Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp xét xử của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.59 KB, 90 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRƢƠNG CAO SƠN


THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO CẤP XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUA THỰC TIỄN TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ

Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS TRẦN ANH TUẤN


HÀ NỘI - 2012



LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN


Trƣơng Cao Sơn






MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3

3. Mục đích nghiên cứu đề tài 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài 5
6. Phương pháp nghiên cứu 5
7. Cơ cấu của luận văn 6
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT
XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO CẤP TÒA ÁN 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quy định về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án 7
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án 7
1.1.2. Đặc điểm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp
Tòa án 11
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án
dân sự theo cấp Toà án 13
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thẩm quyền xét
xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án 14
1.3. Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự theo cấp xét xử từ
năm 1945 đến nay. 17


1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 18
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004: 19
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay 22
Kết luận chƣơng 1 25
Chƣơng 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ
SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO CẤP TÒA ÁN 26
2.1. Các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của
Toà án cấp huyện 26

2.1.1. Các tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa
án cấp huyện 26
2.1.2. Các tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền xét xử sơ
thẩm của Tòa án cấp huyện 38
2.1.3. Các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền xét xử
sơ thẩm của Tòa án cấp huyện 41
2.1.4. Các tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của
Tòa án cấp huyện 44
2.2. Các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của
Toà án cấp tỉnh 45
2.2.1. Các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động có tính phức tạp hoặc đòi hỏi kinh nghiệm chuyên môn 46
2.2.2. Các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài
hoặc cần phải ủy thác tư pháp 51
2.2.3. Các vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện mà Tòa
án cấp tỉnh cần thiết phải lấy lên để xét xử sơ thẩm 53


2.3. Các quy định về xử lý các vấn đề về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
các vụ án dân sự theo cấp Tòa án 54
2.3.1. Các quy định về việc không thay đổi thẩm quyền giải quyết các vụ
án dân sự theo cấp Toà án 54
2.3.2. Các quy định về chuyển đơn khởi kiện, chuyển hồ sơ vụ án dân sự 55
Kết luận chƣơng 2 58
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ THẨM
QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO CẤP
TÒA ÁN TẠI TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ VÀ KIẾN NGHỊ 59
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các
vụ án dân sự theo cấp Tòa án tại tỉnh Thừa Thiên - Huế 59

3.1.1. Tình hình thụ lý vụ việc dân sự sơ thẩm của ngành Tòa án nhân dân tỉnh
Thừa Thiên - Huế từ khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực cho đến nay 60
3.1.2. Những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án 62
3.1.3. Các nguyên nhân của vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện các quy
định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án 73
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân theo cấp Toà án 75
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLTTDS về thẩm quyền xét
xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án 75
3.2.2. Kiến nghị về tổ chức, đào tạo cán bộ 79
Kết luận chƣơng 3 80
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TAND : Tòa án nhân dân
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
LTCTAND : Luật tổ chức Tòa án nhân dân
PLTTGQCVADS : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
PLTTGQCTCLĐ : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động


1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Mỗi cơ quan nhà nước đều có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh vực
nhất định để thực hiện chức năng nhiệm vụ mà luật đã quy định. Các cơ quan
này tuyết đối không được phép hoạt động ra ngoài thẩm quyền của mình.
Phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan Nhà nước do pháp
luật quy định được hiểu là thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước đó. Sự phân
định thẩm quyền là điều kiện cần thiết bảo đảm cho bộ máy Nhà nước hoạt
động hiệu quả và không có sự chồng chéo lẫn nhau.
Tòa án là một bộ phận cấu thành bộ máy Nhà nước. Trong hệ thống
cơ quan tư pháp của Việt nam thì Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư
pháp chủ yếu với chức năng, thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự, hình
sự, hành chính và các vụ việc khác mà pháp luật quy định để bảo vệ pháp
luật và công bằng xã hội. Như vậy, quyền xem xét giải quyết các vụ việc
dân sự, hình sự, hành chính…. và quyền ra các quyết định khi giải quyết
các vụ việc đó là nội dụng quan trọng có mối quan hệ mật thiết tạo thành
thẩm quyền chung của Tòa án. Để tạo điều kiện cho Tòa án phát huy vị trí,
vai trò của mình trong bộ máy nhà nước, Quốc hội nước CHXHCN Việt
nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để quy định về thẩm quyền giải
quyết các loại vụ việc trên cho Tòa án.
Trước yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế,
ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội khoá XI thông qua Bộ luật tố tụng dân
sự (BLTTDS) tại kỳ họp thứ 5. Việc ban hành BLTTDS đã đánh dấu một
bước phát triển mới của hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Đây là
văn bản pháp luật quy định đầy đủ và có hệ thống các vấn đề về tố tụng dân
sự như các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự; thẩm quyền của Tòa án

