số 5/2022 - Năm thứ mười bảy
NghêLuqt
BÌNH LUẬN VỤ ĂN HÌNH sự ĐÃ XÉT xử sơ THAM1
VỀ ĩộl
“Lừa đảo CHIEM ĐOẠT TÀI SẢN”
Nguyễn Thanh Mai123
Vũ Thị Hương?
Tóm tắt: Bình luận vụ án hình sự đã xét xử sơ thẩm sẻ bản án: 06/2021/HS-ST ngày 01/04/2020
của Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang xét xử đoi với bị cáo Phạm Bằng Gi, sinh
năm 1975 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật
Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đây là vụ án hình sự tương đổi phức tạp,
sau phiên tịa đã có nhiều quan điểm, ỷ kiến trái chiều, bản thân người bị kết án luôn kêu oan, gửi
đơn thư tới nhiều nơi như: Cục điều tra Viện kiểm sát nhân dãn toi cao; ủy ban Tư pháp Quốc hội;
Tòa án nhân dân các cấp; Viện kiểm sát nhân dân các cấp... các trang báo, truyền hình VTV 24 cũng
đưa tin. Trong phạm vi bài viết này, chủng tôi xin nêu quan điểm, ỷ kiến của mình về việc giải quyễt
vụ án nêu trên.
Từ khóa: Bình luận án, bản án sơ thẩm, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, oan sai.
Nhận bài: 20/4/2022; Hoàn thành biên tập: 16/5/2022; Duyệt đăng: 20/5/2022.
Abstract: Comments on thefirst-instance trialjudgment No. 06/2021/HS-ST dated April 1, 2020
of the People s Court of Son Dong district, Bac Giang province, for the trial of defendant Pham
Bang Gi, born in 1975 for the crime. “Deceptively appropriating property’’ according to the
provisions at point c, clause 2, Article 174 of the Penal Code 2015, as amended in 2017. This is a
relatively complicated criminal case, after the trial there were many opposing views and opinions,
the convict himself always complained, sent letters to many agencies such as: Investigation
Department of the People s Supreme Procuracy;; Judiciary Committee of the National Assembly;
People s Courts at all levels; People s Procuracy at all levels. Newspapers and television channels
VTV 24 also reported. Within the scope ofthis article, we would like to state our views and opinions
on the settlement of the above case.
Keywords: Comments on case, first-instance judgment, fraudulent appropriation of assets,
wrongful.
Date ofreceipt: 20/4/2022; Date of revision: 16/5/2022; Date ofApproval: 20/5/2022.
LNỘIDUNGVỤÁN
1. Nguyễn Văn Ng có mối quan hệ với Phạm
Bằng Gi (công tác tại Ban quản lý bảo tồn Tây Yên
Tử), năm 2011 Ng cỏ nhờ Gi mua hộ mảnh đât ở địa
bàn xã Tuấn Mậu (nay là thị trấn Tây Yên Tử),
huyện Sơn Động, Gi đồng ý. Gi mua của ông Triệu
Hữu Được với giá 200 triệu gồm 200m2 đất thổ cư
(ONT) và 280m2 đất trồng cây lâu năm (CLN). Gi
nói với Ng mua mảnh đất trên 360 triệu, ông Ng
đồng ý mua, ngày 25/7/2011 ông Ng đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sừ dụng đất (GCNQSDĐ)
số 01343 mang tên Nguyễn Văn Ng.
2. Năm 2015, ƯBND huyện Sơn Động có
quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng (GPMB) thực hiện dự án
mở rộng đường tinh 293 và tuyển đường nhánh
vào khu du lịch tâm linh-sinh thái Tây Yên Tử,
thuộc xã Tuân Mậu, huyện Sơn Động, tình Bắc
Giang, biết được thơng tin trên Gi đã gọi và nói
cho Ng biết. Ng có nhờ Gi xem đất có nằm trong
diện được đèn bù GPMB khơng và đưa cho Gi
GCNQSDĐ mang tên mình. Gi cầm GCNQSDĐ
đưa cho ơng Hồng Văn Đạt, là cán bộ địa chính
xã Tuấn Mậu (nay là thị trấn Tây Yên Tử) để kiểm
tra hồ sơ. Sau đó Gi biết được đất của ơng Ng bị
thu hồi 116,7m2 đất thờ cư, nhưng Gi không nói
cho ơng Ng biêt, ơng Ng có gọi điện hỏi thì Gi
nói đất của ơng Ng khơng được thu hồi và không
1 Bản án sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 01/04/2020 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tinh Bắc Giang;
theo dơi trực tiếp diễn biến tại phiên tịa sơ thẩm.
2 Tiến sỹ, Giảng viên chính, Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
3 Thạc sỹ, Giảng viên, Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
0
HỌC VIỆN Tư PHÁP
đền bù. Gi đã trực tiếp gặp anh Bùi Hữu Tiến là
cán bộ trong Hội đồng bồi thường giải phóng mặt
bằng của huyện Sơn Động, người có trách nhiệm
lập hồ sơ GPMB diện tích đất của ơng Nguyễn
Văn Ng để cung cấp thông tin liên quan đến việc
bồi thường đất. Gi hỏi Tiến “khơng có sổ gốc có
lấy được tiền khơng”, anh Tiến trả lời là “Khơng
lấy được”. Gi nói với Tiến là “Gi mua chung với
Ng, hiện ơng Ng đi nước ngồi khơng có nhà”,
anh Tiến tin tưởng viết thêm tên Phạm Bằng Gi
vào hồ sơ nhận tiễn đền bù đất của ơng Ng. Sau
đó Hội đồng Bồi thường GPMB huyện Sơn
Động quyết định thu hồi diện tích đất của ơng
Ng là 116,7m2 đất thổ cư và bồi thường số tiền
70.020.000 đồng (Bây mươi triệu không trăm hai
mươi nghìn đồng).
