TẠP CHÍ CĨNG THƯƠNG
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HỢP đồng dịch vụ pháp lý
CỦA LUẬT Sư
• VÕ ANH PHÚC - VŨ THỊ THANH HUYỀN
TÓM TẮT:
Pháp lý là một yếu tố đóng vai trị quan trọng giúp duy trì trật tự của một quốc gia, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá thể trong xã hội. Tuy nhiên, việc hiểu rõ pháp luật một
cách tường tận là điều khơng đơn giản, do đó dịch vụ pháp lý (DVPL) của luật sư ra đời. Thông
qua hoạt động cung cấp DVPL, luật sư đã đem đến những thông tin pháp luật hữu ích, giải đáp
những thắc mắc, giúp mọi người hiểu hơn về các trình tự, thủ tục cần thiết khi giải quyết công
việc một cách hiệu quả, hạn chế tốn kém thời gian, tiền bạc và cơng sức, góp phần rất lớn vào
cơng cuộc cải cách hành chính ở nước ta hiện nay. Bài viết phân tích những hạn chế nhất định
đặc biệt liên quan đến hợp đồng DVPL của luật sư. Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
hợp đồng DVPL của luật sư.
Từ khóa: dịch vụ pháp lý, hợp đồng dịch vụ pháp lý, luật sư, pháp luật.
1. Hựp đồng dịch vụ pháp lý của luật sư
Hợp đồng DVPL là hình thức pháp lý của quan
hệ DVPL, có vai trị hết sức quan trọng đối với hoạt
động của luật sư khi tư vấn hay làm đại diện pháp lý
cho một khách hàng, bằng việc thực hiện ký kết với
khách hàng một thỏa thuận nhằm thống nhát các
công việc phải làm, dựa trên yêu cầu của khách
hàng và phù hợp với quy định của pháp luật.
Căn cứ Điều 513 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện cơng
việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ
phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”.
Bên cạnh đó, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch
vụ theo thỏa thuận. Khi giao kết hợp đồng, nếu
khơng có thỏa thuận về giá dịch vụ, phương pháp
8
SỐ 6 - Tháng 4/2022
xác định giá dịch vụ và không có bất kỳ chỉ dẫn nào
khác về giá dịch vụ thì giá dịch vụ được xác định
căn cứ vào giá thị trường của dịch vụ cùng loại tại
thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng.
Nhìn chung hiện nay chưa có quy định chi tiết về
hợp đồng DVPL mà chỉ quy định hình thức và nội
dung của hợp đồng DVPL tại Điều 26 Luật Luật sư
năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012 (gọi tắt
là Luật Luật sư).
Việc thực hiện DVPL của luật sư được quy định
như sau: Luật sư thực hiện DVPL theo hợp đồng
DVPL hoặc theo phiếu thỏa thuận thực hiện DVPL,
trừ trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu
của cơ quan tiến hành tố tụng và luật sư hành nghề
với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng cho cơ
quan, tổ chức (Tại Điều 5 Thông tư số 17/2011/TT-
LUẬT
BTP hướng dẫn quy định của luật sư, Nghị định
hướng dẫn Luật Luật sư về tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư do Bộ Tưpháp ban hành).
Từ những phân tích trên, chúng tơi khái qt
khái niệm Hợp đồng DVPL như sau:
“HỢp đồng DVPL là một loại hợp đồng thuộc
ngành dịch vụ nghề nghiệp, theo đó bên luật sư
cung cap DVPL cho bên thuê luật sư, còn bên thuê
luật sưphải trả tiền thù lao theo thỏa thuận”.
Các chủ thể có thể cung ứng DVPL: tổ chức
hành nghề luật sư, luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân, văn phòng Thừa phát lại, Tổ chức trọng tài
thương mại. Một bên cung câp một hoặc nhiều
DVPL cho bên thuê dịch vụ để nhận thù lao, cịn
bên sử dụng DVPL có nghĩa vụ thanh toán thù lao
theo thỏa thuận.