2
trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại và lao động… Theo đó, BLTTDS đã xây dựng các quy
định về thẩm quyền dân sự của Tòa án dưới nhiều góc độ khác nhau. Nếu xét

theo nguyên tắc hai cấp xét xử thì thẩm quyền dân sự của Tòa án bao gồm
thẩm quyền sơ thẩm dân sự và thẩm quyền phúc thẩm dân sự của Toà án
thuộc về Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm. Nếu xét theo thẩm
quyền sơ thẩm dân sự của Toà án thì có thể thấy BLTTDS đã xây dựng các
quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo hướng tách biệt 3
loại thẩm quyền là thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án theo loại việc; thẩm quyền
sơ thẩm của Tòa án các cấp và thẩm quyền sơ thẩm của Toà án theo lãnh thổ.
Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống Toà án được tổ chức theo đơn vị hành
chính lãnh thổ. Do vậy, việc phân định thẩm quyền sơ thẩm các vụ việc dân
sự giữa Toà án các cấp là cần thiết, nhằm tránh sự chồng chéo trong việc thực
hiện nhiệm vụ giữa các Tòa án với nhau… góp phần tạo điều kiện cần thiết
cho Tòa án nhanh chóng thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự. Ngoài ra, việc
phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Toà án còn tạo thuận lợi cho
các bên đương sự chủ động yêu cầu Toà án bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, tránh việc đùn đẩy về thẩm quyền giữa Toà án các cấp và
giảm bớt những phiền phức, tạo điều kiện tốt nhất cho người dân có thể tiếp
cận công lý. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án một cách khoa học, hợp lý
còn tạo điều kiện cho các thẩm phán có điều kiện nâng cao về chuyên môn
nghiệp vụ nhằm góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc dân sự.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các quy định về thẩm quyền sơ thẩm các
vụ việc dân sự, đặc biệt là thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự giữa
Toà án các cấp cho thấy các quy định của BLTTDS về vấn đề này còn có
những hạn chế hoặc thiếu tính cụ thể dẫn tới những khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng.

3
Nhận thức được tầm quan trọng của các quy định về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm các vụ án dân sự giữa Toà án các cấp và qua những vướng mắc, bất
cập được nghiên cứu, khảo sát và trải nghiệm từ thực tiễn thực hành nghề luật
tại Toà án tỉnh Thừa Thiên Huế, học viên đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Thẩm

quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp xét xử của Tòa án nhân dân
qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy đã có một số công
trình nghiên cứu về vấn đề phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án
nhân dân các cấp. Cụ thể là Luận án tiến sĩ “Phân cấp thẩm quyền giải quyết
tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay” của Thạc sĩ Lê Thị Hà; Luận án thạc sĩ “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Lê Hoài Nam, “Việc xác định
thẩm quyền dân sự của Tòa án” của Mai Thị Ngọc…. Tuy nhiên, các công
trình trên nghiên cứu ở góc độ rộng hoặc chỉ đề cập tới các khía cạnh khác
nhau về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án các cấp. Đề tài về “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp xét xử của Tòa án nhân dân
qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế” là công trình đầu tiên nghiên cứu
chuyên sâu và toàn diện về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của
Toà án các cấp thông qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở các quy định của BLTTDS và các văn bản hướng dẫn của
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, mục đích nghiên cứu đề tài luận văn là
luận giải và làm rõ một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ
án dân sự theo cấp Tòa án, nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án, từ đó xác định

4
những điểm không hợp lí, những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về
vấn đề này. Bên cạnh đó, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu thực trạng áp dụng
các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án
dân sự theo cấp Tòa án tại tỉnh Thừa Thiên - Huế nhằm xác định những bất
cập, vướng mắc trong thực tiễn vận dụng tại địa phương, từ đó luận văn đề xuất
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự Việt

Nam về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án theo cấp Toà án; các quy
định của BLTTDS về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án
theo cấp Toà án; thực tiễn thi hành các quy định này của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam hiện hành.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ giới hạn của luận văn thạc sĩ luật học việc
nghiên cứu đề tài chủ yếu tập trung trong các vấn đề sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án
dân sự theo cấp Toà án như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về thẩm quyền xét
xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án; sự phát triển của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam về thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo cấp Toà án.
- Phân tích, đánh giá những quy định BLTTDS năm 2004 và Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 về thẩm quyền xét xử sơ
thẩm dân sự của Tòa án nhân dân theo cấp.
- Nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định của BLTTDS năm 2004
về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo cấp tại Toà án nhân dân tỉnh
Thừa Thiên - Huế trong thời gian gần đây, từ đó chỉ ra được những bất cập,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.

