Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TÂY TIẾN ( QUANG DŨNG )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.65 KB, 21 trang )

TÂY TIẾN
-

Quang Dũng –

I.GIỚI THIỆU:
1.Tác giả:
Quang Dũng ( 1921 – 1988 ) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là một nhà
thơ mang hồn thơ phóng khống, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Năm 2001 ông được tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm tiêu biểu: Mây đầu ô, thơ văn Quang Dũng, truyện ngắn mùa hoa gạo…
“ Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách
nghệ thuật của nhà thơ.
2.Tác phẩm:
a.Hoàn cảnh sang tác:
Tây Tiến là một đơn vị quân đội, được thành lập đầu năm 1947, với phần đông là thanh
niên Hà Nội, trong đó đa số là học sinh, sinh viên. Binh đồn Tây Tiến có nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp
ở Thượng Lào, cũng như miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây
Tiến khá rộng, hoàn cảnh chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến rất gian khổ. Tuy vậy, nhưng
các chiến sĩ Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn, anh hùng. Quang dung là đại đội
trưởng ở đó từ đầu 1947, đến cuối 1948 ông chuyển sang đơn vị khác. Khi nhà thơ về dự
Đại hội toàn quân liên khu III, tại làng Phù Lưu Chanh, Quang Dũng sáng tác bài thơ: “
Nhớ Tây Tiến”. Đến năm 1975 in lại tác giả đổi tên là “ Tây Tiến”, in trong tập “ Mây
đầu ô”.
b. Ý nghĩa nhan đề:
Tây Tiến là tiến về phía Tây so với Hà Nội. Nhan đề Tây Tiến khiến cho bài thơ
mang âm hưởng của một khúc quân hành. Tên bài thơ trùng với tên binh đồn, nên đọc
lên tạo khơng khí của một cuộc hành qn đầy dũng khí. Nhan đề cịn là tiếng gọi thường
trực trong lịng những người lính Tây Tiến.


c. Chủ đề:
Bài thơ Tây Tiến miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên miền Tây Bắc và nét đẹp
hào hoa, dũng cảm, bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.
e. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ chính là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội,
về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt là khi bài thơ khắc họa thành cơng
hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng: Lãng mạn là cái tơi
tràn đầy tình cảm, là sử dụng các yếu tố cường điệu, đối lập để tô đậm cái phi thường.


Thiên nhiên và con người Tây Bắc thật huyền bí và thơ mộng. Ngồi ra chất lãng mạn
cịn là tinh thần xả thân vì nước. Bi tráng là vừa đau thương, vừa hùng tráng. Tức là
không hề che giấu sự thật đau thương, nhưng bi mà không lụy, bi mà rất hào hùng.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:
1. Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ,
hoang sơ, hiểm trở ( Đoạn 1: 14 câu đầu ):
a.Hai câu đầu: Mở đầu bài thơ là lời thơ mang âm điệu da diết:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Câu cảm thán kết hợp với điệp từ “nhớ”, kết hợp với vần “ơi” đã gieo vào lòng người
đọc một sức gợi cảm to lớn. Bởi câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của một người khơng muốn
rời xa nơi mà mình đã từng gắn bó. Nỗi nhớ dâng trào bật thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi!”.
Từ láy “Chơi vơi” dung rất sáng tạo, đã hình tượng hóa, cụ thể hóa nỗi nhớ. Đó là nỗi
nhớ da diết, bồng bềnh, khắc khoải, tràn ngập cả khơng gian và thời gian. Nó như ám ảnh
và hiện hữu trong tâm hồn Quang Dũng.
b.Sáu câu tiếp theo là nỗi nhớ về những chặng đường hành quân gian khổ:
Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu rộng lớn và thời tiết khắc nghiệt:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Tác giả vận dụng bút pháp lãng mạn bằng cách tô đậm cái phi thường để diễn tả

thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại. Trước hết tác giả liệt kê những vùng đất lạ “Sài
Khao, Mường Lát,Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu”. Đó là những vùng đất hẻo lánh,
nằm ở phía Tây biên giới Việt – Lào nơi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng hành quân.
Thời tiết Tây Bắc thật là khắc nghiệt, thể hiện ở cụm từ “sương lấp”. Sương lấp là
sương mù dày đặc, che lấp cả con đường hành quân, sương đêm gây ra nhiều bệnh tật
làm cho người chiến sĩ mỏi mệt “Đoàn quân mỏi”, đây là hình ảnh bi thương có thực,
nhưng mà không bi lụy, bi mà hào hùng, lãng mạn, bởi vì họ mệt mỏi nhưng họ vẫn trở
về với chiến cơng lấp lánh trong đêm sương và vịng hoa chiến thắng được dệt bằng
sương đêm.
Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu hiểm trở:
Với những con dốc:
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
Câu thơ thật là gân guốc với năm thanh trắc trong một dòng thơ bảy chữ, cộng với
điệp từ “dốc” và từ láy giàu giá trị tạo hình “ khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, nhằm diễn tả


dốc lên thì ghập ghềnh, quanh co, dốc xuống thì sâu thăm thẳm. Dù hành quân lên dốc
hay xuống dốc thì người chiến sĩ đều mệt và thở gấp như nhịp đọc của câu thơ.
Địa bàn chiến đấu hiểm trở bởi núi đèo:
“ Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và đặt từ láy “heo hút” lên đầu câu. “ Heo hút
cồn mây” gợi sự cao vút, vắng vẻ của núi đèo. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây
nổi thành cồn gọi là “cồn mây”. Người chiến sĩ hành quân lên ngọn núi cao, họ tưởng
chừng như đang đi trong mây nên mũi súng chạm trời. Cuộc hành quân thật gian nan, lên
đèo, xuống dốc nhưng họ khơng hề có ý nghĩ bi quan, mà họ lại tỏ ra hào hùng, lãng mạn,
thể hiện ở nghệ thuật nhân hóa “ súng ngửi trời”. Điều này thể hiện sự hồn nhiên, tinh
nghịch của người lính trước độ cao thử thách của núi đèo:
“ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ như bẻ làm đôi: “ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, với điệp từ “ngàn

thước” và đối lên/xuống nhằm diễn tả hai sườn núi cao, thẳng đứng như thách thức, như
cản trở con đường hành quân của người lính Tây Tiến. Họ hành quân lên cao lại xuống
thấp, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, núi cao sừng sững thế mà khi lên đỉnh núi, họ lại thở
phào nhẹ nhõm, thể hiện ở câu thơ toàn là thanh bằng: “ Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi”, họ phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn mưa núi, thấp thống họ nhìn thấy một vài
ngơi nhà sàn bồng bềnh trong biển nước.
c.Sáu câu cuối là nỗi nhớ về sự hy sinh của đồng đội và cuộc sống bình dị,
ấm áptình người của người dân Tây Bắc:
Trong kí ức về Tây Tiến có hình ảnh đồng đội hi sinh gợi ấn tượng sâu sắc trên chặng
đường hành quân gian khổ:
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ qn đời”
Hình ảnh bi thương, có thực “ Anh bạn dãi dầu không bước nữa”, bởi thiên nhiên
Tây Bắc thật là khắc nghiệt. Đó là thử thách đối với những chàng trai Hà Nội mới rời ghế
nhà trường, lên đường chiến đấu, với một lí tưởng cao đẹp. Cách gọi “anh bạn” nghe
thật gần gũi, thân thương và từ láy “dãi dầu” nghĩa là chịu đựng gian khổ, vất vả lâu
ngày. Cho nên trên đường hành quân, họ mệt mỏi, kiệt sức, họ không thể bước được nữa,
họ gục xuống trong tư thế đang bước đi “ gục lên súng mũ”, họ hi sinh trong tư thế thật
đẹp, thật hiên ngang. Cái chết của họ là cái chết về thể xác, khởi đầu cho sự bất tử về tinh
thần. Bằng nghệ thuật nói giảm, nói tránh“ bỏ quên đời”, nhà thơ đã diễn tả được cái chết
nhẹ nhàng, thầm lặng của người lính trên chặng đường hành quân gian khổ. Đồng thời
bộc lộ niềm tiếc thương vô hạn về sự hi sinh của đồng đội. Qua đó ngợi ca tinh thần chiến
đấu can trường của người chiến sĩ Tây Tiến. Họ hi sinh trong tư thế không bỏ cuộc, chết
mà “súng, mũ” vẫn bên mình.