3. Ngày 11/5/2016, Phạm Bằng Gi đến ủy
ban nhân dân (UBND) xã Tuấn Mậu, huyện Sơn
Động để nhận tiền đền bù diện tích đất của ơng
Nguyễn Văn Ng, Gi xuất trình giấy chứng minh
nhân dân của Gi và GCNQSDĐ mang tên ông Ng
cho bộ phận chi trả tiền đền bù, lúc đó ơng Hồng
Văn Dậu là thủ quỹ đất và Cụm công nghiệp
huyện Sơn Động trực tiếp chi trả tiền đền bù. Khi
kiếm tra thông tin trong danh sách chi trả tiền thấy
ghi “Nguyễn Văn Ng (Phạm Hồng Gi)” nên đã
viêt thêm dòng chữ “Phạm Băng Gi” dưới chữ
Phạm Hồng Gi. Gi ký vào danh sách nhận tiền
70.020.000 đồng. Sau khi nhận số tiền trên, Gi
không thông báo cho Ng biết. Ơng Ng có điện
thoại hỏi Gi là đất của ơng có được đền bù gì
khơng thì Gi nói khơng được đền bù và cũng
khơng giao lại GCNQSDĐ cho ơng Ng ngay mà
đưa cho mẹ mình là bà Lê Thị Sáu giữ hộ, ông Ng
gọi hỏi nhiều lần nhưng Gi chưa trả, đến khoảng
tháng 05/2017 Gi gọi điện cho Ng đến nhà bà Sáu
lấy GCNQSD đất.
4. Khoảng tháng 05/2018, ơng Ng có nhu câu
bán tồn bộ diện tích đất và nhờ Gi xin xác nhận
hiện trạng, Gi nhận lời nhưng khơng làm, vì vậy
ơng Ng đã đến UBND xã Tuấn Mậu (nay là thị
trấn Tây Yên Từ), huyện Sơn Động, gặp anh
Trịnh Quý Huy, là cán bộ địa chính xã kiêm tra
GCNQSDĐ, thì anh Huy xác định đất của ông Ng
đã bị Nhà nước thu hồi một phần và đã được bồi
thường, lúc này ông Ng mới biết Gi đã lay so tiền
đền bù GPMB là 70.020.000 đồng, sau đó ơng Ng
gọi điện hỏi Gi lý do đất đã bị thu hồi sao không
thông báo cho ông Ng biết, số tiền ưên Gi đã trót
chi tiêu vào việc khác, Gi thừa nhận là sai và xin
vợ chồng ông Ng cho hướng giải quyết để khắc
phục hậu quả, ơng Ng đã ghi âm tồn bộ nội dung
cuộc nói chuyện trên. Ngày 19/8/2018, ông Ng đã
làm đơn tố cáo hành vi chiếm đoạt tài sản của
Phạm Bằng Gi.
5. Quá trình điều tra, Trung tâm phát triển quỹ
đất và Cụm công nghiệp đã giao nộp cho Cơ quan
điều tra các tài liệu, giấy tờ liên quan đến công tác
bồi thường GPMB của các hộ dân, trong đó có
bản danh sách nhận tiền bồi thường dự án GPMB
đường tỉnh 293 và tuyến nhánh Tây Yên Tử theo
Quyết định số: 751/QĐ-UBND ngày 26/6/2015
của UBND huyện Sơn Động ghi ngày 11/6/2016
do Phạm Bằng Gi ký xác nhận.
Ngày 07/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra
(CSĐT) đã ra quyết định trưng cầu Phịng Kỹ
thuật hình sự công an tỉnh Bắc Giang giám định
chừ ký, chữ viết trong danh sách nhận tiền Gi đã
ký nhận ngày 11/6/2016 so với mâu chữ viêt, chữ
ký của Phạm Bằng Gi có phải do một người viêt
ra khơng. Ngày 21/01/2019, Phịng Kỹ thuật hình
sự cơng an tỉnh Bắc Giang có kết luận số: 97/KLKTHS kết luận: “Chữ ký, chữ viết mang tên Phạm
Bằng Gi tại cột Ký nhận - Họ và tên” trên các tài
liệu giám định (Ký hiệu từ A1 đến A5) so với chữ
ký, chữ viết của Phạm Bằng Gi trên các tài liệu
mẫu (Ký hiệu Ml,M2,M3) do cùng một người ký,
viết ra”
6. Ngày 25/3/2019, ông Ng giao nộp cho
CQĐT 01 USB ký hiệu PNY 4GB, bên trong
chứa đoạn ghi âm giọng nói có nội dung việc trao
đổi giữa vợ chồng ông Ng và Phạm Bằng Gi liên
quan đến việc thu hồi đất và chi trả số tiền đền bù
GPMB.
Ngày 11/4/2019, CQĐT đã trưng cầu Viện
Khoa học hình sự Bộ Cơng an (Viện KHHS BCA)
giám định giọng nói, âm thanh được lưu giữ trong
USB do ông Ng cung cấp và mẫu giọng nói của
Phạm Bằng Gi, ơng Nguyễn Vặn Ng, bà Đặng Thị
Cúc có bị cắt ghép, chỉnh sửa nội dung không; xác
định thời gian khởi tạo, chuyển thành văn bàn.
Ngày 24/6/2019 Viện KHHS BCA có kết luận:
khơng phát hiện dấu hiệu cắt ghép, chinh sừa nội
dung trong tập tin âm thanh trong mẫu giám định,
không xác định được thời gian khởi tạo tập tin âm
thanh trong mẫu giám định. Tiếng nói của người
đàn ơng xưng là “em” trong tập tin âm thanh trong
mẫu giám định (Ký hiệu là “Gi” và tiếng nói của
Phạm Bằng Gi trong mẫu so sánh là của cùng một
người. Tiếng nói của người đàn ông xưng “anh”
trong tập tin âm thanh trong mẫu giám định (ký
hiệu là “Ng” trong Bản dịch nội dung ghi âm rnẫu
số 5/2022 - Năm thứ mười bảy
NgheLuạt
cần giám định) và tiếng nói của Nguyễn Văn Ng
trong mẫu so sánh là của cùng một người. Tiếng
nói của người phụ nữ chất lượng âm thanh kém,
không đủ điều kiện giám định. Nội dung được
dịch thành văn bản gôm 20 trang A4, thê hiện:
“Thế lấy về thì bắt đầu... có nói mấỵ câu bảo là
nay mai cịn sổ sách làm phép thơi, tiền lấy thì nó
được hơn bẩy mốt triệu mấy trăm í. Lấy về thì
thời điểm đó nó cũng khó khăn, thời điểm ấy ấy
em... mới công tác, tiền về đáng nhẽ phải điện
cho anh bảo anh đê trả lại anh, nhưng mà chưa trả,
cầm trót tiêu, đấy như thế. Đấy thì bây giờ...