5
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn được hoàn thành dựa trên sự nghiên cứu, phân tích lý luận kết
hợp với phân tích thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định pháp
luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án tại tỉnh
Thừa Thiên - Huế từ năm 2005 đến nay. Kết quả nghiên cứu của Luận văn đã
có những điểm mới và đóng góp cơ bản sau đây:
- Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định về thẩm quyền xét
xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án.

- Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án.
- Lược sử các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án.
- Phân tích và luận giải các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án nhằm đánh giá thực
trạng pháp luật và phát hiện những tồn tại, hạn chế của pháp luật hiện hành về
vấn đề nghiên cứu.
- Luận văn chỉ ra được những khó khăn, bất cập, vướng mắc trong quá
trình áp dụng những quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ
án dân sự theo cấp Tòa án và đề xuất được những giải pháp khắc phục những
tồn tại, bất cập đó.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và nhà
nước qua các giai đoạn lịch sử.
Việc thực hiện đề tài được tiến hành trên cơ sở các phương pháp nghiên
cứu khoa học như phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic v.v

6
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu theo ba chương :
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ
án dân sự theo cấp Tòa án
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về thẩm quyền xét xử sơ
thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án tại tỉnh Thừa Thiên - Huế và kiến nghị.



7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM
CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO CẤP TÒA ÁN

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quy định về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp
Tòa án
Có thể thấy quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) bao gồm các quan hệ pháp
luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Các quan
hệ này hết sức đa dạng và phong phú, diễn ra hàng ngày trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và gắn liền với bất cứ chủ thể nào. Các chủ thể tham gia vào
quan hệ dân sự bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu, lợi ích nhất định. Tuy
nhiên, trong thực tế cuộc sống hiện nay, do sự đan xen về mặt lợi ích cũng như
tính muôn màu muôn vẻ của các quan hệ dân sự làm phát sinh tranh chấp là điều
không thể tránh khỏi. Nguyên nhân là do các chủ thể khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật dân sự có thể không hiểu đúng về quyền lợi của mình hoặc cố tình
vi phạm quyền của các chủ thể khác để đạt được lợi ích. Những tranh chấp nảy
sinh đòi hỏi sự can thiệp và phán xét của Toà án. Ngoài ra, có những loại việc
phát sinh từ các quan hệ pháp luật về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động mặc dù các bên không có tranh chấp nhưng cần phải có sự
thừa nhận hoặc công nhận của Toà án đối với các quyền lợi của đương sự hoặc
xác định những sự kiện pháp lý nhất định.
Về lý luận thì vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự.
Trong đó, vụ án dân sự bao gồm các tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà các chủ
thể không thể tự giải quyết được với nhau nên đã khởi kiện yêu cầu Tòa án


8
giải quyết. Có nghĩa là khi quyền và lợi ích của một hoặc các bên chủ thể
trong các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động bị xâm hại mà các bên không thể tự giải quyết được thì một
trong các bên có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết. Còn việc
dân sự là các việc phát sinh từ các quan hệ pháp luật về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động nhưng các bên không có tranh
chấp mà chỉ yêu cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận các quyền lợi
hoặc xác định những sự kiện pháp lý nhất định. Toà án có thẩm quyền thụ lý,
giải quyết các tranh chấp theo yêu cầu khởi kiện của đương sự và các yêu cầu
giải quyết việc dân sự phát sinh từ các quan hệ pháp luật về dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Trong phạm vi luận văn này,
tác giả chỉ đi sâu vào nghiên cứu về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân
sự mà không có tham vọng nghiên cứu sâu về thẩm quyền sơ thẩm các việc
dân sự của Toà án.
Theo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa năm 1999
thì thẩm quyền là “tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của
các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước do luật pháp quy định
như thẩm quyền của Toà án các cấp, thẩm quyền của Viện kiểm sát các cấp,
của cơ quan Công an các cấp… Hành động, quyết định trong phạm vi thẩm
quyền do luật pháp quy định là điều kiện để đảm bảo trật tự pháp luật và
pháp chế thống nhất, tránh được sự trùng lặp, lấn sân trong thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan các cấp, các ngành. Vượt qua thẩm quyền, làm
trái thẩm quyền trong ban hành các văn bản, quyết định là cơ sở pháp lý để
hủy bỏ các văn bản ấy”[15].
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Thẩm quyền là xem xét để kết luận và
định đoạt một vấn đề theo pháp luật ” [Viện ngôn ngữ học (1997), Từ điển
Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 992]. Theo Từ điển luật học của Mỹ thì thẩm


