Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

LUẬN VĂN: Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.69 KB, 103 trang )

LUẬN VĂN:

Một số biện pháp thúc đẩy xuất
khẩu hàng dệt may tại công ty
Dệt Kim Đông Xuân


Lời mở đầu

1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài.
Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế
hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều phải
tham gia vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay không một dân
tộc nào có thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh. Đặc biệt đối
với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy đủ những đặc
trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế đất nước có tầm quan
trọng hơn bao giờ hết. ở nước ta, Khi xác định những quan điểm lớn về cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII của
Đảng đã khẳng định “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay
thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế
so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực trong
từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong
nước, thị trường khu vực và thị trường thế giới” .
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong những
năm qua thương mại Việt Nam đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng,
góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc nền kinh tế - xã hội nước ta và vị thế mới
trên thị trường quốc tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ ngoại giao
với nhiều nước, tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hố,
đa phương hố, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia các tổ chức
thương mại quốc tế như ASEAN, AFTA, APEC ...và đang từng bước tiến tới việc
ra nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này đã đặc biệt làm cho lĩnh


vực xuất nhập khẩu ngay càng trở nên sôi động.
Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam, phải kể đến hàng dệt may. Tuy đứng ở vị trí thứ hai, nhưng đây là mặt hàng
có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Hơn nữa, với điều kiện tình
hình nước ta hiện nay, tập trung phát triển hàng dệt may là hoàn toàn phù hợp.
Như vậy, cả về mặt lý luận và thực tiễn, đề tài “mot so bien phap thuc day


xuat khau hang det may tai cong ty det kim dong xuan ” góp phần giải quyết
những vấn đề đặt ra là quan trọng và hết sức cần thiết.

2. Mục đích nghiên cứu.
Trong thời gian gần đây, tình hình xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
nói chung và cơng ty Dệt Kim Đơng Xn nói riêng gặp nhiều trở ngại. Ngun
nhân là do tình hình thị trường tài chính và tiền tệ trên thế giới có nhiều biến động
khiến cho đầu tư giảm sút dẫn đến các công ty xuất khẩu hàng dệt may thiếu vốn
lưu động. Mặt khác cơ sở vật chất, các trang thiết bị kĩ thuật của ngành dệt may
còn thấp so với mặt bằng chung trên thế giới cũng ảnh hưởng đến khả năng xuất
khẩu nhất là sang các thị trường đòi hỏi hàm lượng chất xám cao như EU, Nhật
Bản... Bên cạnh đó, thị trường EU do hạn chế quota, sức mua của thị trường Nhật
Bản giảm sút do đồng Yên mất giá nên hàng dệt may phần thì khơng có chỗ để
xuất, phần xuất được thì giá xuất thấp hơn so với các năm trước. Sự cạnh tranh của
các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc cũng là một nhân tố khiến cho khả năng
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vài năm qua liên tục sút giảm. Những vấn
đề cấp bách trên thôi thúc khiến cần phải đưa ra những biện pháp nhằm góp phần
cải thiện tình hình xuất khẩu hàng dệt may ở cơng ty Dệt Kim Đơng Xn nói
riêng và Việt Nam nói chung.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng được nghiên cứu trong đề tài này là tình hình hoạt động xuất

khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân và các yếu tố khác có liên
quan như cơng nghệ sản xuất sản phẩm, mẫu mã hàng xuất khẩu... nhằm đưa ra
một số biện pháp thúc đấy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim
Đông Xuân.
Đề tài nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của cơng ty nói riêng
và Việt Nam nói chung qua các năm từ 1998-2002 nhằm tìm ra các yếu tố chủ
quan và khách quan làm sụt giảm doanh số xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt
Kim Đông Xuân.


4. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong đề tài là các phương pháp
điều tra thống kê như dãy số thời gian, thu thập số liệu thống kê, phân tổ số
liệu...cũng như các phương pháp nghiên cứu kinh tế, xã hội khác rồi so sánh, phân
tích để tìm ra ngun nhân làm suy giảm hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại
công ty Dệt Kim Đơng Xn rồi từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt
động này.

5. Kết cấu của đề tài.
Nội dung đề tài chia làm ba chương :
Chương I : Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường.
Chương II : Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may ở công ty Dệt
Kim Đông Xuân.
Chương III : Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may tại công
ty Dệt Kim Đơng Xn.
Trong q trình tìm hiểu và hồn thành đề tài, tơi đã được sự hướng dẫn chỉ
bảo tận tình, chi tiết của thầy giáo - Tiến sĩ Nguyễn Thừa Lộc, sự giúp đỡ nhiệt
tình của các bác, các cơ, các chú trong công ty Dệt Kim Đông Xuân. Tôi xin chân
thành cảm ơn và rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung để những biện pháp trong

đề tài này có thể góp phần giải quyết tình trạng hiện nay của hoạt động xuất khẩu
hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân.


Chương I

Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị
trường.

I. khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu.
1. Khái niệm.
Xuất khẩu hàng hoá hiểu theo phạm trù kinh tế có nghĩa là hoạt động kinh
doanh hàng hố giữa hai bên tham gia hoạt động kinh doanh có quốc tịch khác
nhau, ngôn ngữ cũng khác nhau cũng như khác nhau về văn hố, chính trị... hiểu
theo phạm vi địa lý, hoạt động xuất khẩu hàng hố có nghĩa là q trình hàng hố
và tiền tệ di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác được sự cho phép và đồng
ý của chính quyền các nước. Xuất khẩu hàng hố là hoạt động kinh doanh buôn
bán ở phạm vi quốc tế. Nó khơng phải là hành vi bn bán riêng lẻ mà là cả một
hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngồi nhằm
bán sản phẩm, hàng hố sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đẩy
mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước
nâng cao mức sống nhân dân.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu
tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp
đã đa dạng hố hoạt động kinh doanh của mình.
Xuất khẩu hàng hố nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thơng hàng hố
của một q trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu
dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ
thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
2. Các hình thức xuất khẩu.