hướng giải quyết. Thì xem anh chị cho cái hướng
giải quyết. Cái tiền thì em tiêu rồi, cịn bây giờ cái
cách... thế nào... Đấy, ký thì ký tên em, em ghi rõ
họ tên... lấy hộ... mình lại có tóc. Nó bào lẩy hộ
thì ơng này chắc chắn lấy hộ được. Nhưng về
xong đấy thì về rồi thì bắt đầu đấy, từ chuyện tiền
về sau đến lúc lại có lúc lại vừa lo công việc đang
lấn bấn nợ nần... thế thì mình nghĩ bảo là mình
thơi cái việc đấy là mình dốt, mình ngu, phải chấp
nhận thơi... đó là bài học nhớ đời để trong vấn đề
... từ nay về sau. Làm thế nào được? Sai thì sai
rồi, bây giờ tìm cách giải quyết chứ. Cịn khơng
giải quyết được thì phải chấp nhận chứ làm thế
nào được. Không giải quyêt được thì mình phải
chịu chứ cịn đổ cho ai được nữa. Do mình, mình
làm thì mình chịu chứ cịn chẳng đổ cho ai cà.
Đấy là trách nhiệm, nói rõ là như thế...” và nhiều
câu nói của Gi thừa nhận việc đã nhận tiền đền bù
của ơng Ng sau đó chi tiêu cá nhân hết mà không
thông báo, không trả tiền cho ông Ng.
Tại bản cáo trạng số: 01/CT-VKS-SĐ ngày
16/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn
Động truy tố bị can Phạm Bằng Gi về tội “Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều
174BLHS.
TẠI PHIÊN TÒA
1. Đại diện Viện kiểm sát (VKS) giữ nguyên
quan điểm truy tố, đề nghị xử phạt từ 02 năm 03
tháng đên 02 năm 09 tháng tù, phạt bô sung 10
triệu đồng. Dân sự: buộc bị cáo Gi phải trà cho
ông Nguyễn Văn Ng, bà Đặng Thị Cúc số tiền
70.020.000 đồng, khoản tiền này đang được lưu
giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn
Động. Bị cáo chịu án phí hình sự và kháng cáo
theo quy định của pháp luật.
2. Bị cáo Phạm Bang Gi: không đồng ý với
quan điểm buộc tội của đại diện VKS. Bị cáo cho
rằng Bản cáo trạng truy tố sai, bị cáo không chiếm
đoạt tiền của vợ chồng ông Nguyễn Văn Ng và bà
Đặng Thị Cúc. Bị cáo khơng có tội.
3. Bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đêu nhât trí với quan diêm luận tội của
Viện kiểm sát và khơng có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CÙA TỊA ÁN
1. Tại phiên tịa, bị cáo Phạm Bằng Gi khai
báo quanh co, chối tội; bị cáo cho rằng bị cáo
cũng có đất ở khu vực xã Tuấn Mậu (nay là thị
trấn Tây Yên Tử); khi được ông Ng nhờ hỏi hộ
xem đất của ông Ng có bị thu hồi làm đường tỉnh
lộ 293 và có được đên bù không, bị cáo gặp ông
Đạt là cán bộ địa chính xã Tuấn Mậu tại thời điểm
đó, bị cáo đưa cho ông Đạt 01 GCNQSD đất của
ông Ng và 02 Họp đồng mua bán chuyển nhượng
quyên sử dụng đât của bị cáo, đê ông Đạt xem đât
của bị cáo với đất của ơng Ng có bị thu hồi và
được đền bù hay khơng. Sau đó bị cáo được ký
vào biên bản kiểm kê đất và tài sàn bị thu hồi, ký
vào phương án bồi thường, đến khi ông Đạt gọi
điện báo cho bị cáo đèn nhận tiên đèn bù đât, thì
bị cáo nghĩ đất của bị cáo bị thu hồi nên được đền
bù. Khi ký vào các giấy tờ trên và nhận tiền bồi
thường, bị cáo ký và ghi rõ họ tên mình; Bị cáo
khơng gian dối với ai, bị cáo cũng không biết số
tiền 70.020.000 đồng mà bị cáo nhận là tiền của
ông Ng được Nhà nước bồi thường khi bị thu hồi
đất. Tuy nhiên, ơng Hồng Văn Đạt khẳng định
là bị cáo chi đưa cho ông 01 GCNQSDĐ đứng tên
ông Nguyễn Văn Ng, ông Đạt không nhận được
02 hợp đồng mua bán chuyển nhượng đất của bị
cáo, việc ông gọi điện cho bị cáo nhận tiên đên bù
đất theo GCNQSDD đứng tên ông Ng.
2. Việc bị cáo Phạm Bằng Gi ký tên vào các
giấy tờ trong hồ sơ thu hồi đất bồi thường GPMB
của ông Nguyễn Văn Ng được ông Bùi Hữu Tiến
là cán bộ trung tâm quỹ đất huyện Sơn Động,
người lập hồ sơ giải thích như sau: Bị cáo Gi trình
bàỵ với ơng về thửa đất đứng tên ơng Ng có một
phân bị thu hôi đê làm đường là đât mà Gi và ông
Ng chung nhau mua của ông Triệu Hữu Được, do
ông Ng đi nước ngóài nên Gi đứng ra làm thủ tục;
ơng Tiến hỏi ơng Được thì ơng Được cho biết ơng
bán thừa đất đó cho Gi chứ ơng khơng biết ơng
Ng là ai. Do tin tưởng thửa đất đứng tên Ng có
một phân diện tích bị thu hơi là đât mua chung
giữa Gi và Ng, nên ông Tiên đã ghi tên chủ sử
dụng đât là Nguyên Văn Ng (Phạm Băng Gi), quá
trình lập hồ sơ Gi là người ký vào các giấy tờ, văn
bản cùa hồ sơ. Căn cứ vào danh sách nhận tiền
bồi thường GPMB của ông Tiến lập, ông Hồng
Văn Dậu là thủ quỹ của Hội đồng bồi thường
©
HỌC VIỆN Tư PHÁP
GPMB đã trả tiền bồi thường cho Gi.
