao động, học tập trải qua những thử
thách của lịch sử dân tộc, nguồn lực lao động của Việt Nam được nhân lên và có
sức mạnh nhiều hơn vì lao động đó chứa đựng trí tuệ tầm cao của thời đại.
Như vậy nguồn nhân lực nước ta vừa có lợi thế về số lượng vừa đạt cả chất
lượng khi thực hiện chiến lược phát triển kinh tế dựa trên xuất khẩu.
b. Nguồn tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên thiên nhiên nước ta đa dạng
phong phú bao gồm đất đai, rừng, biển, nguồn nước, khoáng sản đủ loại, khí hậu
(sức gió, ánh nắng, lượng mưa để có thể hình thành năng lượng tự nhiên). Có
thể nói rằng với một phần tài nguyên như thế đất nước ta có điều kiện thuận lợi
và tiềm năng để phát huy lợi thế của mình.
c. Vị trí địa lý: Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi, có chiều dài tiếp giáp với
biển đông là bao lớn của Thái Bình Dương, có tuyến đường giao thông hàng hải,
hàng không từ đông sang tây với những vịnh cảnh, sân bay quan trọng. Đường
11
bộ, đường sông đã nối ba nước Đông Dương thành thế chiến lược kinh tế, quân
sự thuận lợi. Điều này cho phép Việt Nam có khả năng phát triển nhiều loại hình
kinh tế, dịch vụ khác nhau, đặc biệt nước ta nằm trong khu vực kinh tế phát triển
năng động với tốc độ tăng GDP từ 7-9%/năm trong vài ba thập kỷ trở lại đây.
Những lợi thế so sánh về nhân lực. Tài nguyên thiên nhiên vị trí địa lý
thuận lợi chỉ là lợi thế tính, thực chất là lợi thế về chi phí sản xuất. Trong giao
lưu kinh tế giữa các nước, các ngành sử dụng nhiều nguyên liệu, lao động.. có
lợi thế chi phí thấp, hàng hoá xuất khẩu sẽ có sức cạnh tranh trên thị trường khu
vực và quốc tế, đồng thời sẽ hấp dẫn và thu hút nước ngoài vào đầu tư trực tiếp
(FDI) để sử dụng các nguồn lực đó.
Bên cạnh những thuận lợi về lợi thế so sánh của các nguồn lực của nước ta,
cần phải thấy được những mặt thuận lợi khác về tình hình kinh tế, xã hội, chính
trị, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đó là:
- Công cuộc đổi mới đã khai phá một chặng đường đầu rất quan trọng, tạo
ra những tiền đề cơ bản cho những bước đi tiếp theo, môi trường kinh tế xã hội
thuận lợi; tình hình chính trị ổn định.
- Đảng và Nhà nước nhất quán chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu. Chính phủ Việt Nam đưa ra các chính sách khuyến khích sản xuất hàng
hoá có lợi thế so sánh cao trên cơ sở các nguồn lực sản xuất dồi dào trong nước.
- Thêm vào đó cơ chế quản lý kinh tế của Việt Nam đã trở nên nhạy cảm
hơn bởi chính sách mở cửa làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, tạo thuận
lợi cho kinh tế Việt Nam hoà nhập và kinh tế toàn cầu. Với đường lối mở rộng
quan hệ quốc tế hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước các
tổ chức quốc tế, cùng một thời điểm Việt Nam có thể thực hiện những sách lược
kinh tế đối ngoại khác nhau tương hợp với các nước có các chế độ kinh tế - xã
hội khác nhau để đạt mục tiêu kinh tế xã hội của mình.
Hiện nay Việt Nam đang là thành viên của ASEAN, AFTA và chuẩn bị
tham gia hội nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới khác như WTO. Điều đó tạo
thuận lợi cho hàng hoá của Việt Nam lưu thông trên thị trường khu vực và thế
giới.
Nhìn ra bên ngoài cục diện thế giới đang thay đổi nhanh chóng và sâu sắc
trên nhiều mặt, xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Châu Á- Thái Bình Dương sẽ tiếp tục phát triển năng động và đạt được tốc độ
12
tăng trưởng cao hơn các khu vực khác. Trong khu vực hoạt động đầu tư ngày
càng mạnh mẽ, tiếp tục diễn ra sự liên kết kinh tế nhiều tầng nấc. Các trung tâm
kinh tế thế giới, các nước lớn đều hướng trọng tâm hoạt động kinh tế chính trị
vào Châu Á- Thái Bình Dương. Điều này cho thấy sự thuận lợi quyết định sự
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
4.2. Thách thức.
Không một quốc gia, dân tộc nào phát triển trong thời đại ngày nay mà
không đứng trước những thách thức và đều là thách thức to lớn.