9
quyền được hiểu là một khả năng cơ bản và tối thiếu để cơ quan công quyền
xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật [27. Black law (2001), Nxb.
Publishing Co, tr. 298]. Theo từ điển Luật học của Việt Nam thì thẩm quyền là “ tổng
hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ
máy nhà nước do pháp luật quy định” [Nguyễn Hữu Quỳnh (chủ biên), Từ điển Luật
học (1999), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội., tr. 459].
Theo Lenmeiunier, tác giả cuốn từ điển pháp luật thì thẩm quyền của
Toà án được hiểu là “khả năng của một Toà án xem xét một vụ việc trong
phạm vi pháp luật cho phép” [Lemeunier (1998), Dictionnaire
Juiridique, La maison du dictionnaire, Paris, tr. 74]. Tiến sỹ Nguyễn
Đức Mai cho rằng: “Thẩm quyền của Toà án là một thể thống nhất bao gồm
hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền hình thức và thẩm
quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình thức thể hiện ở quyền hạn giải quyết,
quyết định của Toà án đối với những vấn đề đã được xem xét” [Nguyễn Đức
Mai (1993), Về thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm, Tạp chí Toà án nhân
dân (số 8), tr. 2].
Theo quy định tại Điều 127 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thì “Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân địa phương, các
Toà quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Trên cơ sở quy định này của Hiến
pháp, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 đã quy định cụ thể là Toà án
nhân dân có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và giải
quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Khi xét xử Toà án có quyền
ban hành bản án và các quyết định, được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước thông qua hệ thống cơ quan thi hành án án dân sự.
Theo giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam thì thẩm quyền dân sự của
Tòa án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết

10

định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của Tòa
án [14]. Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án là một khái niệm rộng được
nghiên cứu và đề cập trong hệ thống pháp luật ở nhiều nước trên thế giới. Ở
nước ta, thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án được hiểu “là quyền xem xét
thụ lý giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án và quyền hạn ra các quyết
định khi xem xét giải quyết vụ việc đó theo thủ tục tố tụng sơ thẩm dân sự”[2].
Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án được tiếp cận dưới ba góc độ là thẩm
quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ.
Trong đó, thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo loại việc là nền tảng để xác định
thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án theo cấp và theo lãnh thổ. Luận văn không
nghiên cứu về toàn bộ các vấn đề về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án
mà chỉ tập trung triển khai nghiên cứu về một vấn đề của thẩm quyền sơ thẩm
dân sự của Toà án là vấn đề đang có nhiều vướng mắc tại địa phương là thẩm
quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án.
Sơ thẩm vụ án dân sự là cấp xét xử thứ nhất trong quá trình giải quyết
một vụ án dân sự. Pháp luật tố tụng dân sự không đưa ra khái niệm về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của Toà án. Tuy nhiên, dưới góc độ lý
luận có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án dân sự như
sau: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là thẩm quyền của Tòa án
trong việc thụ lý, giải quyết lần đầu một vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm”.
Trên thế giới thì cách thức tổ chức hệ thống Tòa án có thể theo đơn vị
hành chính lãnh thổ hoặc không theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Điều này
phụ thuộc vào truyền thống, lịch sử và ý chí của nhà lập pháp mỗi nước.
Thông thường thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án
được xác định dựa trên dấu hiệu về tính chất phức tạp hay đơn giản của tranh
chấp dân sự, điều kiện giải quyết vụ việc của các cấp Tòa án, tính khách quan
trong việc giải quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động v.v.