3. Tại bản tự khai và các lời khai ban đầu (các
BL số 66, 146,'153, 155, 157, 162,171...), bị cáo
Phạm Bằng Gi đã khai bị cáo biết số tiền
70.020.000 đồng mà bị cáo nhận từ Hội đồng bồi
thường GPMB là tiền Nhà nước bồi thường cho
ông Nguyễn Văn Ng do bị thu hồi đất, bị cáo có
thơng báo cho ơng Ng biết. Nhưng ông Ng xác
định trước và sau khi nhận tiên bị cáo không
thông báo và trà lại tiền cho ơng Ng mà tự mình
quản lý, sử dụng số tiền đó. Lời khai của bị cáo
phù hợp với lời khai của ông Nguyễn Văn Ng,
ông Bùi Hữu Tiên, ông Hoàng Văn Đạt và phù
hợp với nội dung theo kết luận giám định về cuộc
nói chuyện giữa bị cáo với ông Ng trong đoạn ghi
âm mà ông Ng cung cấp về việc bị cáo biết đất bị
thu hồi và tiền đền bù bị cáo nhận là của ông Ng,
nhưng bị cáo không thông báo cho ông Ng biet.
Như vậy, ý kiến bị cáo khai tại Tòa cho rang số
tiền 70.020.000 đồng bị cáo nhận tại Hội đồng bồi
thường GPMB không phải là tiền của ông Ng
được bồi thường và bị cáo tưởng số tiền đó là tiền
bị cáo được bơi thường là hồn tồn khơng có căn
cứ chấp nhận.
4. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án
và kết q tranh tụng tại phiên tịa, đã có đủ cơ sở
kết luận: Sau khi được biết thửa đất của ông
Nguyễn Văn Ng bị thu hồi một phần để làm
đường Tinh lộ 293, mặc dù bị cáo Phạm Bằng Gi
đã được ông Ng nhờ hỏi hộ từ trước, nhưng Gi
không thơng báo cho ơng Ng biết. Khi những
người có trách nhiệm báo cho Gi đến làm thủ tục,
ký vào các giấy tờ, văn bàn của hồ sơ thu hồi đất
và báo đến nhận tiền bồi thường nhưng Gi đều
không thông báo cho ông Ng biểt, tự Gi ký vào
các văn bản, giấy tờ của hồ sơ thu hồi đất và ký
nhận tiền bồi thường. Những hành vi nêu trên của
bị cáo Phạm Bằng Gi là thủ đoạn gian dối để
chiếm đoạt tiền của ông Nguyễn Văn Ng được
Nhà nước bồi thường do việc thu hồi đất. Mặc dù
bị cáo nhận tiền từ Hội đồng bồi thường GPMB,
nhưng UBND huyện Sơn Động xác định số tiền
đó là tiền bồi thường cho ông Ng do bị thu hồi đất
nên thuộc quyền sở hữu của ơng Ng. Tại phiên
tịa, ơng Nguyễn Văn Ng xác nhận UBND huyện
Sơn Động thu hôi 116,7m2 đât ở của ông và bôi
thường cho ông số tiền 70.020.000 đồng là đúng
nhưng bị cáo đã chiếm đoạt của ông số tiền này.
5. Bằng thủ đoạn gian dối nêu trên, bị cáo
Phạm Bằng Gi đã chiếm đoạt được số tiền
70.020.000 đồng của ông Nguyễn Văn Ng. Hành
0
vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm
đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác, đủ
yếu tổ cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”,
bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực
tiếp. Căn cứ vào sổ tiền bị cáo chiếm đoạt, VKS
nhân dân huyện Sơn Động truy tố bị cáo Phạm
Bằng Gi về tội tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS
là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH
1. về điều luật: Áp dụng điểm c, khoản 2,
khoản 5 Điều 174 BLHS, điểm b,v khoản 1,
khoản 2 Điều 51 BLHS, Điều 48, Điều 38 BLHS.
Điều 136, 331, 333 BLTTHS. Điều 235 BLDS.
Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy
ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án
phí, lệ phí Tịa án.
2. về tội danh: Tun bố bị cáo Phạm Bằng
Gi phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
3. về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Bằng
Gi 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày
bắt bị cáo đi thi hành án.
Phạt tiền bị cáo Phạm Bằng Gi 10.000.000
đồng đe sung vào quỹ nhà nước.
4. Trả lại vợ chồng ông Nguyễn Văn Ng, bà
Đặng Thị Cúc số tiền 70.020.000 đồng, số tiền
này hiện đang được quản lý, lưu giữ tại kho vật
chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn
Động, tỉnh Bắc Giang
5. về án phí: Bị cáo Phạm Bằng Gi phải chịu
200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
6. về quyền kháng cáo: bị cáo, bị hại, người
có quyên lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt đêu có 15
ngày kháng cáo kể từ ngày tuyên án. Người bị hại;
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt
có 15 ngày kháng cáo kê từ ngày nhận được bản
án xét xử vắng mặt.
(Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; Hội thẩm
nhãn dân đã kỷ)
II. BÌNH LUẬN BẢN ÁN sơ THẢM
HÌNH SƯ VẨ QUA DIỄN BIẾN TẠI
PHIỀN TÒA Sơ THẤM
1. Việc xác định bị hại trong vụ án
Tại thời điểm ký và nhận tiền bồi thường giải
phóng mặt băng, ơng Hồng Văn Đạt là người đã
thông báo cho bị cáo Phạm Bằng Gi đến để làm
thủ tục nhận tiền bồi thường GPMB trên diện tích
đất thu hồi. Tại thời điểm chi trả, số tiền xuất ra để
trả là của Nhà nước chi trả, bồi thường cho đối
Số 5/2022 - Năm thứ mười bảy
Nghê Luạt
tượng có tên trong danh sách và người được gọi
đến nhận tiền là bị cáo Phạm Bằng Gi với tư cách
là chủ hộ gia đình có đất bị Nhà nước thu hồi. Do
quy trình bồi thường GPMB diện tích đất bị thu
hồi của anh Nguyễn Văn Ng có sai sót, thể hiện sự
thiếu trách nhiệm của bộ phận cán bộ làm công
tác bồi thường GPMB, nên số tiền bồi thường
chưa được trả cho anh Ng. Còn số tiền mà bị cáo
Phạm Bằng Gi ký nhận, là số tiền Nhà nước xác
lập quyền sở hữu từ Nhà nước đối với bị cáo
Phạm Bằng Gi (khơng có liên quan đến cá nhân
anh Nguyễn Văn Ng). Hơn nữa, bị cáo Gi không
nhận tiền từ anh Ng, cũng như anh Ng cũng
không nhờ, không ủy quyền cho bị cáo Gi đến
nhận tiên thay cho mình.