Trong kí ức về Tây Tiến cịn ghê rợn qua những âm thanh hung dữ:
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Từ láy chỉ thời gian “ chiều chiều, đêm đêm”, dùng để chỉ thời gian lặp lại, có tính

chất thường xun, liên tục. Khi màn đêm bng xuống thì núi rừng Tây Bắc có những
âm thanh, hoạt động rất dữ dội. Đó là âm thanh của thác, của cọp beo thể hiện ở từ “ gầm
thét, trêu”.Những âm thanh này tạo thêm uy lực cho núi rừng Tây Bắc. Phải chăng tác
giả đã lấy ngoại cảnh của núi rửng miền Tây đầy nguy hiểm, để tơ đậm cái anh hùng của
đồn qn Tât Tiến?
Nhớ Tây Tiến cịn là nhớ về cuộc sống bình dị và ấm áp tình người của nhân dân Tây
Bắc. Khép lại đoạn thơ là hai câu thơ thể hiện cảnh tượng thật đầm ấm:
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi”
Từ cảm thán “nhớ ơi” và các cụm từ “cơm lên khói, thơm nếp xôi” đã kết thúc đoạn
thơ giúp người đọc liên tưởng: sau bao ngày hành quân lội suối, vượt đèo, họ dừng chân
bên một bản làng và quây quần bên nồi cơm nghi ngút khói và thơm nếp xơi. Câu thơ cịn
thể hiện tình qn dân cả nước.
*Sơ kết: Với những từ chỉ địa danh, những hình ảnh giàu chất tạo hình, những câu thơ
nhiều vần trắc, gối lên trên những câu thơ nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ. Đoạn thơ
mở đầu đã nêu được cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về
đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt, đoạn thơ đã khắc họa
thành công bức tranh thiên nhiên, núi rừng miền Tây, vừa hiểm trở, dữ dội, vừa hùng vĩ,
thơ mộng. Xuất hiện trong cảnh núi rừng hiểm trở là hình ảnh người lính Tây Tiến hiên
ngang, ln vững bước trên đường hành qn. Hình ảnh đó như hịa vào rừng núi bí
hiểm. Núi rừng càng hùng vĩ, đường hành quân càng khắc nghiệt, thì càng tơn lên chất
hào hùng, ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan của người chiến sĩ Tây Tiến.
2. Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền
Tây Bắc thơ mộng ( Đoạn 2 – 8 câu tiếp theo):
a. Bốn câu đầu thể hiện nỗi nhớ về những đêm liên hoan văn nghệ:
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Sau bao ngày hành quân vất vả, đoàn quân dừng lại ở một địa phương người Lào. Họ

tham dự một đêm liên hoan văn nghệ với đồng bào địa phương. Những cụm từ: “ Bừng
lên, kìa em, khèn lên, nhạc về”, thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng của người
lính Tây Tiến trong đêm văn nghệ bởi vì có đuốc hoa ( Đuốc hoa là một loại đuốc trong


đêm tân hơn), bởi vì nhân vật trung tâm của đêm văn nghệ là những cô gái nơi miền núi
rừng bất ngờ hiện ra với bộ trang phục truyền thống đẹp “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”, đã
làm rung động trái tim người chiến sĩ bởi sự thẹn thùng, tình tứ trong cử chỉ của những cơ
gái miền sơn cước:“Nàng e ấp” và trong vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ “man điệu”.
Tuy say sưa trong tiếng nhạc, điệu múa, nhưng người lính khơng qn nhiệm vụ thiêng
liêng của mình là tiến về phía trước, phối hợp với nước bạn Lào bảo vệ biên giới Việt –
Lào được thể hiện ở câu thơ “ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Đây là phát hiện độc đáo
của Quang Dũng về người lính xuất thân từ tầng lớp tri thức. Họ có tâm hồn hào hoa,
lãng mạn so với người lính xuất than từ tầng lớp nơng dân.
b. Bốn câu sau nhớ cảnh chia tay trên nền sông nước miền Tây Bắc thơ mộng:
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa.”
Bằng hàng loạt câu hỏi tu từ “ có thấy, có nhớ”, nhằm tái hiện lại giờ phút chia tay
bên dòng sông. Cảnh và người miền Tây Bắc đang hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ.
Thời gian chia tay là vào buổi chiều, khơng gian của dịng sơng là một màu trắng của
“chiều sương ấy”, hai bên bờ sông hoang vắng như thời tiền sử, chỉ phất phơ, xào xạc
trong gió những “hồn lau”. Nổi bật trên dịng sơng là sự mềm mại, uyển chuyển của các
cô gái trên chiếc thuyền độc mộc với những bông hoa rừng “đong đưa” làm duyên cùng
dòng nước lũ. Đoạn thơ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa.
*Sơ kết:Ngòi bút tài hoa, tinh tế của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, làm hiển hiện
trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và cái hồn của cảnh vật. Đoạn thơ
chỉ tám câu nhưng chất thơ và chất nhạc, chất họa hòa quyện với nhau đến mức mà khó
tách biệt. Thiên nhiên và con người có sự sóng đơi tạo nên hình ảnh thơ giàu chất trữ