2. vấh đề liên quan đến hựp đồng DVPL của
luật SƯ
Quan hệ luật sư với khách hàng dựa trên nền
tảng hợp đồng là quan hệ dân sự, chịu sự điều chỉnh
của pháp luật dân sự. Đó là quan hệ bình đẳng, thỏa
thuận giữa bên cung cấp DVPL và bên sử dụng
DVPL. Hiện nay, có nhiều vân đề về liên quan tới
hợp đồng DVPL mà nguyên nhân của tranh luận
chủ yếu xuất phát từ 2 nội dung, đó là: Nội dung
hợp đồng DVPL và Thù lao của Luật sư.
2.1. Nội dung hợp đồngDVPL
Bản chất của Hợp đồng DVPL là sự thỏa thuận
giữa luật sư và khách hàng, vì vậy dễ gây ra những
tranh chấp khi khơng giải thích, hoặc khơng ghi đầy
đủ trách nhiệm trong hợp đồng. Thực tế có một số
khách hàng nhầm tưởng rằng đã thuê luật sư (ký
hợp đồng DVPL) thì luật sư sẽ có trách nhiệm bảo
vệ quyền lợi của mình cho tới khi mình đạt được kết
quả mong muốn hay tới khi mình khơng mn kiện
nữa. Nhưng thực tế, luật sư chỉ bảo vệ trong phạm
vi hợp đồng đã ký và sẽ kết thúc khi hết vụ kiện đó
bất kể do tòa án giải quyết xong hay do nguyên đơn
rút đơn kiện. Cho nên, khách hàng đã rút đơn kiện,
sau đó kiện lại thì khơng bắt buộc luật sư phải bảo
vệ tiếp theo hợp đồng cũ đã ký trước đó.
Luật sư phải thông báo cho khách hàng về
quyền, nghĩa vụ, cũng như trách nhiệm nghề
nghiệp của luật sư trong việc thực hiện DVPL cho
khách hàng (theo Khoản 2, Điều 24 Luật Luật sư
năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012). Tuy nhiên,
luật sư không thể cam kết trước kết quả đơi với vụ
việc vì sẽ quy phạm đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư Việt Nam (tại Quy tắc 9. Bộ quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam
quy định những việc luật sư không được làm trong
quan hệ với khách hàng là hứa hẹn, cam kết bảo
đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài
khả năng, điều kiện thực hiện của luật sư). Do vậy,
trước khi tư vấn khách hàng, luật sư cần tư vân, giải
thích cho khách hàng biết về quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của họ trong quan hệ với luật sư; về
tính hợp pháp trong yêu cầu của khách hàng, những
khó khăn, thuận lợi có thể lường trước được trong
việc thực hiện DVPL; quyền khiếu nại và thủ tục
giải quyết khiếu nại của khách hàng đối với luật sư.
Pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
DVPL còn nhiều hạn chế, bất cập, trong việc quy
định các điều kiện về đối tượng hợp đồng DVPL;
về năng lực hành vi dân sự của người ký kết; về
đảm bảo nguyên tắc giao kết; về tính hợp pháp của
mục đích và nội dung hợp đồng DVPL; quy định về
các biện pháp chế tài chưa thực sự khoa học và phù
hợp với vi phạm hợp đồng DVPL vấn đề thỏa thuận
để áp dụng trong hợp đồng DVPL, loại chế tài có
thể thỏa thuận áp dụng (thuộc hệ thống chế tài dân
sự hay chế tài thương mại), cách thức áp dụng chế
tài, đặc biệt là tính tốn thiệt hại vật chất, vấn đề
xác định tội danh thể hiện qua hành vi hành nghề
cung ứng DVPL... chưa được làm rõ.
Bên cạnh đó, cơng tác quản lý nhà nước và giải
quyết tranh chấp về hợp đồng DVPL chưa đạt hiệu
quả như chưa hướng dẫn đầy đủ những nội dung
chính của hợp đồng DVPL về những quy định về
thời điểm cung cấp thông tin; yêu cầu đối với thơng
tin được cung cấp (chính xác, đầy đủ và trung thực);
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng DVPL (sẽ rơi
vào trường hợp vô hiệu do vi phạm nghĩa vụ cung
cấp thông tin). Yêu cầu đôi với thực hiện dịch vụ tư
vấn gồm chính xác, đầy đủ và hiểu được; yêu cầu
đối với dịch vụ bào chữa gồm đúng pháp luật, đầy
đủ và nhiệt tình, trung thực vì lợi ích của khách
hàng; u cầu đối với dịch vụ soạn thảo điều lệ,
hợp đồng và văn bản khác phải đúng về hình thức,
thể thức và đáp ứng mục đích sử dụng đối với hợp
đồng DVPL giữa luật sư với khách hàng.