Khi phát hiện việc chi trả sai thì Hội đồng bồi
thường GPMB cũng không thể chuyển ngang
sang cho anh Ng từ bị cáo Gi, càng không thê yêu
cầu bị cáo Gi đem trả tiền mà Hội đồng GPMB
giao nhầm cho bị cáo trả cho anh Ng (bản án sơ
thấm phân tích và nhận định như vậy là khơng
đúng). Theo đó, Hội đồng bồi thường GPMB cần
phải có quy trình thu hồi lại số tiền đã chi trả sai,
chi trà không đúng đối tượng do lỗi thuộc về sự
thiếu sót, tắc trách của Hội đồng GPMB. Còn việc
bồi thường cho anh Ng sẽ phải được xác định
bằng một quy trình, thủ tục khác. Do đó việc chi
trả sai nói trên do chính cán bộ Hội đông bôi
thường GPMB đã làm sai, gây thiệt hại đến tài sản
của Nhà nước, đồng thời làm chưa đúng với quy
trình chi trà bồi thường cho những đối tượng được
bồi thường khi bị Nhà nước thu hồi đất. Điều này
đã làm ảnh hưởng đến tài sản lẽ ra phải chi trả cho
anh Ng nhưng lại giao nhầm cho bị cáo Phạm
Bằng Gi, theo đó bị cáo Phạm Bằng Gi khơng
phải là người có lỗi trong trường hợp này. Hơn
nữa, Gi khai tại CQĐT cũng như tại phiên tịa:
“tơi cũng có 02 mảnh đất gần đó, khi được gọi lên
để nhận tiền tơi cứ tưởng là đất cùa mình bị thu
hồi ” (Nội dung này được đề cập trong phần nhận
định cùa Bản án sơ thâm, cũng như lời khai của
bị cảo trong hồ sơ vụ án và biên bản thu thập tài
liệu là Hai hợp đồng mua bán đã lưu trong hồ sơ
vụ án).
Từ sự phân tích trên, khẳng định số tiền mà
Hội đồng bồi thường GPMB trả cho bị cáo Phạm
Bằng Gi là số tiền từ Nhà nước, không phải tiền
của anh Ng và bị cáo Gi cũng khơng nhận tiền từ
anh Ng, cũng như anh Ng hồn tồn khơng nhờ bị
cáo Gi lấy hộ, hoặc ủy quyền cho bị cáo Gi lấy
hộ. Vì the, việc CQĐT, VKS và Tòa án sơ thẩm
xác định anh Ng là bị hại trong vụ án này là hồn
tồn sai, khơng đúng quy định của pháp luật.
Việc xác định sai vê tư cách người tham gia tơ
tụng trong vụ án hình sự là sự vi phạm pháp luật
tơ tụng hình sự hêt sức nghiêm trọng, đây cũng là
một trong những căn cứ sai phạm tố tụng mà nếu
vụ án xét xử phúc thâm, Tòa án câp phúc thâm
phải hủy bản án sơ thẩm.
2. Việc tòa án sơ thẩm kết tội Phạm Bằng
Gi phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo
khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự
Đe xem xét về tội danh mà Tòa án nhân dân
huyện Sơn Động quy kết, chúng ta cùng phân tích
các vấn đề sau:
Một là, khi biết tuyến đường 293 và tuyến
đường dẫn vào Khu du lịch tâm linh, sinh thái Tây
Yên Tử, theo nhận định trong Bản án sơ thâm
cũng như trong hồ sơ vụ án thì bị cáo Phạm Bằng
Gi có nói cho anh Nguyễn Văn Ng biết để anh Ng
chủ động nộp hô sơ cho Ban quản lý Dự án nhận
tiền bồi thường (nếu đi qua và lay đất cùa anh
Ng). Tự bản thân anh Ng có nhờ bị cáo Phạm
Bang Gi nộp hộ GCNQSDD cho anh Ng, bị cáo
Phạm Bang Gi đã đồng ý và mang GCNQSDĐ
mang tên anh Nguyễn Văn Ng đến nộp cho Hội
đồng bồi thường GPMB (chi tiết này được thể
hiện rõ qua lời khai của Ng; lời khai cùa Gi trong
hồ sơ vụ án cũng như khai tại phiên tòa đã khang
định lại sự việc này).
Bàn thân Gi khai tại CQĐT cũng như tại
phiên tịa là: “khơng hiểu tại sao trong Quyết định
phê duyệt phương án bồi thường giải phóng mặt
bằng và Quyết định thu hồi kèm theo danh sách
lại có tên Nguyễn Văn Ng và mở ngoặc là Phạm
Bằng Gi (Quyết định sổ 750, Quyết định số 751)".
Khi nộp hồ sơ, bị cáo Phạm Bằng Gi đã ghi rõ số
điện thoại cùa anh Nguyễn Văn Ng cho cán bộ xã.
Bị cáo Gi khai tại phiên tòa “Bị cảo được gọi lên
nhận tiền bồi thường vì Nhà nước thu hồi đất
“Bị cáo cũng có hai lơ đất mua trên tuyến đường
đó nên cứ nghĩ là đát bị thu hôi “Khi lên nhận
tiền, bị cáo ký vào biên bản kiểm kê đất và tài sản
bị thu hồi. Trong biên bản kiểm kê đất và tài sàn
bị thu hồi đã khơng ghi rõ so lơ đất, thửa đất, diện
tích đất bị thu hồi, loại đất bị thu hồi, chi đề chù
thừa đất: Phạm Bằng Gi, khơng có tên cùa ơng
Nguyễn Văn Ng “Các giấy tờ khác khi ký, được
đóng trong tập dầy, cán bộ lật trang cho ký, tôi ký
vào chô người nhận, đông thời ghi rõ họ và tên
của mình, sơ chứng minh nhân dân của mình, có
phơ tơ lại chứng minh thư và gửi lại cản bộ
HỌC VIỆN Tư PHÁP
"Tơi cũng có lỗi là chù quan không kiểm tra kỹ
trước khi ký nhận tiên ”. (Lời khai này phù hợp
với chứng cứ vật chất là các giấy tờ mà Hội đồng
GPMB lưu hồ sơ và CQĐT đã thu thập trong hồ
sơ vụ án).
Như vậy, bị cáo Phạm Bằng Gi khơng có ý
định, khơng có mục đích chiếm đoạt số tiền
70.020.000 đồng là tiền bồi thường đất bị thu hồi
mà Hội đông bồi thường GPMB chi trả cho bị cáo
Gi, bị cáo Gi nhận tiền vì lầm tưởng là tiền bồi
' thường do đất của mình bị thu hồi.