tình. Bút pháp lãng mạn, tài hoa của tác giả đã khắc họa nên bức tranh đặc sắc về cảnh và
người miền Tây Bắc. Qua đó, ta thấy tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống của người
lính Tây Tiến.
3. Chân dung của người lính Tây Tiến ( Đoạn 3 – 8 câu tiếp theo):
Tác giả đã lựa chọn những nét có thực, tiêu biểu của người lính Tây Tiến. Đó là bi
mà khơng lụy, bi mà rất hào hùng, hào hùng mà không xơ cứng, hào hùng mà vô cùng
lãng mạn. Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài bi tráng về hình ảnh đồn qn Tây Tiến
bằng ngịi bút lãng mạn, được điểm tơ bằng tinh thần xả thân vì nước.
a. Hai câu thơ đầu miêu tả ngoại hình của người lính Tây Tiến:
“ Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm”
Thơ ca thời kháng chiến chống Pháp, khi viết về người lính, thường nói đến căn bệnh
sốt rét hiểm nghèo. Dưới ngòi bút của Quang Dũng, sự thật nghiệt ngã ấy được thể hiện


bằng hình ảnh “khơng mọc tóc”.Từ đó, người đọc liên tưởng đến người lính bị sốt rét
rừng rụng tóc, trọc đầu. Nhưng cũng có thể là hình ảnh của anh vệ quốc trọc đầu trong
buổi đầu kháng chiến, vì họ phải cạo trọc đầu để thuận tiện cho việc đánh giáp lá cà với
giặc. Hình ảnh “quân xanh màu lá” giúp người đọc liên tưởng đến nước da xanh xao vì
đói khát, bệnh tật, hay cũng có thể là màu xanh của lá ngụy trang để che mắt quân thù.
Hai hình ảnh trên dù hiểu theo nghĩa nào thì tác giả vẫn khẳng định họ “dữ oai hùm”.
Người lính vẫn giữ được sự oai phong của hổ nơi rừng thiêng, nước độc Tây Bắc, hình
ảnh bi mà rất hào hùng.
b.Hai câu thơ tiếp theo nói về tâm hồn của người lính Tây Tiến:
“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Nét oai hùng của đoàn qn Tây Tiến được thể hiện ở hình ảnh hốn dụ “mắt trừng”.
Mắt trừng là ánh mắt giận dữ khi nhìn kẻ thù. Ngồi ra mắt trừng cịn chỉ tư thế gìn giữ
biên cương và tinh thần trách nhiệm cao và họ nuôi giấc mộng tiêu diệt quân thù “ gửi
mộng qua biên giới”. Người chiến sĩ Tây Tiến, đêm đêm vẫn mơ về Hà Nội với “dáng

kiều thơm”. “Dáng kiều thơm” gợi vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha, thanh lịch của người thiếu
nữ Hà Thành. Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực mà tinh tế tâm trạng của những
người chiến sĩ xuất thân từ tầng lớp tri thức Hà Nội. Nếu họ xuất thân từ tầng lớp nơng
dân thì họ nhớ giếng nước, gốc đa ( “Đồng chí” của Chính Hữu).
c. Hai câu thơ tiếp theo thể hiện lí tưởng chiến đấu cao đẹp của người lính
Tây Tiến:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Bi thương là nét có thực khi nhớ về Tây Tiến. Nhưng nét bi ấy đã được tác giả nâng
lên thành nét hùng. Hình ảnh “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ” là trên đường hành quân,
người chiến sĩ nhìn thấy những nấm mồ của đồng đội nằm rải rác nơi rừng hoang biên
giới lạnh lẽo. Nhưng đó là cái chết bất tử cho Tổ quốc trường tồn, nên được thể hiện bằng
hàng loạt từ Hán Việt trang trọng “biên cương, mồ viễn xứ, chiến trường”. Mặt khác
người chiến sĩ không hề chùn bước khi thấy đồng đội của mình hi sinh. Bởi cái chết đối
với họ nhẹ tựa lông hồng “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ nguyện đem tuổi
thanh xuân mình hiến dâng cho Tổ quốc. Qua đó, ta có thể thấy bức tượng đài về những
người chiến sĩ bỗng trở nên sáng rực, oai phong đến lạ thường.
d. Hai câu cuối: Đoạn thơ khép lại với hình ảnh về sự hi sinh của người
lính Tây Tiếnhùng tráng, mang màu sắc cổ điển:
“ Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”