11

Ở nước ta hiện nay, trong hệ thống các cơ quan tư pháp thì Tòa án là cơ
quan thực hiện quyền tư pháp chủ yếu. Tòa án thực hiện thẩm quyền của
mình trong việc xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và các việc khác
theo quy định của pháp luật để bảo vệ pháp luật và đảm bảo công bằng xã hội.
Trong các Tòa án chỉ có Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp
tỉnh là có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự. Do vậy, việc phân
định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa Tòa án các cấp được thực hiện giữa Tòa
án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, các giáo trình về luật tố tụng dân sự của
các cơ sở đào tạo luật cũng chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án. Tuy nhiên, về lý luận thì
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự không thể thuộc về Toà án cấp
cao nhất trong hệ thống tổ chức Toà án, bởi vì như vậy sẽ tước đi của đương
sự quyền kháng cáo phúc thẩm và quyền khiếu nại theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm.
Qua nghiên cứu lý luận và xuất phát từ cách thức tổ chức Toà án của
Việt Nam có thể định nghĩa về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự
theo cấp Toà án như sau: “ Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của
Tòa án theo cấp là quyền của một cấp Tòa án cụ thể, cấp tỉnh hoặc cấp
huyện, trong việc xem xét thụ lý giải quyết các vụ án dân sự và quyết định giải
quyết các vụ án đó theo thủ tục tố tụng dân sự sơ thẩm, được xác định trên cơ
sở tính chất của vụ án dân sự, tổ chức hoạt động và khả năng giải quyết tranh
chấp của các cấp Tòa án”.
1.1.2. Đặc điểm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo
cấp Tòa án
Thứ nhất: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà
án là thẩm quyền của Toà án lần đầu tiên xem xét giải quyết các vụ án dân sự

12
căn cứ vào tính chất đơn giản hay phức tạp của vụ án dân sự, tổ chức hoạt

động và điều kiện giải quyết tranh chấp của các cấp Tòa án hoặc các dấu hiệu
khác mà pháp luật có quy định.
Đây là đặc điểm phân biệt thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự
theo cấp Toà án với thẩm quyền của Toà án theo loại việc được xác định dựa
trên dấu hiệu về tính chất của quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền sơ
thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định trên các dấu hiệu về nơi
cư trú, nơi có trụ sở của một trong các bên đương sự, nơi có bất động sản
hoặc nơi phát sinh sự kiện hoặc các dấu hiệu khác mà pháp luật có quy định.
Thứ hai: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án
là loại thẩm quyền được xác định dựa trên cấp Toà án, theo đó có thể xác định
một cấp Toà án nào đó có quyền xem xét giải quyết vụ án dân sự và quyền
hạn ra các quyết định khi giải quyết các vụ án đó. Đặc điểm này cho phép
phân biệt với thẩm quyền sơ thẩm của Toà án theo loại việc và theo lãnh thổ.
Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Toà án theo loại việc chỉ giúp xác định được
vụ việc có thuộc thẩm giải quyết của Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự hay
không, trên cơ sở đó phân định được những việc thuộc thẩm quyền của Toà
án và các cơ quan Nhà nước, các tổ chức khác. Còn thẩm quyền sơ thẩm dân
sự của Toà án theo lãnh thổ là loại thẩm quyền mà dựa vào đó có thể xác định
một cách chính xác Toà án cụ thể nào sẽ có quyền xem xét và ra các quyết
định để giải quyết các vụ việc.
Thứ ba: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án
được xác định dựa trên thẩm quyền của Toà án theo loại việc. Xét trong quá
trình xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Toà án thì thẩm quyền xét xử
sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án là hệ quả của việc xác định thẩm
quyền của Toà án theo loại việc và là cơ sở để xác định thẩm quyền sơ thẩm
dân sự của Toà án theo lãnh thổ.

13
Thứ tư: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án
được xác định không thuộc về Toà án cấp cao nhất trong hệ thống tổ chức