2.2. Thù lao của luật sư
Theo quy định tại Điều 5 Thông tư số
17/2011/TT-BTP, đối với vụ, việc có mức thù lao từ
SỐ 6 - Tháng 4/2022
9
TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG
200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) trở lên, tổ chức
hành nghề luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư
cách cá nhân phải ký kết hợp đồng DVPL bằng văn
bản. Khi thanh lý hợp đồng DVPL, tổ chức hành
nghề luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân phải lập hóa đơn giao cho khách hàng (Điều
15 của Nghị định số 51/2010/NĐ-CP). Nhưng trên
thực tế đối với vụ, việc có mức thù lao 200.000
đồng (hai trăm ngàn đồng) nếu như khách hàng yêu
cầu Luật Tổ chức hành nghề luật sư hoặc luật sư
hành nghề với tư cách cá nhân thì thủ tục này khá
phức tạp, tôn thời gian.
Theo quy định tại Điều 56 Luật Luật sư, mức
thù lao được thỏa thuận trong hỢp đồng DVPL.
Đốì với vụ án hình sự mà luật sư tham gia tơ' tụng
thì mức thù lao khơng được vượt q mức trần thù
lao do Chính phủ quy định. Từ quy định trên hiểu
rằng đốì với thù lao trong vụ án hình sự thì các bên
được tự do thỏa thuận, nhưng phải nằm trong mức
trần mà Chính phủ quy định, khơng giơng với thù
lao trong các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình,
đất đai,... thì quyền tự do thỏa thuận của các bên
không bị giới hạn.
Việc quy định mức trần thù lao của luật sư trong
vụ án hình sự vừa có những ưu điểm và những hạn
chế nhất định:
Thứ nhất, đa sô' các luật sư cho rằng không nên
đưa ra mức trần thù lao vì hoạt động nghề nghiệp
của luật sư là lao động trí óc, cho nên việc đóng
khung mức trần như vậy là mang tính chủ quan
bởi. Theo các luật sư, mọi thước đo đều khơng
chính xác, có nhũng công việc đôi với khách hàng
này là đơn giản nhưng đô'i với khách hàng khác là
rất quan trọng. Một giờ làm việc với khách hàng
này đơi khi tiêu tơ'n ít “chất xám” hơn so với
khách hàng khác mà chỉ bản thân luật sư và khách
hàng đó mới biết rõ.
Thứ hai, khách hàng là người trực tiếp thanh
tốn chi phí cho luật sư, sự giới hạn thù lao cũng
chính là gián tiếp giới hạn quyền định đoạt tài sản
của họ. Trong một sơ' vụ việc có độ phức tạp cao,
địi hỏi luật sư phải có nhiều kinh nghiệm và tư duy
pháp lý sâu sắc, khách hàng tin tưởng và muốn chi
trả khoản thù lao xứng đáng để khuyến khích luật
sư nhưng vẫn bị ràng buộc bởi mức trần, cho dù đó
là sự tự nguyện của khách hàng nhưng cũng không
thể ghi nhận công khai trong hợp đồng DVPL.
10
SỐ6-Tháng 4/2022
Tuy nhiên, xét về mặt khoa học pháp lý, việc
ban hành mức trần đơ'i với thù lao của luật sư trong
vụ án hình sự là cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho
người dân, người yếu thế, tránh trường hợp bị “chặt
chém” không đáng có vì tâm lý của người dân khi
tìm đến luật sư khi đó là để tìm sự hỗ trợ, cảm thơng
hay chỗ dựa vững chắc trong suốt q trình tô' tụng.