2.1. Xuất khẩu uỷ thác.
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho
đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô


hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của
bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thu lao trả
cho đại lý. Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất khẩu khơng cao hơn 1%
của tổng số doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo điều kiện FOB tại Việt Nam.
Ưu nhược điểm của xuất khẩu uỷ thác:
-Ưu điểm: Công ty nhận uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh
doanh, tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là
hoa hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất cả
các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực
hiện hợp đồng khơng phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh
của Công ty.
-Nhược điểm: do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh
doanh thấp khơng bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và khách
hàng bị thu hẹp vì Cơng ty khơng có liên quan tới việc nghiên cứu thị trường và
tìm khách hàng.
2.2 Xuất khẩu trực tiếp.
Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết
hợp đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng
đó. Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và quốc tế,
đồng thời bảo đảm được lợi ích quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh
nghiệp. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các
khâu công việc:
Giục mở L/C và kiểm tra luận chứng (nếu hợp đồng quy định sử dụng
phương pháp tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá làm
thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh tốn và giải

quyết khiếu nại (nếu có).
Ưu nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp:
-Ưu điểm: Với phương thức này, đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh
doanh, tự mình có thể thâm nhập thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu thị
trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh doanh tốt


sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản phẩm, nhãn hiệu ...
dần dần đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới.
- Nhược điểm: Trong điều kiện đơn vị mới tham gia kinh doanh thì áp dụng
hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất hạn chế, thông tin về thương
trường quốc tế cịn ít, uy tín nhãn hiệu sản phẩm cịn xa lạ với khách hàng quốc tế.
2.3. Gia cơng hàng xuất khẩu.
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên
(gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một
bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt
gia cơng và nhận thù lao ( gọi là chi phí gia cơng). Tóm lại, gia cơng xuất khẩu là
đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngồi về để sản xuất
hàng hố theo u cầu của bên đặt hàng, nhưng không phải để tiêu dùng trong
nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do hoạt động gia cơng đem lại. Vì
vậy, suy cho cùng, gia cơng xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao động, nhưng là
loại lao động dưới dạng được sử dụng(được thể hiện trong hàng hố) chứ khơng
phải dưới dạng xuất khẩu nhân cơng ra nước ngồi.
Gia cơng xuất khẩu là một phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế.
Hoạt động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi thế của hai bên: bên đặt gia
công và bên nhận gia cơng.

3. Vai trị của xuất khẩu đối với doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân.
3.1. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp.
Đối với bản thân các doanh nghiệp mà nói thì hoạt động xuất khẩu hàng hố

đem lại những lợi ích khơng thể phủ nhận. Song song với việc thực hiện kinh
doanh trong thị trường nội địa thì hoạt động xuất khẩu hàng hố góp phần quan
trọng vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu.
Xuất khẩu hàng hoá giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, phát triển sản
xuất, kinh doanh.


Thị trường quốc tế ln là một thị trường có nhu cầu và tiềm năng lớn, đặc
biệt là đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Việc tham gia vào hoạt động
xuất khẩu hàng hoá giúp các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng được thị trường của
mình đồng nghĩa với việc tăng được doanh thu góp phần quan trọng quyết định
đến sự thành công trong kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường thì đứng yên
đồng nghĩa với sự đào thải chỉ có ln phát triển mới có thể tồn tại. Yêu cầu tồn
tại và phát triển luôn đem đến cho các doanh nghiệp sự đòi hỏi phải tham gia vào
nền kinh tế thế giới. Bởi vậy, xuất khẩu hàng hố giúp các doanh nghiệp có thể tự
khẳng định mình trên thị trường.
Xuất khẩu hàng hố đem lại nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhằm
thực hiện nhập khẩu.
Để có thể sản xuất – kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp luôn cần
phải nhập khẩu nguyên vật liệu cũng như máy móc thiết bị hiện đại từ nước ngoài.
Hoạt động xuất khẩu đem lại nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp để phục vụ
hoạt động nhập khẩu.
Thực hiện xuất khẩu giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, tạo công ăn việc
làm, cải thiện đời sống cho người lao động.
Việc xuất khẩu hàng hoá đem lại doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp
nhưng đồng thời cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải mở rộng quy mơ sản xuất kinh
doanh. Vì vậy đồng nghĩa với hoạt động mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh là
tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện mức sống của người lao
động.

Thực hiện xuất khẩu hàng hoá giúp doanh nghiệp tiếp thu được các công
nghệ sản xuất tiên tiến trên thế giới.
Tham gia vào thương mại quốc tế giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện
tiếp xúc và ứng dụng các cơng nghệ sản xuất tiên tiến vào sản xuất-kinh doanh.
Doanh nghiệp muốn xuất khẩu được hàng hố thì phải đầu tư đổi mới cơng nghệ,
trang thiết bị máy móc cho phù hợp với yêu cầu của nhà nhập khẩu, hoặc nhà nhập
khẩu sẽ cung cấp công nghệ sản xuất tiên tiến cho các doanh nghiệp để các doanh
nghiệp tiến hành sản xuất phục vụ xuất khẩu.