Toà án, nhằm đảm bảo quyền tiếp cận công lý, quyền kháng cáo phúc thẩm và
quyền khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của đương sự.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ
án dân sự theo cấp Toà án
Việc xây dựng hợp lý các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các
vụ án dân sự theo cấp Toà án sẽ là nền tảng cho việc xác định thẩm quyền sơ
thẩm của Tòa án theo lãnh thổ được nhanh chóng, đúng pháp luật. Tránh được
sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa giữa Tòa án cấp trên và
Tòa án cấp dưới. Ngoài ra, nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án
dân sự, đảm bảo sự phối hợp giữa Tòa án và cơ quan thi hành án.
Còn đối với đương sự thì việc Tòa án xác định đúng thẩm quyền xét xử
sơ thẩm theo cấp Toà án sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự có thể
tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp của mình trước Tòa án. Với sự phân
định rõ thẩm quyền giữa Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện sẽ tạo điều kiện
cho các đương sự xác định đúng Tòa án để gửi đơn, tránh tình trạng gửi nhầm
đơn đến Tòa án không có thẩm quyền giải quyết…gây mất thời gian và những
tổn thất không đáng có. Ngoài ra, nếu tình trạng gửi nhầm đơn xảy ra, thì
thông qua việc xác định thẩm quyền của mình, Tòa án nhận đơn có thể mau
chóng, kịp thời chuyển đơn khởi kiện tới Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp
Toà án được xây dựng là cơ sở pháp lý để tránh việc đương sự lạm dụng
quyền khởi kiện để cùng một lúc khởi kiện ở nhiều cấp Tòa án khác nhau gây
lãng phí thời gian giải quyết của Tòa án.


14
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Tòa án
Việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án
theo cấp phải luôn đảm bảo cho hệ thống Tòa án hoạt động một cách có hiệu

quả, nhịp nhàng, không chồng chéo lên nhau khi thực hiện nhiệm vụ của
mình. Đồng thời tạo sự thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng từ đó góp
phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì
vậy, việc xây dựng các quy định của pháp luật về vấn đề này phải dựa trên
những tiêu chí nhất định như sau:
- Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án
theo cấp phải phù hợp với đường lối của Đảng về hoạt động tư pháp
Hiện nay, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế- xã hội cùng
với sự hội nhập toàn cầu, thì đường lối của Đảng về hoạt động tư pháp có vai
trò quan trọng hơn bao giờ hết. Đường lối của Đảng chính là nền tảng, là “kim
chỉ nam” để sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật tố tụng dân sự nói chung và
các quy định về thẩm quyền của Tòa án theo cấp nói riêng. Để nhanh chóng
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
tạo thuận lợi cho nhân dân thì chủ trương hiện nay là cần phải mở rộng thẩm
quyền sơ thẩm cho Toà án nhân dân cấp huyện, tạo điều kiện cho Toà án cấp
tỉnh có thể tập trung nguồn lực vào công tác xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm.
- Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án
theo cấp phải căn cứ vào tính chất phức tạp của từng loại vụ việc
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế xã hội trong xu
hướng hội nhập toàn cầu như hiện nay thì các quan hệ dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động diễn ra ngày càng sôi động và phong
phú hơn. Điều này cũng đã gây không ít khó khăn cho ngành Tòa án vì số

15
lượng các vụ tranh chấp yêu cầu Tòa án thụ lý ngày càng lớn, nội dung các
tranh chấp ngày càng trở nên phức tạp. Vì vậy, việc căn cứ vào tính chất phức
tạp của vụ việc khi xây dựng các quy định về thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án
theo cấp là hết sức cần thiết và đúng đắn.
Khác với các vụ án hình sự, trong quá trình xem xét, giải quyết các vụ

việc dân sự, Tòa án chỉ có nhiệm vụ hoàn thiện hồ sơ, xác minh, thu thập
chứng cứ trong những trường hợp cần thiết. Để làm tốt nhiệm vụ này, thì Tòa
án cấp huyện sẽ luôn có điều kiện thuận lợi hơn Tòa án cấp tỉnh trong việc
trực tiếp xác minh tại địa phương, nhanh chóng hoàn thiện hồ sơ để giải quyết
tranh chấp. Đồng thời, việc giải quyết ở Tòa án cấp huyện cũng sẽ tạo điều
thuận lợi nhất cho đương sự tham gia vào quá trình tố tụng và góp phần tiết
kiệm được thời gian, công sức, chi phí đi lại của những người tham gia tố
tụng nói chung.
Qua đây, có thể thấy vụ việc dân sự được xét xử ở cấp cơ sở là thích
hợp nhất. Tuy nhiên, đối với những vụ án phức tạp, vấn đề giải quyết còn gặp
nhiều khó khăn thì việc quy định Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết là
hoàn toàn hợp lý. Với những lợi thế hơn hẳn Tòa án cấp huyện về trình độ
chuyên môn của đội ngũ cán bộ thẩm phán và các phương tiện kĩ thuật vật
chất phục vụ quá trình giải quyết vụ việc… Để đánh giá được tính phức tạp
của vụ việc sao cho đúng và bảo đảm cho việc xét xử công bằng, bảo vệ kịp
thời quyền lợi hợp pháp của các đương sự cần phải xem xét tính chất, phạm vi
ảnh hưởng của vụ án đối với xã hội.
- Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức hoạt động của hệ thống Tòa án, năng
lực giải quyết các tranh chấp của các cấp Tòa án và bảo đảm sự độc lập
khách quan trong việc giải quyết vụ án
Thật vậy, việc xây dựng các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
các vụ án dân sự theo cấp Toà án phải dựa trên điều kiện về cơ sở vật chất,