Với mức giá trần này, Nhà nước hướng đến mục
tiêu đảm bảo khách hàng của luật sư không bị các
luật sư, vốn rất hiểu biết pháp luật, lợi dụng tình thê'
của họ để lấy thù lao quá mức so với công lao thực
tế. Khi đã tạo được một khung giá ở mức độ nằm
trong khả năng kinh tê' của mặt bằng chung xã hội,
việc khách hàng sử dụng DVPL của luật sư sẽ
nhiều hơn, cơ hội của các bị can, bị cáo được sự
giúp đỡ, bào chữa của các luật sư sẽ tăng cao,
quyền lợi hợp pháp của tổ chức cá nhân được đảm
bảo, Nhà nước cũng đảm bảo về trật tự trong quản
lý xã hội trên mọi lĩnh vực.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hựp đồng
DVPL của luật SƯ
Trước tiên, để khắc phục những tranh chấp liên
quan đến hợp đồng DVPL, các tổ chức hành nghề
luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân
cần thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
Cần cân nhắc đến năng lực, khả năng đảm đương
công việc và uy tín, giải thích cho khách hàng rõ về
những quyền và nghĩa vụ của họ khi yêu cầu luật sư
cung cấp DVPL trước khi nhận vụ, việc với khách
hàng. Điều này giúp khách hàng có nhận thức đúng
về vai trị của luật sư, tránh cho khách hàng có cái
nhìn lệch lạc về vai trị của luật sừ đê họ có nhận
thức đúng đắn rằng luật sư là người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Trước khi ký
kết hợp đồng DVPL với khách hàng, cần tư vấn một
cách kỹ lưỡng, những điều khoản trong hợp đồng
để khách hàng không bị nhầm lẫn.
Bên cạnh việc xác định trách nhiệm của luật sư,
Nhà nước cần thiết phải tạo ra một môi trường pháp
lý thuận lợi và đảm bảo trên thực tê' luật sư đã thực
hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ. Và bằng cách
nghiên cứu hoàn thiện ttách nhiệm nghề nghiệp,
quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp để luật sư thực
hiện tốt các DVPL của mình, cần có những công
tác quản lý, kiểm tra giám sát các tổ chức hành
nghề luật sư như việc ban hành và giám sát việc
tuân thủ các Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
LUẬT
nghiệp của luật sư, giải quyết tranh chấp liên quan
tới hợp đồng DVPL. cần tạo ra một hệ thống quản
lý chặt chẽ, thường xuyên để không ngừng nâng
cao chất lượng cung cấp DVPL, đảm bảo tính trung
thực trong các bản hợp đồng DVPL, bảo vệ lợi ích
của khách hàng.
Sau đó, cần xem xét đến giá trị pháp lý, tính
hiệu lực của hợp đồng được soạn thảo đảm bảo
hiệu lực, tư vân pháp luật chính xác, đầy đủ và dễ
hiểu; nội dung thực sự của HĐDVPL (cần giải
thích và ghi cụ thể chi tiết những vấn đề thỏa thuận
trong HĐDVPL), làm cho bên sử dụng DVPL hiểu
được đúng và đầy đủ về nội dung của hợp đồng
đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của các bên và vấn
đề giải quyết tranh chấp nếu có tranh chấp xảy ra.
Bên cạnh đó, pháp luật cần bổ sung quy định về
thời điểm cung cấp thông tin, như: yêu cầu đối với
thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ và
trung thực.
Hồn thiện các quy định về thù lao DVPL để
thực hiện quyền tự do hợp đồng trong việc tự định
đoạt về thù lao DVPL theo quy luật cạnh tranh lành
mạnh, đảm bảo các tổ chức hành nghề DVPL thu
được lợi nhuận hoặc thù lao đủ chi phí, nhất thiết
cần sửa đổi, bổ sung quy định về thù lao DVPL về
những vấn đề sau: Bãi bỏ quy định về mức trần thù
lao của luật sư khi luật sư tham gia tố tụng vụ án
hình sự theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố
tụng; Bãi bỏ quy định về mức trần thù lao của luật
sư khi luật sư tham gia tố tụng vụ án hình sự theo
yêu cầu của khách hàng (hiện nay quy định không
quá 350.000/giờ), đồng thời bổ sung quy định về
quyền tự do thỏa thuận mức thù lao đôi với loại
DVPL này.
Do đó, cần bãi bỏ hoặc bổ sung một số quy định
liên quan đến hợp đồng DVPL để phát triển DVPL
của luật sư theo hướng thương mại tạo ra một môi
trường cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức hành
nghề luật sư với nhau, nếu như mức thù lao là do sự
thỏa thuận giữa các tổ chức hành nghề luật sư và
khách hàng thì khi đó nếu khơng thỏa thuận được
thì khách hàng có thể tìm kiếm một tổ chức hành
nghề khác. Từ đó, tự mơi trường cạnh tranh sẽ đào
thải những vấn đề về chặt chém hoặc lấn áp khách
hàng đưa ra phí dịch vụ cao, bởi nếu phải lựa chọn
giữa hai tổ chức hành nghề luật sư có uy tín và năng
lực như nhau thì điều tiếp theo khách hàng quan
tâm đó là thù lao luật sư và chi phí khác.