3.2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu hàng hố có vai trị to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào, phụ thuộc
rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm
tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh tốn, tăng thu cho ngân sách, kích
thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và
nâng cao mức sống của người dân.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta,
những nhân tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động, còn những yếu tố
thiếu hụt là vốn, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu
về thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kĩ thuật của
nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên
thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn
khoảng cách với các nước giàu. Như vậy đối với mọi quốc gia cũng như nước ta,
xuất khẩu thực sự có vai trò quan trọng thể hiện:

Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan trọng cho nhập khẩu và
tích luỹ phát triển sản xuất, phục vụ cơng nghiệp hố đất nước.
Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu ngoại tệ về,
mà là với mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác nhằm

thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu (xuất
khẩu > nhập khẩu), tích luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc chắn hơn nhu cầu
nhập khẩu trong tương lai).
Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là
tiền đề của nhau, xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu.
Muốn nhập khẩu, chúng ta phải có ngoại tệ, có các nguồn ngoại tệ sau:
- Xuất khẩu hàng hoá. dịch vụ.
- Viện trợ, đi vay, đầu tư ....


- Liên doanh đầu tư nước ngoài với ta.
- Các dịch vụ thu ngoại tệ: ngân hàng, du lịch ...
Có thể thấy rằng, trong các nguồn trên thì xuất khẩu hàng hố, dịch vụ là
nguồn quan trọng nhất vì: nó chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời là khả năng bảo đảm
trả được các khoản đi vay, viện trợ ... trong tương lai. Như vậy cả về dài hạn và
ngắn hạn, xuất khẩu luôn là câu hỏi quan trọng cho nhập khẩu.
Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế của đất nước.
Để xuất khẩu được, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải lựa chọn
được những ngành nghề, mặt hàng có tổng chi phí (chi phí sản xuất và chi phí xuất
khẩu) nhỏ hơn giá trị trung bình trên thị trường thế giới. Họ phải dựa vào những
ngành hàng, những mặt hàng khai thác được các lợi thế của đất nước cả về tương
đối và tuyệt đối. Ví dụ như trong các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của ta thì dầu
mỏ, thuỷ sản, gạo, than đá là những mặt hàng khai thác lợi thế tuyệt đối nhiều hơn
(vì chỉ một số nước có điều kiện để sản xuất các mặt hàng này). Còn hàng may
mặc khai thác chủ yếu lợi thế so sánh về giá nhân công rẻ.
So sánh tiền lương bình qn của cơng nhân may các nước Châu á
STT

Nước


Lương (USD/tháng)

1

Việt Nam

30

2

Indonesia

83

3

Malayxia

100

4

Singapore

120

5

Hồng Kông


415

6

Hàn Quốc

612

7

Đài Loan

767

Tuy nhiên, phân biệt lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh chỉ mang ý nghĩa


tương đối. Các lợi thế cần khai thác ở nước ta là nguồn lao động dồi dào, cần cù,
giá thuê rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và địa thế địa lý đẹp.
Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng
và phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta biết rằng có hai xu hướng xuất khẩu: xuất khẩu đa dạng và xuất
khẩu mũi nhọn.
Xuất khẩu đa dạng: là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất khẩu nhằm
thu được nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng thì lại nhỏ bé về quy mơ,
chất lượng thấp (vì không được tập trung đầu tư) nên không hiệu quả.
Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Xuất khẩu hàng mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu
ngành và cả cơ cấu trong nội bộ một ngành theo hướng khai thác tối ưu lợi thế so
sánh của đất nước. Mặt khác, trên thị trường thế giới yêu cầu về hàng hoá dịch vụ
ở mức chất lượng cao, cạnh tranh gay gắt. Chỉ có các doanh nghiệp đủ mạnh ở mỗi

nước mới tham gia thị trường thế giới. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu phải nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để tồn tại và phát
triển. Hiện nay, đây là hướng xuất khẩu chủ yếu của nước ta, có kết hợp với xuất
khẩu đa dạng để tăng thu ngoại tệ.
Toàn bộ các tác động trên làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng theo
hướng tích cực. Đó là ý nghĩa kinh tế của hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động, tạo thu nhập và tăng mức sống.
Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì phải cần
thêm lao động, cịn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế lao
động nhiều, giá rẻ ở nước ta. Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm
tiêu dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú và tốt hơn
nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người
lao động. Chính vì thế mà chúng ta chủ trương phát triển ngành nghề cần nhiều lao
động như ngành may mặc. Với một đất nước gần 80 triệu dân, tỷ lệ thất nghiệp
tương đối cao thì đây là một vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong điều kiện nước ta hiện
nay.


Hoạt động xuất khẩu mở rộng và tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.
Hoạt động xuất khẩu đem lại ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh
toán, là một trong bốn điều kiện đánh giá nền kinh tế của một nước: GDP, lạm
phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Cao hơn nữa là xuất siêu, tăng tích luỹ
ngoại tệ, ln đảm bảo khả năng thanh tốn với đối tác, tăng được tín nhiệm. Qua
hoạt động xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam được bầy bán trên thị trường thế giới,
khuyếch trương được tiếng vang và sự hiểu biết.
Hoạt động xuất khẩu làm cho các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn, làm tiền đề
thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như dịch vụ du lịch, ngân hàng, đầu
tư, hợp tác, liên doanh...