16
phương tiện kỹ thuật cũng như hiệu quả giải quyết vụ việc, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ thực tế và sự độc lập khách quan của đội ngũ cán bộ Tòa án. Ở
nước ta, Tòa án chính là cơ quan tư pháp chủ yếu giải quyết các tranh chấp
phát sinh, bảo đảm công bằng xã hội, quyền lợi của nhà nước và quyền, lợi
ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức luôn phải được bảo vệ. Trong hệ thống
Toà án thì chỉ có Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh là có thẩm

quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm dân sự.
Trong đó, Tòa án cấp huyện do là Tòa cơ sở nên sẽ thuận lợi hơn trong
việc trực tiếp xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ tranh chấp
ở địa phương…thuận tiện hơn cho sự tham gia tố tụng của đương sự; còn Tòa
án Tòa án cấp tỉnh vốn là Tòa cấp trên trực tiếp của Tòa án huyện nên có ưu thế
hơn hẳn về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ thẩm phán, về phương tiện
vật chất kĩ thuật phục vụ cho quá trình xác minh vụ án…Ngoài ra, nếu Toà án
cấp quận, huyện không bảo đảm tính khách quan để giải quyết vụ việc thì vụ
việc phải thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Từ thực tiễn, ta có thể thấy ở mỗi cấp Tòa án này đều có những ưu thế
riêng trong việc giải quyết các vụ tranh chấp. Chính xuất phát từ sự khác biệt
đó, đã đặt ra vấn đề cần phải xác định thẩm quyền ở từng cấp Tòa án để mỗi
Tòa án có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền xét xử và
năng lực thực tế của mình. Vì vậy, khi xây dựng các quy định về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án, nhà lập pháp phải căn cứ
vào các nguyên tắc tổ chức, hoạt động, năng lực thực tế của mỗi cấp Tòa án
và điều kiện bảo đảm tính khách quan trong việc giải quyết các tranh chấp để
có những quy định phù hợp. Đặc biệt cần phối hợp để xây dựng các quy định
nhằm phân định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa hai cấp Tòa án cấp tỉnh
và cấp huyện một cách hợp lý và hiệu quả nhất.

17
- Ngoài ra, phải đảm bảo thuận lợi cho việc tham gia tố tụng của đương
sự cũng như hiệu quả thực tế của việc bảo vệ quyền lợi cho họ khi xây dựng các
quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án
Đây chính là một trong tiêu chí quan trọng nhất, là cơ sở cho quá trình xây
dựng và hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự nói chung. Bởi pháp luật ra đời là để
nhằm ổn định xã hội, đảm bảo công bằng xã hội, góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Và quyền được “tham gia tố tụng dân sự” là một
trong những quyền cơ bản của công dân được hiến pháp và pháp luật Việt Nam

thừa nhận nên nó phải luôn luôn được tôn trọng. Vì vậy, khi xây dựng các quy
định về việc thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo cấp Toà án nói
riêng và pháp luật tố tụng dân sự nói chung, các nhà lập pháp luôn phải đặt lên
hàng đầu tiêu chí bảo đảm quyền và lợi ích cho các đương sự, có như thế thì mới
nâng cao được hiệu quả của hoạt động tố tụng nói chung.
1.3. Sơ lƣợc sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự theo cấp xét xử từ
năm 1945 đến nay
Cùng với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam,
pháp luật tố tụng dân sự cũng có một quá trình phát triển lâu dài và từng bước
đi vào hoàn thiện. Việc nghiên cứu các quy định pháp luật qua các thời kì lịch
sử về thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án theo cấp và theo lãnh thổ sẽ giúp chúng
ta có một cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn, trên cơ sở đó có thể rút ra những bài
học kinh nghiệm quý giá vào việc bổ sung, hoàn thiện pháp luật về vấn đề này
trong giai đoạn hiện nay.
Với sự kiện cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời là một “cái mốc đặc biệt” của quá trình phát triển của luật tố
tụng dân sự. Sự ra đời của Pháp lệnh đầu tiên về tố tụng dân sự được ra đời vào
năm 1989, nhất là khi BLTTDS năm 2004 được ban hành, đã đánh dấu một