Hai là, hành vi đến ký và nhận tiền của bị cáo
Phạm Bằng Gi hồn tồn khơng có sự gian dối,
bởi lẽ: bị cáo Phạm Bằng Gi đen Hội đồng Bồi
thường GPMB ký và nhận tiền là do ông Hồng
Văn Đạt - cán bộ địa chính xã đã gọi điện và
thông báo cho bị cáo Gi đến để chi trả tiền. Nhìn
vào các giấy tờ mà Gi ký nhận tiền đều xác định
với tư cách là chủ hộ gia đình có đất bị Nhà nước
thu hồi. Theo đó, Nhà nước đã xác lập quyền sở
hữu số tiền đó cho hộ gia đình bị cáo Phạm Bằng
Gi, điều này được thể hiện trong hồ sơ chi trả của
UBND huyện Sơn Động', cụ the là: Tại giấy nhận
tiền; giấy bàn giao mặt bằng và di chuyên tài sản
trên đât, chữ ký và phân ghi họ và tên đã được Cơ
quan công an giám định đó là chữ ký của Phạm
Bằng Gi (Phản ánh trong hồ sơ toàn bộ tài liệu
liên quan).
Trong biên bản nhận tiền 70.020.000 đồng,
biên bản này chỉ ghi "họ tên Phạm Bằng Gi, có
địa chì nơi ở, nhận đủ 70.020.000 đơng”, khơng
có bất cứ thơng tin gì liên quan đến lơ đất, phần
diện tích đất bị thu hoi, loại đất thu hồi. Bị cáo Gi
luôn khăng định là: "tôi vân cho rằng là đất cùa
tôi bị thu hồi và được đền bù ” khi đến ký nhận
tiền. Hơn nữa, biên bản bàn giao hồ sơ kỹ thuật
thửa đất chỉ ghi tên chủ đất: Phạm Bằng Gi. (Hồ
sơ có hai hợp đồng mua bán đất cùa Phạm Bằng
Gi nộp và lưu hồ sơ, kèm các tài liệu liên quan ký
nhận).
Từ sự phân tích nêu trên, cho thấy: Hồn tồn
khơng có căn cứ để xác định bị cáo Phạm Bằng Gi
có hành vi haỵ thủ đoạn gian dối khi nhận số tiền
70.020.000 đong.
Ba là, việc bị cáo Phạm Bằng Gi được nhận
tiền đền bù bồi thường GPMB là do Hội đồng
GPMB của UBND huyện Sơn Động thiếu trách
nhiệm, làm sai sót, nhầm lẫn khơng tn thủ đúng
quy trình bồi thường GPMB.
Tại phiên tịa, đại diện UBND tinh Bắc Giang
cũng có ý kiến phát biểu, cho rằng: UBND tỉnh
©
đã ban hành văn bản quy định về thu hồi đất, giải
phóng mặt bằng, lập hồ sơ chi trả tiền rất cụ the và
chi tiêt. Việc UBND huyện Sơn Động mà cụ thê
là Hội đồng bồi thường GPMB huyện Sơn Động
đã sai trong quá trình lập hồ sơ chi trả tiền bồi
thường cho các đốt tượng có đất bị thu hồi, tại
phiên tịa chúng tơi xin nhận lỗi về việc này.
Theo đó, hồ sơ bồi thường GPMB của Hội
đồng bồi thường GPMB của UBND huyện Sơn
Động đã có nhiều sai sót, vi phạm dẫn đến gọi và
chi trả nhầm đối tượng.
Những sai phạm, thiểu sót cịn được thể hiện
cụ thể qua những lời khai và hành vi của những
người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ trong Hội
đồng bồi thường GPMB huyện Sơn Động:
Lời khai của ông Bùi Hữu Tiến - cán bộ trực
tiếp lập hồ sơ bồi thường GPMB của Hội đồng:
Tại CQĐT cũng như tại phiên tịa, ơng Bùi Hữu
Tiến đã lý giải về việc mình tự ý kê thêm tên
Phạm Bằng Gi vào hồ sơ bồi thường GPMB với
các lý do đưa ra tại các lời khai rất khác nhau, cụ
thể: tại phiên tịa ơng Tiến khai "hơm đó ở sản vận
động tơi có gặp anh Gi và hỏi anh í về hồ sơ đất
của anh Ng, anh Gi nói mua chung với anh Ng và
hiện nay anh Ng đi công tác nước ngồi, tin lời
anh Gi nói tơi đã lập hồ sơ cho thêm tên cùa anh
Gi vào ”. Trong hồ sơ, ơng Tiến trình bày "Tơi đã
nhiều lần gọi điện hỏi anh Gi về việc anh Ng đáu,
anh Gi ln nói là anh Ng đi cơng tác nước ngồi.
Nên chúng tôi đã lập hồ sơ chi trả tiền cho anh
Gi, vì anh ẩy nói đất mua chung với anh Ng”.
Lời khai cùa bị cáo Phạm Bằng Gi: “Tôi
không quen biết anh Tiến, chưa bao giờ trao đổi
điện thoại với anh Tiên ” “Hồn tồn khơng có
chuyện tơi gặp anh Tiến ở Sân vận động nói
chuyện với anh Tiên, đó là sự bịa đặt” “Tôi đã
đưa sổ điện thoại cùa anh Ng cho cán bộ xã, chưa
bao giờ tơi nói mua chung đất với anh Ng hay việc
anh Ng đi cơng tác nước ngồi, việc này là bịa
đặt”. Phạm Bằng Gi đề nghị cho check điện thoại
xem thời gian đó có ai tên Tiến gọi điện cho mình
khơng!
Cũng tại phiên tịa, khi Hội đồng xét xử
(HĐXX) hỏi ơng Ngữ - trưởng ban GPMB huyện
Sơn Động là: “việc chi trà tiền sẽ tiến hành như
thế nào?” Ơng Ngữ nói về quy trình chi trả tiền
bồi thường GPMB và khẳng định: "Chi chi trả
cho người có tên trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và phải có bản gốc ”.