Tóm lại : thơng qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã
hội, bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm
năng và cơ hội của đất nước. Cho đến nay, tuy chưa lâu và cũng chưa nhiều, song
chúng ta cũng thấy được những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương
mại, giao lưu kinh tế với nước ngoài, với trọng tâm là xuất khẩu. Nước ta đã từng
bước chuyển mình với nhịp độ sản xuất bằng những công nghệ, khoa học tiên tiến.
Tin tưởng rằng với hướng đi đúng đắn, với những ưu thế của mình và sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng và Nhà nước, Việt Nam sẽ trở thành một mắt xích quan trọng
trong nền kinh tế thế giới.

II. Nội dung hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị
trường.
1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu.
Nghiên cứu thị trường là một trong những việc làm cần thiết đầu tiên đối với
bất cứ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị
trường tốt sẽ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động


của từng loại hàng hóa cụ thể thơng qua sự biến động nhu cầu, mức cung ứng, giá
cả thị trường từ đó đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Q trình nghiên cứu thị trường là q trình thu nhập thơng tin, số liệu về thị
trường, so sánh phân tích số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó lập ra kế hoạch
Marketing.
Nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường.
Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: Nghiên cứu khái quát và
nghiên cứu chi tiết . Nghiên cứu khái quát của thị trường là cung cấp những thông
tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị
trường như môi trường cạnh tranh, mơi trương chính trị pháp luật, khoa học cơng
nghệ, mơi trường văn hố xã hội, mơi trường địa lý sinh thái... Nghiên cứu chi tiết

của thị trường cho biết tập quán mua hàng của thị trường, những thói quen và
những ảnh hưởng đến những hành vi mua hàng của người tiêu dùng.
Nghiên cứu thị trường có hai phương pháp chính: Phương pháp nghiên cứu
thị trường tại bàn là thu nhập những thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất
bản cơng khai, xử lý các thơng tin đó. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp phổ
thơng nhất, vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của người xuất khẩu mới
tham gia vào thị trường. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập
thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp.
1.1. Lựa chọn mặt hàng kinh doanh.
Mục đích của lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là lựa chọn mặt hàng kinh doanh
thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất mặt hàng đó vừa đáp ứng được nhu cầu của
thịtrường vừa phù hợp với khả năng kinh nghiệm cảu doanh nghiệp.
Khi lựa chọn mặt hàng các doanh nghiệp phải nghiên cứu các vấn đề:
- Mặt hàng thị trường đang cần gì?
Doanh nghiệp phải nhạy bén, biết thu nhập, phân tích và sử dụng các thông
tin về thị trường xuất khẩu, vận dụng các quan hệ bán hàng... để có được những
thơng tin cần thiết về mặt hàng, quy cách, chủng loại.
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?


Việc tiêu dụng các loại mặt hàng thường tuân theo một tập quán tiêu dùng
nhất định, phù thuộc vào thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động
của quan hệ cung cầu...
- Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống
Một là giai đoạn triển khai. Đây là giai đoạn đầu của sản phẩm, sản phẩm
mới xuất hiện trên thị trường. Và chưa có các sản phẩm khác cạnh tranh nên cần
đẩy mạnh công tác quảng cáo, xúc tiến để khách hàng biết đến sản phẩm.
Hai là giai đoạn tăng trưởng ở giai đoạn này sản phẩm bắt đầu được bán
trên thị trường và cũng bắt đầu có sự cạnh tranh. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh bán
hàng, đưa ra nhiều sản phẩm chủng loại sản phẩm độc đảo để tạo môi trường tốt

cho doanh nghiệp, tăng khả năng chọn lựa của khách hàng
Ba là giai đoạn bão hồ. Đây là giai đoạn có mức cạnh tranh lên tới mức
quyết liệt giữa các chủ thể tham gia. Doanh số bán hàng chậm và giảm dần, lợi
nhuận trong kinh doanh giảm, doanh nghiệp cần nghiên cứu để cải tiến sản phẩm
hay có một chiến lược Marketing có hiệu quả hơn.
Bốn là giai đoạn suy thối. giai đoạn này doanh số và lợi nhuận giảm rõ rệt
bởi nhu cầu tiêu thụ giảm, cạnh tranh và chi phí tăng cao. Do vậy các doanh
nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu cần rút ra khỏi thị trường để tìm cơ hội
kinh doanh mới. Việc rút ra khỏi thị trường cần được dự đốn và tính tốn một
cách thận trọng, chính xác.
- Tình hình sản xuất các mặt hàng xuất khẩu
Doanh nghiệp phải tìm hiểu tình hình cung cấp mặt hàng mà doanh nghiệp
mình xuất khẩu. Xem xét khả năng sản xuất, mức tiến bộ khoa học kỹ thuật... để
có thể đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu ổn định.
1.2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Doanh nghiệp phải xác định được từng mặt hàng nào, vào thị trường nào,
thời điểm nào, hình thức Marketing như thế nào cụ thể doanh nghiệp cần nghiên
cứu những vấn đề:
* Thị trường và dung lượng thị trường.