Sự thật bi thảm “ Áo bào thay chiếu anh về đất”, hình ảnh này giúp người đọc liên
tưởng đến người chiến sĩ Tây Tiến hy sinh trong manh chiếu che thân. Nhưng qua cái
nhìn của Quang Dũng, họ lại được khoác “áo bào”. Bởi Quang Dũng muốn tư thế ngã
xuống của người chiến sĩ hào hùng như những chiến binh năm xưa, nhằm ca ngợi sự hi
sinh cao đẹp của họ. Biện pháp tu từ nói giảm “anh về đất”, nhằm để chỉ cái chết của
người chiến sĩ thật là thanh thản vì họ đã hồn thành nhiệm vụ đối với Tổ quốc. Nghệ
thuật nhân hóa “ Sơng Mã gầm lên khúc độc hành”, nhằm diễn tả dịng sơng như đồng

cảm, nghiêng mình tấu lên khúc nhạc hồnh tráng “khúc độc hành” để tiễn đưa linh hồn
người chiến sĩ về với đất mẹ. Câu thơ giàu chất sử thi nhằm ca ngợi sự hi sinh của người
chiến sĩ, đồng thời cũng lí giải vì sao khi nhớ về Tây Tiến thì cảm xúc đầu tiên của tác giả
là nhớ về con sông Mã bằng tiếng gọi thân thương “sông Mã xa rồi”. Trong cái tiếng gầm
của sơng Mã, cịn có cả tiếng khóc cố nén sự tiếc thương vơ hạn đối với những người con
trung hiếu, dũng cảm, kiên cường của Tổ quốc đã mãi mãi ra đi. Đó là sự hi sinh thấm
đẫm tinh thần bi tráng.
*Sơ kết: Hình tượng người lính trong đoạn thơ được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn,
sử thi. Với giọng điệu trang trọng, cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Qua đó, đã khắc họa nên
bức tượng đài về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa.
Đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, kính cẩn và niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ
trước sự hi sinh thầm lặng, nhưng anh dũng của người lính Tây Tiến. Đoạn thơ nói riêng,
cũng như tồn bài thơ nói chung, đã góp phần làm phong phú thêm cho thơ ca viết về
hình tượng người lính trong văn học Việt Nam. Đây cũng là đoạn thơ tiêu biểu cho phong
cách thơ Quang Dũng: phóng khống, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
4. Lời thề của người lính Tây Tiến ( Đoạn 4 – 4 câu cuối):
“ Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
Câu thơ khẳng định “Tây Tiến người đi không hẹn ước”, nhằm khẳng định tinh thần
một đi không trở lại, nếu không lập được chiến công. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn
khắc họa hình ảnh ra đi của người lính khơng xác định thời gian trở về. Cả loạt từ: “ thăm
thẳm, không hẹn ước, chia phôi” thể hiện cuộc trường chinh nhiều gian khổ, mất mát,hi
sinh. Tuy vậy, nhưng người lính ra đi với quyết tâm dứt khốt sống chết cùng đồng đội và
gắn bó với miền Tây Bắc. Lời thề này đã thấm sâu vào trong tư tưởng và tình cảm của
đồn qn.
“ Ai lên Tây Tiến mùa xn ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Câu thơ khẳng định “ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” là lời thề sống đánh giặc, chết
cũng đánh giặc. Câu thơ này có sự tương đồng với câu thơ: “ Sống đánh giặc, thác cũng
đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh”, trong “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn

Đình Chiểu. Hai câu kết vang lên khỏe khoắn như một lời thề sắt son với Tổ quốc. Qua
đó, ta thấy lý tưởng của họ cao cả biết bao.