Tiêp đó, HĐXX hỏi ơng Đạt: có nhận được
GCNQSDĐ bản gốc mang tên anh Ng do bị cáo
số 5/2022 - Năm thứ mười bảy
NghêLuqt
Gi nộp hộ không? Ông Đạt quanh co, chối bỏ và
nói chỉ nhận bản photo. Điều này là sai sự thật, vì
nếu chì nhận bản photo thì theo ơng Tiến, cũng
như ơng Ngữ và ông Dậu nói: chi lập hồ sơ và chi
trà tiên cho người có giây tờ bản gơc. Với những
lời khai bất nhất như vậy, cho thấy quy trình hoạt
động của Ban GPMB quá lỏng lẻo, cẩu thà. Tại
phiên tòa, HĐXX hỏi ông Dậu (thủ quỹ): tại sao
ông chi trả tiền cho người khơng có tên trong giấy
chứng nhận qun sử dụng đât, trong khi quy
trình xác định chỉ chi trả cho người có tên trong
giấy chứng nhận bàn gốc? Ơng Dậu trả lời: tôi chỉ
xem giấy tờ thấy ghi Nguyền Văn Ng có mở
ngoặc Phạm Bằng Gi nên cho rằng hai người là
một và tơi phát tiền vì anh Đạt gọi ơng Gi lên
nhận tiền.
Tại phiên tịa, luật sư bào chữa cho bị cáo Gi
có hỏi: 1, Ai nhờ anh nộp hộ sổ đỏ liên quan đến
mảnh đất bị thu hồi đất? BỊ cáo Gi trả lời là ông
Ng; 2, Ông Ng có nhờ anh hay ủy quyền cho anh
nhận tiền hộ nếu đất bị thu hồi không? Bị cáo Gi
trả lời là khơng; 3, Anh Gi có đất nằm trên tuyến
đường này không? Bị cáo Gi trả lời: tôi có 2 mảnh
đất cũng nằm trên tuyến đường này; 4, Tại sao
anh đên nhận tiên? Bị cáo Gi trả lời: tơi nhận tiền
vì anh Đạt gọi tơi lên nhận tiền; 5, Khi nhận tiền
anh mang theo giấy tờ gì? BỊ cáo Gi trả lời: tôi
mang theo CMND bản gốc của tôi, khi ký tôi ghi
rõ họ và tên của tôi; 6, Anh được ký vào những
giấy tờ gì? Tại sao ký? Tôi ký vào biên bản bàn
giao sơ đồ kỹ thuật thửa đất, sơ đồ không ghi số
thửa, số m2 đất bị thu hồi, tên cũng không ghi,
nên tôi nghĩ đât của tôi bị thu hồi; Biên bản nhận
tiền chỉ ghi tên tơi; các giấy tờ khác đóng trong 1
tệp dây và cử lật cho tôi ký nên tôi chi ký, khơng
kiêm tra và ghi rõ họ tên mình; Tơi ký nhận vào
giấy tờ trên là do nghĩ là đất của tôi bị thu hồi.
Như vậy, bị cáo Phạm Bằng Gi khơng có hành
vi gian dối, thủ đoạn gian dổi để nhận số tiền
70.020.000 đồng.
Bổn là, tại phiên tòa bị cáo Phạm Bằng Gi có
khai: khi phát hiện ra Nhà nước xác lập quyền sở
hữu không đúng đối tượng, tôi đã nỗ lực trả lại
cho Nhà nước so tiền mà Hội đồng GPMB chi trả
sai đối tượng cho tôi. Điều này thể hiện bị cáo Gi
hồn tồn khơng có ý thức chiếm đoạt số tiền này,
việc nhận số tiền này từ Hội đồng GPMB là do
nhầm lẫn nghĩ là đất của nhà mình bị thu hồi, hơn
nữa phía Hội đồng GPMB có sai sót chi trả sai đối
tượng bởi sự cẩu thả trong công việc của các
thành viên trong Hội đồng.
Sau một thời gian, khi được cán bộ xã Tuấn
Mậu là anh Huy (Anh Huy không phải là thành
viên trong Hội đông GPMB của huyện), thông
báo số tiền 70.020.000 đồng bị đền bù nhầm cho
bị cáo Gi, đúng ra phải đền bù cho ông Ng. Bị
cáo Gi sau khi gọi hỏi kiểm tra xác nhận đúng là
tiên nhận nhâm, đã tìm cách để trả lại tiền cho
Nhà nước bằng việc gặp Chủ tịch và Phó Chủ
tịch Hội đồng GPMB đe trình bày sự việc nhận
nhầm tiền do lỗi sơ suất của cả hai bên và giao
nộp tiền nhưng không được giải quyết. Ơng Ngữ
cịn u câu ơng Gi mang tiên sang nộp trả cho
ông Ng, do không hiêu biết luật, ông Gi cũng
mang sang đưa trả cho ông Ng, mà đáng ra việc
này phải do Hội đông GPMB nhận lại và trả cho
ơng Ng mới đúng, vì ơng Gi có nhận tiền từ ông
Ng đâu mà phải mang trả cho ông Ng. (Nội dung
này được thê hiện qua lời khai cùa ông Ngữ và
bị cáo Gi tại hô sơ vụ án và tại phiên tòa sơ
thẩm).
Bản thân bị cáo là cán bộ công tác ở khu vực
huyện Sơn Động, thời điểm đó đang là Hạt
trưởng Kiểm lâm, để tránh rắc rối cho anh em
công tác tại địa phương bị cáo Gi đã nhiều lần
cùng vợ là bà Lê Thị Lan đến nhà ơng Ng để
hồn trà số tiền lớn hơn nhiều số tiền được chi
trả nhầm, lên đến 100.000.000 đồng (Chưng cứ
này đã được thu thập trong hồ sơ vụ án). Nhưng
ông Ng không đông ý nhận mà ép buộc bị cáo
Gi phải tìm người mua hoặc chính bị cáo phải
mua lại diện tích đât cịn lại sau khi thu hồi với
số tiền lên tới 1.000.000.000 đồng (Một tỷ
đông). Sau 01 tháng bị cáo Gi chưa tìm được
người mua và khơng có đủ số tiền lớn như vậy để
mua lại mảnh đất này của ơng Ng thì ơng Ng làm
đơn tô cáo (Nội dung này đã được bị cáo Gi và
anh Ng khai tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa).