18
bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật tố
tụng dân sự của nước ta trong giai đoạn mới. Trong phạm vi đề tài, ta sẽ đi vào
nghiên cứu quy định của pháp luật về vấn đề này theo ba giai đoạn lịch sử sau:
Từ 1945 đến 1989; từ năm 1989 đến năm 2004 và từ năm 2004 đến nay.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Việc nghiên cứu các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo cấp
trong giai đoạn này sẽ được tiến hành theo hai thời kì chính là từ năm 1945
đến 1960 và từ 1960 đến 1989.
- Thời kì từ năm 1945 đến năm 1960:

Để phù hợp với tình hình đất nước trong mỗi thời kì, sau khi ra đời nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề này. Điển
hình là Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về việc tổ chức Tòa án, ngạch thẩm
phán trong cả nước và Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 về việc ấn định thẩm
quyền của Tòa án và sự phân công giữa các thành viên của Tòa án.
Qua hai văn bản này ta thấy rằng: trong thời kì này, đã có những quy
định đề cập đến thẩm quyền giữa Tòa án các cấp, về tổ chức của Tòa án và
hoạt động giải quyết vụ việc dân sự đã được quy định tương đối gọn nhẹ. Hệ
thống Tòa án nước ta được tổ chức hệ thống từ trung ương đến địa phương và
được xét xử theo hai cấp là sơ cấp và đệ nhị cấp. Đặc biệt là kể từ Sắc lệnh số
85 ngày 22/5/1950 đã quy định đổi tên các cấp Tòa án sơ cấp, đệ nhị cấp và
thượng thẩm thành Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân huyện và Tòa án
nhân dân liên khu. Việc phân định thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án theo cấp ở
giai đoạn này đã bước đầu căn cứ vào tổ chức hệ thống Tòa án theo địa giới
hành chính, căn cứ vào tính chất vụ việc, vào giá trị của tài sản tranh chấp.
- Thời kì từ năm 1960 đến năm 1989:
Ở giai đoạn này đánh dấu với sự ra đời của Luật Tổ chức Toà án nhân
dân (LTCTAND) năm 1960, Tòa án nhân dân được chia làm ba cấp: TAND

19
huyện, TAND cấp tỉnh và TAND tối cao. Đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong
việc quy định thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án theo cấp, với việc quy định
thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện rộng hơn so với các quy định trong
các văn bản trước đây. Nhưng kể từ khi ban hành LTCTAND năm 1960 và
Tòa án nhân dân địa phương năm 1961 đã giao thẩm quyền cho Tòa án cấp
huyện giải quyết các việc dân sự và hôn nhân gia đình là đồng thời với việc
dần thu hẹp thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh. Với việc thu hẹp thẩm quyền sơ
thẩm dân sự của Tòa án cấp tỉnh cũng góp phần giảm lượng án xét xử phúc
thẩm đối với Tòa án tối cao, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án tối cao
xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm và có thời gian thực hiện công tác quản lý,

hướng dẫn về nghiệp vụ xét xử cho các Tòa án địa phương.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
Sự ra đời của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
(PLTTGQCVADS) vào ngày 7/12/1989 thì thẩm quyền giải quyết các vụ án
dân sự của Tòa án các cấp đã được quy định một cách cụ thể tại Điều 11 của
Pháp lệnh này:
- Về thẩm quyền của Tòa án cấp huyện:
+ Những việc tranh chấp về quyền sở hữu, hợp đồng, bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng hoặc những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật dân sự giữa công dân với nhau, giữa công dân với pháp
nhân, giữa pháp nhân với nhau trừ những việc thuộc thẩm quyền của cơ quan,
tổ chức khác;
+ Những việc về hôn nhân gia đình: Tòa án nhân dân huyện có thẩm
quyền giải quyết tất cả các loại việc dân sự có liên quan đến quan hệ hôn nhân
gia đình trừ những việc mà một trong các bên đương sự người nước ngoài
hoặc đang làm ăn sinh sống, định cư ở nước ngoài;
+ Những việc yêu cầu xác định công dân mất tích hoặc đã chết (trừ

×