Doanh nghiệp cần có các thơng tin về thị trường hàng hố theo nhóm hàng,
từ đó có thể hiểu sâu về những thị trường này.
- Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ: Sự vận
độngcủa tình hình kinh tế, tính thời vụ trong sản xuất lưu thơng và phân phối hàng
hố.
- Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động thị trường thành tựu khoa
học cho phép người tiêu dùng được thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của mình

khẩu, việc mua bán hàng hoá và vận chuyển chúng phải qua một thời gian

dài và qua các nước, các khu vực khác nhau với những điều kiện khác nhau (thuế
quan, phong tục tập quán...) đã làm giá cả biến động một cách phức tạp, dẫn đến
các nhà xuất khẩu phải luân theo dõi, nắm bắt được sự biến động của giá cả quốc
tế, từ đó có mức giá chính xác, tối ưu.
1.3. Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Các nội dung để tìm hiểu đối tác bn bán có hiệu quả.
- Quan điểm kinh doanh của đối tác.
- Lĩnh vực kinh doanh của họ.
- Khả năng về tài chính ( khả năng về vốn cơ sở vật chất)
- Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh.
- Những người đại lý cho công ty kinh doanh và phạm vi chịu trách nhiệm
của họ đối với công ty.
2. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một doanh nghiệp, một địa
phương, một vùng hoặc tồn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện xuất
khẩu (đảm bảo về yêu cầu chất lượng quốc tế).
Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư sản xuất
kinh doanh cho đến nghiên cứu thị trường ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng,
vận chuyển, bảo quản, sơ chế phân loại nhằm tạo ra hàng hố có đủ các tiêu chuẩn


cần thiết cho xuất khẩu. Như vậy công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có thể
được chia thành hai loại hoạt động chính.
- Loại hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu do
doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
- Loại hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo ra nguồn hàng cho xuất
khẩu thường do các tổ chức ngoại thương làm trung gian xuất khẩu hàng hoá.
Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các nhiệm vụ kinh
doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, thu mua tạo
nguồn hàng xuất khẩu có nghĩa hẹp hơn hoạt động tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.

Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của
hàng xuất khẩu và tiến động giao hàng đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy
tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh thông qua hệ thống thu mua hàng
xuất khẩu mà doanh nghiệp chủ động và ổn định được nguồn hàng.
2.1. Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là biểu hiện bề ngoại của mối quan
hệ giữa các doanh nghiệp ngoại thương với khách hàng về trao đổi mua bán hàng
xuất khẩu. Hiện nay có một số hình thức tạo nguồn hàng sau:
- Thu mua tạo nguồn hàng theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng.
Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, qua cách, chủng loại, phẩm chất,
kiểu dáng, số lượng, thời gian giao hàng...Đơn hàng thường là căn cứ để ký kết
hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Đây là hình thức ưu việt đảm bảo an toàn cho
các doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm chặt chẽ của đôi bên.
- Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu theo hợp đồng là hình thức được áp
dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá. Sau khi các bên thoả
thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian
giao hàng.
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng. Đây là hình thức
mua bán trao tay, sau khi người bán giao hàng, nhận tiền, người mua nhận hàng,
trả tiền là kết thúc nhiệm vụ mua bán. Hình thức này thường sử dụng thu mua
hàng trôi nội trên thị trường. Chủ yếu là hàng nông sản chưa qua chế biến.


- Tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản
xuất. Đây là hình thức các doanh nghiệp đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho
các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Việc đầu tư để tạo ra nguồn hàng
là việc làm cần thiết nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý.
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua đại lý tuỳ theo đặc điểm từng
nguồn hàng mà doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu chọn các đại lý thu mua phù
hợp.

- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng. Đây là hình
thức phổ biến, các doanh nghiệp ngoại thương là nguồn cung cấp nguyên liệu, vật
liệu vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị... cho người xuất khẩu hàng xuất khẩu, hình
thức này được áp dụng trong trường hợp các mặt hàng trên là quý hiếm không đủ
đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tóm lại: các hình thức thu mua tạo nguồn hàng là rất phong phú, đa dạng.
Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp, của mặt hàng, quan hệ cung
cấp hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn, áp dùng các hình thức thu
mua thích hợp.
2.2. Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là một hệ thống các công việc,
các nhiệp vụ được thể hiện qua các nội dung sau:
- Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu.
Muốn tạo được nguồn hàng ổn định, nhằm củng cố phát triển các nguồn
hàng, doanh nghiệp ngoại thương cần nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc
nghiên cứu tiếp cận thị trường. Một trong những bí quyết thành cơng trong kinh
doanh là nghiên cứu tìm hiểu cặn kẽ thị trường, dự đoán được xu hướng biến động
của hàng hoá, hạn chế được rủi ro của thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
khai thác ổn định nguồn hàng trong thời gian hợp lý, làm cơ sở chắc chắn cho việc
ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn
nhằm xác định mặt hàng dự định kinh doanh xuất khẩu có phù hợp và đáp ứng
những yêu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật khơng.
trên cơ sở đó, doanh nghiệp ngoại thương có hướng dẫn kỹ thuệt giúp đở người


sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường nước ngoài. mặt
khách, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả trong nước so
với giá cả quốc tế như thể nào. sau khi đã tính đủ những chi phí mua hàng, vận
chuyển, đóng gói...thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu cho doanh nghiệp, vì vậy nó
sẽ quyết định chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp ngoại thương.

- Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu
Xây dựng một hệ thống thu mua hàng thông qua các đại lý và chi nhánh của
mình, doanh nghiệp ngoại thương sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua nâng cao năng
suất và hiệu quả thu mua. Lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết hợp nhiều
hình thức thu mua, là cơ sở tạo ra nguồn hàng ổn định và hạn chế rủi ro trong thu
mua hàng xuất khẩu.
- Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu
Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại
thương với nhà sản xuất hoặc các chân hàng đều thông qua hợp đồng thu mua, đổi
hàng gia công. Do vậy, việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa quan trọng trong công tác
thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận, và tự nguyện mà
các bên ký hợp đồng, đây là cơ sở vững chắc đảm bảo cho hoạt động của các
doanh nghiệp diễn ra bình thường.
- Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng với các chận hàng và các doanh nghiệp sản xuất,
doanh nghiệp ngoại thương cần phải lập được các kế hoạch thu mua, tiến hành
sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phần thực hiện theo kế hoạch.
- Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu

3. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng.
3.1. Các hình thức giao dịch.
Trên thị trường thế giới tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương
thức giao dịch có đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Căn cứ vào mặt


hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và đối tượng, năng lực
người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp chon phương thức giao dịch cho phù
hợp.
- Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận,
bàn bạc thảo luận trực tiếp về hàng hóa giá cả, điều kiện giao dịch phương thức

thanh tốn... Đây là hình thức hết sức quan trọng, đẩy mạnh tốc độ giải quyết mọi
vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Hình thức này dùng khi có nhiều vấn đề cần
phải giải thích cặn kẽ để thiết phục nhau hoặc là những hợp đồng lớn, phức tạp.
- Giao dịch qua thư tín. Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến
để giao dịch giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban
đầu thường qua thư tín để trao đổi với bạn hàng như giá cả, mẫu mã chất lượng và
số lượng hàng hoá... bằng Fax hoặc thư tay.
- Giao dịch qua điện thoại việc giao dịch qua điện thoại giúp doanh nghiệp
đàm phán đúng thời cơ. Trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, khơng có
gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định trong trao đổi. Bởi vậy, hình
thức này chỉ nên dùng cho những trường hợp chỉ còn chờ xác nhận một cách chi
tiết. Khi phải trao đổi bằng điện thoại cần chuẩn bị nội dung chú đáo. Sau khi trao
đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán.
3.2. Đàm phán, nghệ thuật đàm phán.
Là quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng là cơ sở đi đến ký kết
hợp đồng trong kinh doanh thương mại quốc tế, các chủ thể đàm phán từ các quốc
gia khác nhau về ngôn ngữ, tập quán kinh doanh cũng khác nhau làm cho việc
đàm phán trở nên phức tạp hơn. Bên cạnh đó, những tranh chấp thương mại quốc
tế địi hỏi chi phí cao. Chính vì vậy, đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu
càng đòi hỏi phải tinh tế, khéo léo.
3.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hố.
Sau khi giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng
mua bán. Hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế cịn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu
là sự thoả thuận giữa các bên mua và bán ở các nước khác nhau trong đó bên bán


phải cung cấp hàng hố cịn bên mua phải có trách nhiệm là thanh toán tiền mua
hàng hoặc nhận hàng.
Một: Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm các phàn sau:
- Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi.

- Các chủ thể hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện.
- Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp.
- Đối với một số loại hợp đồng đặc biệt khi ký kết phải tuân theo những thủ
tục thể thức nhất định.
Hai là: Nội dung và điều khoản của hợp đồng bao gồm:
- Tên hàng.
- Phẩm chất.
- Số lượng.
- Điều khoản giao hàng.
- Điều khoản giá cả.
- Điều kiện cơ sở giao hàng.
- Điều khoản thanh toán.
- Điều khoản bao bì, kỹ mã hiệu.
- Điều khoản bảo hành.
- Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại.
- Điều khoản bảo hiểm.
- Điều khoản bất khả kháng.
- Điều khoản khiếu nại và trọng tài
- Các điều khoản khác.
4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu
phải tổ chức thực hiện hợp đồng. Đây là một cơng việc phức tạp địi hỏi phải tuân


thủ theo luật quốc tế, đồng thời phải đảm bảo quyền lợi và uy tín kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau:


hợp

đồng
xuất
Mua
bảo
hiểm

Kiểm
tra
L/C

Giao
hàng
lên
tàu

Xin
giấy
phép
xuất
Làm
thủ
tục
hải

Chuẩn
bị
hàng
hoá
Kiểm
nghiệm

hàng
hoá

Uỷ
thác
thuê
tàu

Khi thực hiện hợp đồng cần tuyệt đối chú ý tất cả các bước trên bởi bất kì
một bước nào sai phạm cũng sẽ dẫn tới kết quả là thực hiện sai hợp đồng phải bồi
thường và có thể dẫn tới huỷ hợp đồng. Mọi bước thực hiện phải đúng như trong
hợp đồng, nếu có thay đổi phải báo trước và được sự chấp nhận của bên kia thì
mới được quyền tiếp tục thực hiện hợp đồng.

5. Thanh toán hợp đồng xuất khẩu.
Thanh toán là một khâu rất quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu
hàng hoá. Hiệu quả kinh tế trong kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu một phần
lớn nhờ vào chất lượng của khâu thanh toán. Thanh toán là một bước đảm bảo cho
người xuất khẩu được thu tiền về và người nhập khẩu được nhận hàng hoá. Thanh
toán quốc tế trong thương mại quốc tế có thể được hiểu là việc chi trả những
khoản tiền, tín dụng có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá được thoả thuận
trong các quy định của các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch
vụ.
Các hình thức thanh tốn thường được áp dụng:
Thanh tốn bằng thư tín dụng: thư tín dụng là một loại giấy mà ngân hàng
bảo đảm hoặc hứa sẽ trả tiền (Letter of Credit - L/C). Thanh toán tiền hàng bằng


L/C là một phương thức thanh toán bảo đảm hợp lý, an toàn thuận tiện, hạn chế rủi
ro cho cả bên mua và bên bán.