Hơn nữa, giảm bớt quy định về mức trần thù lao
trong vụ án hình sự cịn giảm bớt được kiểm sốt tài
chính của tổ chức hành nghề luật sư, Nhà nước
kiểm sốt tài chính của tổ chức hành nghề luật sư
thông qua việc thu thuế mà không cần phải phê
duyệt mức thù lao cao nhát đối với từng loại việc.
Còn đối với ý kiến cho rằng, việc ban hành mức
trần đối với thù lao của luật sư trong vụ ấn hình sự
là cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho người dân,
người yếu thế, tránh trường hợp bị “chặt chém”
khơng đáng có vì tâm lý của người dân khi tìm đến
luật sư là để tìm sự hỗ trỢ, cảm thông hay chỗ dựa
vững chắc trong suốt quá trình tố tụng. Với mức giá
trần này, Nhà nước hướng đến mục tiêu đảm bảo
khách hàng của luật sư không bị các luật sư, vốn rất
hiểu biết pháp luật, lợi dụng tình thế của họ để lấy
thù lao quá mức so với công lao thực tế là một ý
kiến chưa đủ thuyết phục bởi đối với những người
nghèo, đối tượng chính sách thì đã được hưởng trợ
giúp pháp lý của Nhà nước và của các tổ chức xã
hội, trong đó có sự tham gia của luật sư, mà các vấn
đề này đã được Luật TrỢ giúp pháp lý năm 2017
quy định một cách cụ thể. Do vậy, không nên quy
định mức trần thù lao, vì rất khó và có phần không
thực tế ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
Quốc hội (2015). Bộ luật Dân sự năm 2015.
2.
Quốc hội (2020). Luật Doanh nghiệp năm 2020.
3.
Quốc hội (2006, 2012). Luật Luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012.
4. Chính phủ (2011). Quyết định số1072 số1072/QĐ-TTg ngày 05/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến
lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020.
SÔ'6-Tháng 4/2022
1 1
TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG
5. Bộ Tưpháp (2011). Thơng tư số 17/2011/TT-BTP hướng dẫn quy định của luật sư, Nghị định hướng dẫn Luật Luật
sư về tố chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư do Bộ Tưpháp ban hành.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020). Công văn sô'4750/BHĐT-ĐKKD của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 23/7/2020 về
đăng ký kinh doanh ngành nghề tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý.
7.
Nguyễn Văn Tuân (2019). Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển. NXB Lao động.
8.
Hoàng Thị Vịnh (2012). Khái niệm dịch vụ pháp lý. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1210.
Ngày nhận bài: 15/1/2022
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 15/2/2022
Ngày châp nhận đăng bài: 25/2/2022
Thông tin tác giả:
l .ThS.VÕ ANH PHÚC
2 . ThS. VŨ THỊ THANH HUYEN
Khoa Quản trị - Kinh tế Quốc tế
Trường Đại học Lạc Hồng
SOLUTIONS TO IMPROVE THE EFFICIENCY
OF THE CONTRACT OF LEGAL AID SERVICES PROVIDED
BY LAWYERS
• Master. VO ANH PHUC’
• Master, vu TH! THANH HUYEN’
’Faculty of Administration and International Economics
Lac Hong University
ABSTRACT:
Legality is an important factor that helps maintain order in a country and protects the
legitimate rights and interests of each individual in society. However, it is not easy to understand
the law thoroughly, which is also the reason why lawyers provide legal aid services. In legal aid
services, lawyers provide useful legal information, answer questions, and help people better
understand the necessary order and procedures when solving legal problems to save time, money
and effort, greatly contributing to the current administrative reform in Vietnam. This paper
examines some shortcomings of the contract of legal aid services provided by lawyers, thereby
proposing some solutions to improve the efficiency of the contract of legal aid services.
Keywords: legal aid services, legal aid service contract, lawyer, law.
12
SỐ 6 - Tháng 4/2022