Tuy nhiên, tại phiên tòa khi HĐXX hỏi: 1, Anh
Ng, anh đồng ý với mức tiền bồi thường đất thu
hồi của nhà nước là 70.020.000 đồng chứ? Ông
Ng trả lời: Tơi đồng ý với mức tiền đó; 2, Anh
Ng có mn nhận sơ tiền này khơng? Ơng Ng trả
lời: Tơi mn nhận lại vì đây là quyền lợi của
tơi. Sau đó, luật sư bào chừa cho bị cáo Gi có hỏi
ơng Ng 01 câu: Anh cho ràng là 70.020.000 đồng
tiên đên bù là thỏa đáng và nhận là đúng, thì tại
sao khi vợ chồng anh Gi mang số tiền
100.000.000 đơng sang đưa trả cho anh thì anh
khơng nhận, cịn ép người ta mua lai chỗ đất nhà
anh 01 tỷ đơng hoặc tìm người mua lại, họ khơng
có tiền mua lại và khơng tìm được người mua
0
HỌC VIỆN Tư PHÁP
sau 01 tháng anh đâm đơn tố cáo người ta lừa
anh là thế nấo? Đồng thời trong phần tranh luận,
luật sư bào chữa cho Gi đã yêu câu làm rõ dâu
hiệu tội Cưỡng đoạt tài sản của anh Ng đôi với bị
cáo Gi khi ép Gi phải mua lơ đất của mình 01 tỷ
mới khơng đưa đơn xử lý, trong khi anh Gi
khơng có hành vi gian dối gì đối với anh Ng và
số tiền nhận nhầm là do lỗi thuộc về hội đồng
bồi thường GPMB chi trà sai đối tượng chứ
không phải nhận từ anh Ng hay anh Ng nhờ hoặc
ủy quyền cho nhận thay.
Từ sự nghiên cứu hơ sơ vụ án, phân tích vê
bản án sơ thẩm và tồn bộ diễn biến của phiên tịa,
cho thấy: Thứ nhất, Bản án sơ thẩm nêu trên đã vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc xác
định sai bị hại trong sự việc trên; Thứ hai, hành vi
của bị cáo Phạm Bang Gi khơng có dấu hiệu của
tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sàn, có chăng hành vi
đó có dấu hiệu của tội Chiếm giữ trái phép tài sản.
Tuy nhiên, muốn cấu thành tội Chiếm giữ trái
phép tài sàn thì phải thỏa mãn các tiêu chí sau: (1)
Tài sản giao nhâm hoặc nhặt được, băt được; (2)
trị giá tài sản từ 10 triệu đồng trở lên; (3) Người
giao nhầm hoặc bị mất tài sản do người khác nhận
nhầm hoặc nhặt được phải có ủ cầu trả mà
khơng trả lại thì mới đủ yếu tố cấu thành nên tội
này. Theo đó, càn điều tra xác minh yếu tố: bị cáo
Gi đã nhận được thông báo nhận nhàm tiền mà
vẫn cố tình chây ì khơng trả mới cấu thành tội
phạm này.
Với bản án sơ thẩm tuyên có vi phạm như
phân tích trên, cần phải kháng cáo, kháng nghị để
hủy bản án sơ thẩm và cho tiến hành điều tra, xét
xử lại, xem xét sự việc một cách khách quan, tồn
diện và đầy đủ. Theo đó, bàn án sơ thẩm nêu trên
đã bị kháng cáo, sau nhiều lần hoãn phiên tòa,
ngày 26/01/2022 Tòa án nhân dân tinh Bắc Giang
đã mờ phiên tòa xét xử phúc thẩm số 07/2021/HSPT đã tuyên “Hủy bản án hình sự sơ thẩm số
06/2021/HS-ST ngày 01/04/2021 của Tòa án
nhân dân huyện Sơn Động, tinh Bắc Giang đoi
với Phạm Bang Gi để điều tra lại theo đúng quy
định của pháp luật”.
Trên đây là quan điểm của chúng tơi về bản án
sơ thẩm mà chúng tơi thấy có nhiều sai sót, việc
sai sót này đã làm ảnh hưởng quá lớn đên quyên
và lợi ích của bị cáo. Thiêt nghĩ, cân rút kinh
nghiệm sâu sắc về vụ án này, để các cơ quan có
thẩm quyền giải quyết vụ án đúng đắn hơn, tránh
oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm./.
BÌNH LUẬN BẢN ÁN về TRANH CHAP
HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYÊN sử dụng DAT
(Tiếp theo trang 70)
trong xét xử. Neu được áp dụng triệt để sẽ là căn
cứ đê xác định và bào vệ quyên và lợi ích hợp
pháp của các bên, tránh vụ việc phải giải quyêt
kéo dài và trở thành những diêm “nóng” trong
thực tiễn xét xử:
- Chủ sử dụng đất hợp pháp mới được phép
chuyên quyên sử dụng đât.
- Khi chuyên quyên sử dụng đât, các bên
tham gia quan hệ có quyên thỏa thuận các nội
dung cơ bản trong hợp đông chuyên quyên sử
dụng đât phù hợp với quy định của pháp luật dân
sự, pháp luật đất đai và pháp luật chuyên ngành
có liên quan khác.
- Bên nhận chuyến nhượng quyền sử dụng đất
phải sử dung đất đúng mục đích, thời hạn ghi
trong quyết định giao đất của bên chuyển quyên,
phù hợp với quy hoặch cùa địa phương, có diện
tích sử dụng dưới hạn mức, có trách nhiệm bảo
vệ, giữ gìn đất đai khơng làm tổn hại đến lợi ích
o
của những người xung quanh.
Có thể nói, chuyển quyền sử dụng đất là
một quyền đặc biệt của người sử dụng đất.
Người sử dụng đất được quyền định đoạt sừ
dụng đất dưới sự quản lý kiểm soát của Nhà
nước nhằm tạo điều kiện cho họ có quyền chủ
động trong việc khai thác sử dụng, đảm bảo
việc sử dụng có hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng
yêu cầu của kinh tế thị trường. Việc tuân thủ các
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và cam kết
giữa các bên, nhât là nghĩa vụ trong thực hiện
hợp đông song vụ là cơ sở bảo đảm an toàn cho
các giao dịch vê quyên sử dụng đât nói chung
và hợp đồng chuyến nhượng quyền sử dụng đất
nói riêng.
Trên đây là quan điểm bình luận của tác giả
về 03 vấn đề trong giải quyết vụ án tranh chấp hợp
đơng của Tịa án câp sơ thâm. Mong nhận được ý
kiến trao đổi từ bạn đọc./.