Thanh toán bằng phương thức nhờ thu: Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định
thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu, thì ngay sau khi giao hàng, bên
xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và phải xuất trình bộ chứng từ cho
ngân hàng uỷ thác để ngân hàng đổi tiền hộ. Chứng từ thanh tốn phải hợp lệ,
chính xác và nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm thu lại vốn.
Trong xuất nhập khẩu hàng hoá việc thanh toán phải chú ý đến các vấn đề:
- Tỷ giá hối đoái.
- Tiền tệ trong thanh toán quốc tế.
- Thời hạn thanh toán.
- Các phương thức thanh tốn.
- Các điều kiện đảm bảo hối đối.
Có nhiều loại tiền tệ được sử dụng trong thanh toán quốc tế, cần phải biết
cách lựa chọn đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán và các điều kiện thanh
toán khác sao cho có lợi nhất, tránh những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực
hiện các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hố.
Trong qúa trình thực hiện hợp đồng và thanh toán nếu hai bên xảy ra tranh
chấp thì có thể ngừng hợp đồng hoặc khiếu kiẹn với các cơ quan có thẩm quyền
hạơc trọngn tài quốc tế để được giải quyết.

III. các nhân tố ảnh hưởng và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu.
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
Môi trường xuất khẩu là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến
việc xuất khẩu sản phẩm của các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu. Khi doanh
nghiệp muốn xâm nhập vào một thị trường nước ngồi thì cần phải phân tích thị
trường dưới các mặt chủ yếu sau:


1.1. Môi trường dân cư.
Dân số, cơ cấu dân cư theo tuổi, giới tính, theo nghề nghiệp, theo vùng...
ảnh hưởng quan trọng đến các sản phẩm dệt may về kiểu cách, màu sắc, chất liệu

vải.
Ví dụ: Trẻ em với đặc điểm tâm sinh lý hiếu động thì yêu cầu sản phẩm
may mặc phải rộng rãi, thoải mái, yêu cầu vệ sinh là quan trọng, song với các thiếu
nữ hay thanh niên nói chung u cầu làm đẹp, thích thời trang, kiểu mốt phong
phú là yêu cầu chủ yếu. Với người lớn tuổi lại ưa dùng sản phẩm may mặc trịnh
trọng, điềm đạm... Giữa nông thôn và thành thị, giữa người lao động chân tay và
lao động trí óc u cầu về quần áo rất khác nhau.
1.2. Môi trường kinh tế.
Thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu tỷ lệ chi tiêu cho hàng may mặc
trong tổng thu nhập quốc dân của dân cư, xu hướng thay đổi các tỷ lệ đó.
Hàng may mặc vừa là hàng hố có nhu cầu thiết yếu nhưng đồng thời lại có
nhu cầu xa xỉ, khi nghiên cứu thị trường nước ngoài cần chú ý đến thu nhập của
người tiêu dùng để sản xuất ra các sản phẩm có chi phí hợp lý, thoả mãn nhu cầu
của từng thị trường. Ví dụ ở những nước có thu nhập thấp như các nước Châu Phi,
Mỹ la tinh và một số nước Châu á thì họ chủ yếu quan tâm đến giá cả và độ bền
của sản phẩm tức là chất liệu vải và giá cả là mối quan tâm hàng đầu.
ở những nước có thu nhập cao thì người tiêu dùng đặc biệt chú ý đến mẫu
mốt, kiểu dáng, bởi vậy vòng đời sản phẩm đối với họ là rất ngắn. Chẳng hạn như
thị trường EU là thị trường dân cư có thu nhập cao, chi tiêu cho may mặc nhiều
nên yêu cầu cao về kiểu mốt, mẫu mã chất lượng. Với thị trường này yêu cầu về
chức năng bảo vệ của quần áo chỉ chiếm khoảng 10 - 15% còn yêu cầu về thẩm
mỹ, mốt, mẫu thời trang chiếm tới 85 - 90% giá trị sử dụng. Hay như thị trường
may mặc Nhật Bản là thị trường được cung cấp rất tốt, người tiêu thụ chỉ mua cái
gì thích hợp với mình. Người tiêu thụ Nhật Bản quan tâm đến chất lượng là trên
hết và kiểm tra kỹ lưỡng trước khi mua. Do vậy muốn xuất khẩu sản phẩm may
mặc sang thị trường Nhật Bản các doanh nghiệp phải cố gắng để tìm ra mặt hàng
nào mà người tiêu dùng thực sự mong muốn để hướng vào đó mà sản xuất và phải
sản xuất ra với chất lượng cao.
1.3. Mơi trường văn hố xã hội.