III. TỔNG KẾT:
Tây Tiến là một thi phẩm đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Với cảm hứng
lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành cơng hình tượng người lính
Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng
người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng, không chỉ gợi lên niềm tự
hào về tuổi trẻ Việt Nam anh hùng trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp, mà nó sẽ cịn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc bởi lí tưởng sống cao cả, sẵn
sang xả thân vì Tổ quốc.
VIỆT BẮC
-

Tố Hữu –

PHẦN MỘT: TÁC GIẢ
1.Vài nét về tiểu sử:
-Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê Thừa Thiên Huế.
-1938, được kết nạp vào Đảng cộng sản, từ đó sự nghiệp thơ ca gắn liền với sự nghiệp
cách mạng của ông. Tố Hữu từng từng giữ nhiều trọng trách trong bộ máy lãnh đạo của
Đảng và Chính phủ.
-Ơng được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 1996.
2. Đường cách mạng – đường thơ:
-Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn học cách mạng Việt Nam. Các chặng
đường thơ của Tố Hữu ln gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng
đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc. Đồng thời cũng
là những chặng đường thể hiện sự vận động trong quan điểm, tư tưởng và bản lĩnh nghệ
thuật của chính nhà thơ:

+Chặng đường đầu tiên với tập thơ “Từ ấy” (1937-1946). Đây là chặng đường đánh dấu
bước trưởng thành của người thanh niên yêu nước, quyết tâm đi theo ngọn cờ của Đảng.
+Chặng đường kháng chiến chống Pháp với tập thơ “Việt Bắc” (1946-1954). Đây là khúc
ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến.
+Chặng đường thứ ba với tập thơ “Gió lộng” (1955-1961). Cảm hứng dạt dào, suy ngẫm
về quá khứ, cảm xúc hân hoan về công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, nỗi
đau chia cắt và tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt.
+Chặng đường chống Mỹ với hai tập thơ “Ra trận” (1962-1971), “Máu và hoa” (19721977). Âm vang, khí thế quyết liệt, hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
và niềm vui toàn thắng.


+Chặng đường sau khi đất nước thống nhất với hai tập thơ “Một tiếng đờn” (1992), “Ta
với ta” ( 1999). Đánh dấu bước chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu, với nhiều cảm xúc,
chiêm nghiệm, suy tư.
3.Phong cách thơ Tố Hữu:
-Về nội dung: Thơ Tố Hữu mang đậm tính chất trữ tình – chính trị:
+Hồn thơ ln hướng đến cái ta chung, với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của
con người cách mạng của cả dân tộc.
+Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi: Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử - dân tộc.
Nổi bật trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh cộng đồng. Những tư tưởng, tình cảm và
vấn đề lớn lao, được nhà thơ thể hiện qua giọng thơ mang tính chất tâm tình, tự nhiên,
đằm thắm.
-Về nghệ thuật: Thơ Tố Hữu đậm tính dân tộc: Thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng
ngơn ngữ, cách nói dân gian và phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt.
PHẦN HAI: TÁC PHẨM “VIỆT BẮC”
( Trích )
I.GIỚI THIỆU:
1.Hồn cảnh sáng tác:
Việt Bắc trong những năm kháng chiến là cơ quan đầu não, là căn cứ địa cách mạng.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ – ne – vơ được kí kết, hịa bình được lập

lại, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền
núi về miền xi, trung ương Đảng và Chính Phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện
lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ này và được in trong tập “Việt Bắc”. Bài thơ gồm hai
phần: Đoạn trích sách giáo khoa thuộc phần đầu –Tái hiện những kỉ niệm cách mạng và
kháng chiến.
2.Chủ đề:
Qua việc tái hiện cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng, nhà thơ ca ngợi
tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của người Việt Bắc đối với cách mạng. Từ đó bài thơ vẽ
ra viễn cảnh tươi đẹp của đất nước hịa bình trong mối tình gắn bó thủy chung của miền
xi – miền ngược và lịng biết ơn sâu nặng đối với Đảng, với Bác Hồ của nhân dân ta.
3.Thể loại, kết cấu:
- Thể thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, phù hợp với khung cảnh chia tay.
- Kết cấu theo lối hát đối đáp giao duyên, nhằm diễn đạt tâm tình người đi – kẻ ở.
- Cặp đại từ nhân xưng “mình-ta”, trong ca dao dùng để thể hiện tình u đơi lứa. Cịn
trong “Việt Bắc” nhằm để thể hiện sự gần gũi, thân mật, gắn bó khơng thể tách rời, giữa
cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.


- Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là sự lưu luyến, nhớ nhung, được thể hiện ở điệp từ “nhớ”
và các từ ngữ thể hiện tâm trạng của tình yêu như “thiết tha, mặn nồng, bâng khuâng”…,
làm cho chuyện tình nghĩa của cách mạng đến với lịng người thật nhẹ nhàng, êm ái.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:
1.Tâm tình buổi chia tay ( khổ 1 và khổ 2 – 8 câu đầu):
a.Lời người ở lại (Khổ 1):
“ Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?”
Ở đoạn thơ này “mình” là cán bộ cách mạng, “ta” là nhân dân Việt Bắc. Bằng hàng
loạt câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”?, “mình có nhớ không”?, vang lên một cách day dứt,

chứng tỏ người ở lại nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, nên lên tiếng trước để ướm hỏi
người cán bộ cách mạng, khi về tiếp quản thủ đơ Hà Nội có cịn nhớ Việt Bắc chăng?
Người ở lại nhắc người ra đi hãy nhớ thời gian mười lăm năm, thời gian ấy mang âm
hưởng ca dao và nghệ thuật trong truyện Kiều, cùng với từ láy “thiết tha”, gợi cho người
đọc liên tưởng đây là thời gian riêng của tình u đơi lứa. Nhưng đó lại chính là thời gian
cách mạng từ 1940 khởi nghĩa Bắc Sơn, đến 1954 hịa bình lập lại. Đây là khoảng thời
gian nhân dân Việt Bắc và cán bộ Việt Minh gắn bó máu thịt để cùng nhau kháng chiến
chống thực dân Pháp và phát xít Nhật.
Người ở lại nhắc nhở người ra đi, khi về tiếp quản thủ đơ Hà Nội hãy nhớ khơng gian
Việt Bắc. Đó là một vùng căn cứ địa cách mạng, được thể hiện ở hình ảnh liên tưởng “
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn”, đây cịn là cách nói hồn nhiên, chân thật của
người miền núi, nhằm nhắc người cán bộ cách mạng khi về Hà Nội nhìn cây Hà Nội nhớ
núi rừng Việt Bắc, nhìn sơng ở Hà Nội nhớ suối nguồn Việt Bắc. Ngồi ra “cây, núi,
sơng, nguồn” là những hình ảnh thiên nhiên có thực, nhưng gợi ra quy luật của tình cảm
là dù ở đâu cũng cần hướng về cội nguồn cách mạng “ Quê hương cách mạng dựng lên
cộng hòa”.
b. Nhớ cảnh chia tay ( khổ 2):
“ Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Đại từ phiếm chỉ “ai” và từ láy “tha thiết” đã níu chân người ra đi, cho thấy người
cán bộ cách mạng trong giờ phút chia li lịng bị níu lại, bởi họ cảm nhận được tiếng nói
ân tình của người Việt Bắc gửi gắm trong lời nhắn nhủ thân mật, thiết tha. Tình cảm này
đã làm cho người cán bộ Việt Minh ra đi mang hai tâm trạng hoàn toàn trái ngược nhau,
được thể hiện qua hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn”. Tâm trạng “bâng khuâng