Nước ta trên đường tăng trưởng nhằm phát triển kinh tế - xã hội dựa trên
xuất khẩu ít nhất là phải đối mặt với nhưng thách thức chủ yếu sau đây.
a. Điểm xuất phát thấp.
- Nước ta vẫn còn là một nước nghèo và kém phát triển. GDP/người năm
1997 là 321 USD, 20% số dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
- Dân số còn tăng nhanh (1,9%) và đặc biệt mật độ dân cư trên nhiều vùng
rất cao nhưng lại thiếu đất làm ăn. Nước ta hiện nay còn 70% lực lượng lao động
làm nông nghiệp. Áp lực dân số đông và thiếu việc làm là rất lớn.
- Trình độ công nghệ trong các ngành kinh tế nói chung còn rất thấp. Chỉ
một số ít có công nghệ tương đối hiện đại. Nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp
được trang bị từ những năm 1960, thấp thua so với trình độ trung bình của thế
giới đến 2-4 thế hệ công nghệ .
- Trình độ phát triển kinh tế kém, nền kinh tế hàng hoá mới bắt đầu hình
thành trong năm tới, lực lượng sản xuất nhỏ bé, cơ sở vật chất nhất là kết cấu hạ
tầng còn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ chuyển biến chậm. Thêm vào
đó Việt Nam chưa hiểu biết đầy đủ về các thiết chế thị trường quốc tế do vậy
không tránh khỏi phải mất một thời gian ngỡ ngàng lúng túng sơ sơ trong việc
hợp tác kinh tế với nước ngoài.
Điểm xuất phát thấp có nghĩa là đã tụt hậu nhiều và nguy cơ tụt hậu ngày
càng xa hơn với thế giới là rất rõ. Có thể nói khắc phục nguy cơ này là thách
thức lớn nhất trong việc thực hiện mục tiêu của chiến lược.
b. Nền kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi, một sự chuyển đổi vừa
theo định hướng thị trường, vừa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị
13
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự tìm tòi hoàn toàn mới chưa
có mấy thành công trên thế giới.
c. Cạnh tranh quốc tế gay gắt.
- Khu vực Đông Nam Á và Đông Á đã từng phát triển nhanh và năng động.
Nhưng hiện nay nhiều nước đang lâm vào khung hoảng tài chính tiền tệ nghiêm
trọng mà dự báo còn phải mất nhiều thời gian mới khắc phục được. Trong việc
tham gia ASEAN, AFTA chuẩn bị gia nhập WTO, APEC nước ta phải chấp
nhận sự cạnh tranh đan xen với tác động của khủng hoảng, bất ổn định cũng gay
gắt chưa từng có.
- Nước ta là một quốc gia ven biển đông vừa có thuận lợi cho sự phát
triển, đồng thời Biển đông cũng đang chứa đựng nhiều tranh chấp rất phức tạp
về chủ quyền và lợi ích. Bên cạnh đó Mỹ và phương Tây tiếp tục mưu toan thực
hiện "diễn biến hoà bình" ở Việt Nam gây áp lực với ta về "dân chủ, nhân
quyền". Chính sách hai mặt của Trung Quốc với ta chưa hề thay đổi. Đối phó
sức uy hiếp này ngày càng tăng, cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương diễn ra phức tạp đe doạ an ninh, chủ quyền và lãnh thổ nước
ta buộc chúng ta phải hết sức coi trọng việc củng cố và tăng cường khả năng
quốc phòng.
d. Nguồn nhân lực bị hạn chế.
Nước ta có tiềm năng lớn về nguồn nhân lực, chủ yếu là về mặt tinh thần và
văn hoá. Nhưng ở giai đoạn hiện nay Việt Nam đang phải đương đầu với thách
đố về lợi thế so sánh của nguồn nhân lực. Mặt hạn chế và yếu kém về chất lượng
(kiến thức, kỹ năng, tác phong) của nguồn nhân lực nhất là ở các vùng nông
thôn, miền núi, còn là một trở ngại lớn cho sự phát triển. Đòi hỏi thì rất lớn và
cấp bách song khả năng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực lại quá nhỏ bé.
e. Vốn đầu tư.
Khác với những năm đầu thực hiện chính sách đổi mới khi mà sự tăng
trưởng phụ thuộc phần lớn vào các yếu tố thuộc về cơ chế, nền kinh tế bước vào
giai đoạn muốn tăng trưởng nhất thiết phải có vốn đầu tư. Trong khi đó, đầu tư
trực tiếp của nước ngoài đang có xu hướng chững lại, tốc độ rải ngân vốn ODA
chậm, cùng với hiện tượng co cụm lại trong việc huy động và cho vay vốn của
14