Tỷ lệ dân cư theo trình độ văn hố, tơn giáo, phong tục tập quán, lối sống,
nguyên tắc và giá trị xã hội, các yếu tố về khí hậu địa lý...
Sản phẩm may mặc không chỉ đơn thuần để đáp ứng nhu cầu bảo vệ (nhu
cầu cơ bản, cấp thấp) mà còn phải đáp ứng nhu cầu làm đẹp, nhu cầu nâng cao địa
vị, phẩm chất, đặc tính con người. Nói cách khác nó liên quan chặt chẽ tới yếu tố
tinh thần của con người, nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn hố, tơn giáo,
phong tục tập qn, lối sống, nguyên tắc và giá trị xã hội của mỗi dân tộc.
Các nhu cầu đó thường được thể hiện qua một số các yếu tố cấu thành chất
lượng sản phẩm may mặc nhằm thực hiện cả hai chức năng cơ bản của sản phẩm
may mặc là bảo vệ và làm đẹp như:
- Yếu tố về nguyên liệu: Về nguyên liệu chính (các loại vải dệt kim, dệt
thoi...) và các phụ liệu (mex, đệm, túi, khoá, khuy, cúc, chỉ...), sản xuất mặt hàng
may mặc nào đó thì u cầu của thị trường mỗi nước cũng thay đổi tuỳ theo sở
thích tập quán của người tiêu dùng cũng như điều kiện địa lý của mỗi nước.
- Kiểu dáng kích thước: Yếu tố này ngoài việc phụ thuộc vào đặc điểm về
tập quán, lối sống, đặc điểm nhân trắc còn phụ thuộc vào từng loại, từng kiểu mốt
quần áo. Những sự khác biệt về đặc điểm nhân trắc học của mỗi dân tộc khác nhau
trên thế giới là yếu tố cực kỳ quan trọng trong nghiên cứu thị trường may mặc xuất
khẩu để có thể thiết kế, sản xuất ra các sản phẩm may mặc có cỡ số và kiểu dáng
phù hợp với người tiêu dùng ở mỗi nước. (Ví dụ với thị trường Nhật Bản ưa
chuộng quần áo có kiểu đơn giản, không cầu kỳ nhưng lịch sự và sang trọng. Sự
ưa chuộng này khá bền vững và ổn định trong thị trường may mặc Nhật Bản.
Ngược lại ở các thị trường Tây Âu ưa sự tinh vi cầu kỳ và mang tính nghệ thuật
cao trong các sản phẩm may mặc và sự biến động của các yếu tố này rất nhanh).
- Yếu tố màu sắc: Đặc biệt đối với sản phẩm may mặc, giữa các nước hoặc
các đoạn thị trường của mỗi nước có sự khác nhau quan trọng về sở thích màu sắc.
Màu sắc là yếu tố quan trọng tạo nên giá trị thẩm mỹ của sản phẩm may mặc. Nó
cịn phụ thuộc vào từng loại, từng kiểu mốt quần áo nhất định. Hơn nữa, sự ưa
chuộng về màu sắc trong trang phục cũng thay đổi rất nhanh, có thể từng mùa,

từng năm hoặc nhanh hơn thế. Vấn đề là muốn xuất khẩu sản phẩm may mặc phải
nắm bắt được những sở thích, thị hiếu cũng như xu hướng thay đổi về sở thích thị


hiếu màu sắc của mỗi thị trường, mỗi nước để làm ra các sản phẩm thích nghi với
từng thị trường xuất khẩu.
Các yếu tố nguyên liệu, kích thước, kiểu dáng, màu sắc là những yếu tố
quan trọng tạo nên giá trị sử dụng, đặc biệt là giá trị thẩm mỹ của sản phẩm may
mặc. Trong nghiên cứu thị trường may mặc xuất khẩu, cần tìm hiểu một cách cặn
kẽ, cụ thể các đặc điểm đó cũng như dự đốn được xu hướng của nó để thiết kế,
sản xuất các loại sản phẩm may mặc phù hợp với mỗi thị trường xuất khẩu. Sản
phẩm của doanh nghiệp có bán được hay không? giá cao hay giá thấp? khối lượng
đặt hàng nhiều hay ít phụ thuộc vào yếu tố này của thị trường.
1.4. Mơi trường luật pháp.
Khi có ý định hay trước khi quyết định xuất khẩu sản phẩm của doanh
nghiệp sang thị trường nước nào thì trước hết phải tìm hiểu quan hệ kinh tế thương
mại giữa hai nước, sau đó cần nắm vững những quy định, luật lệ của nước sở tại
để đảm bảo cho quá trình xuất khẩu đượ trơi chảy, khơng gây tổn thất cho doanh
nghiệp. Ví dụ như hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ phải tuân theo một hệ thống
các quy định rất nghiêm ngặt như quy định về hạn ngạch bao gồm các yêu cầu về
bản khai quốc gia gốc xuất khẩu. Các bản khai này rất quan trọng bởi vì những
ràng buộc hạn ngạch được dựa trên quốc gia gốc xuất khẩu, hay quy định về lắp và
dán nhãn yêu cầu mọi sản phẩm may mặc phải được đóng dấu, gắn thẻ lai lịch và
gắn nhãn có kèm những thơng tin về tên gọi tổng quát (tên chung) của sản phẩm
và tỷ lệ trọng lượng các loại sợi cấu thành sản phẩm, tên của nhà sản xuất, tên
quốc gia nơi chế biến gia công... Đối với thị trường Nhật Bản các nhà xuất khẩu
cũng cần phải nghiên cứu các đạo luật của Nhật Bản như cấm nhập khẩu các sản
phẩm có nhãn mác mập mờ, giả mạo về xuất xứ, quy định các sản phẩm gia dụng
phải tuân thủ các tiêu chuẩn về mức độ cho phép đối với các chất gây nguy hiểm
cho da, luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hố địi hỏi các sản phẩm quần áo đều

phải dãn nhãn. Trên nhãn phải ghi rõ thành phần của vải và các biện pháp bảo vệ
sản phẩm thích hợp. Nắm được những quy định này các doanh nghiệp đưa ra
những sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu.
1.5. Môi trường cạnh tranh.
Những thông tin này giúp các cơng ty thích ứng được với mơi trường cạnh
tranh nghiệt ngã của thị trường thế giới. Ngồi các thơng tin về chiến lược sản


×