trong dạ” cho thấy người ra đi bịn rịn không muốn rời xa cảnh và người Việt Bắc, nhưng
trong lòng lại “bồn chồn bước đi”, họ muốn nhanh chóng trở về Hà Nội, vì ở đó cịn có
rất nhiều cơng việc đang chờ đón họ.
“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay…”
Hình ảnh hốn dụ “áo chàm” ( áo nhuộm bằng củ chàm có màu xanh đen), nhằm để
chỉ nhân dân Việt Bắc là người đưa tiễn cán bộ cách mạng về xuôi. Đây là hình ảnh mà
người ra đi ln mang theo, là động lực để họ tiếp tục sự nghiệp cách mạng của mình, bởi
áo chàm đã trao cho họ một tình cảm chân thành, mộc mạc.
Hình ảnh “ Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay” phản ánh đúng tâm trạng của buổi
chia tay, họ khơng nói được gì vì nghẹn ngào, hay có nhiều điều để nói mà ngơn ngữ
khơng đủ sức diễn tả cho nên họ khơng nói gì, họ chỉ cầm tay nhau cũng chính là lúc họ
hiểu nhau nhiều nhất. Ngoài ra dấu chấm lửng ở cuối câu thơ cịn là khoảng khơng im
lặng, nghẹn ngào trong cảm xúc.
*Sơ kết:Hai khổ đầu của bài thơ, đã khắc họa cảnh chia tay đầy xúc động, với những lời
tâm tình chứa chan cảm xúc của hai nhân vật trữ tình. Người đọc thấy được trong đó tình
u thương tha thiết, sự gắn bó sâu nặng giữa người đi và kẻ ở. Qua đó, nhà thơ diễn tả
nỗi xúc động, sự lưu luyến, tình cảm thắm thiết của đồng bào Việt Bắc với người cán bộ
kháng chiến. Kết cấu đối đáp, cách sử dụng cặp đại từ nhân xưng mình-ta, vừa diễn đạt
được cảm xúc, vừa tạo tính dân tộc đậm đà cho tác phẩm. Tố Hữu đã diễn đạt vấn đề
chính trị bằng một hình thức nghệ thuật trữ tình, nên gây được sự đồng cảm sâu sắc trong
lòng người đọc.
2.Người ở lại nhắc người ra đi về những năm tháng kháng chiến gian khổ
( khổ 3- 12 câu tiếp theo):
a. Kỉ niệm những ngày đầu kháng chiến gian khổ, nhưng đầy ân tình
( 4 câu đầu):
Hình thức lặp “mình đi, mình về, có nhớ” đặt trong hàng loạt câu hỏi khiến đoạn thơ
tràn đầy cảm xúc, gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đầy tự hào và yêu thương. Hai tiếng
“mình đi, mình về” được luân phiên chuyển đổi, gợi hình ảnh người cán bộ kháng chiến
về xi mỗi lúc một đi xa dần
“ Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”
Hình ảnh ẩn dụ “mưa nguồn, suối lũ, những mây cùng mù”, kết hợp với cặp từ chỉ
sự tăng cấp “những, cùng” vừa để miêu tả thời tiết ở Tây Bắc thật khắc nghiệt, vừa để

hàm chỉ những gian khổ, thử thách mà cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phải trải
qua trong những năm tháng kháng chiến.
“ Mình về có nhớ chiến khu


Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai.”
Chi tiết có thực “miếng cơm chấm muối”, nhằm phản ánh cuộc sống kháng chiến
thiếu thốn, gian khổ về vật chất, nhưng tinh thần của họ luôn lạc quan. Bởi người cán bộ
cách mạng và nhân dân Việt Bắc có chung một lí tưởng, một mối thù. Cách nói “mối thù
nặng vai”, nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân Pháp, đang đè nặng lên đôi vai của
dân tộc ta.
b. Người dân Việt Bắc thể hiện tình nghĩa gắn bó, sâu nặng đối với người cán bộ
cách mạng ( 4 câu giữa):
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già”.
Nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, lấy nỗi buồn của rừng núi, để thổ lộ thầm kín
nỗi buồn của người dân Việt Bắc khi chia tay người cán bộ cách mạng. Họ buồn đến nỗi
khơng cịn tha thiết trong lao động “ Trám bùi để rụng măng mai để già”, trám bùi và
măng mai là nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để nuôi bộ đội đánh giặc,
nay cán bộ cách mạng về xuôi thì họ hái tram, bẻ măng để làm gì? Câu thơ gợi nỗi buồn
trống vắng trong lòng người ở lại.
“ Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”
Cụm từ “những nhà” ý chỉ đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh “hắt hiu lau xám” gợi khung
cảnh hoang vu của núi rừng, mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống nghèo khó. Nghệ
thuật tiểu đối trong câu thơ “ Hắt hiu lau xám><Đậm đà lòng son”, chứa đựng sự tương
phản giữa cuộc sống nghèo khổ về vật chất, nhưng người dân Việt Bắc với phẩm chất cao
đẹp, ln ân tình thủy chung với cách mạng.
c. Người ở lại nhắn nhủ người ra đi luôn nhớ cội nguồn cách mạng ( 4 câu cuối):
“ Mình về, cịn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”.
Điệp từ “nhớ” và hình ảnh liệt kê “ Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”, nhằm nhắc
nhở người cán bộ cách mạng luôn nhớ đến cội nguồn cách mạng: Nhớ địa điểm thành lập
quân đội đầu tiên của cách mạng đó là cây đa Tân Trào, nhớ mái đình Hồng Thái là nơi
hội họp quốc dân lần đầu, khai sinh ra chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng
hịa. Câu thơ “ Mình đi mình có nhớ mình” cũng là lời nhắc nhở người ra đi khi trở về
thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dạ. Hãy ln là chính mình, hãy nhớ về q khứ gian
khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.
*Sơ kết: Mười hai câu thơ tạo thành sáu câu hỏi. Mỗi câu thơ đều khắc khoải tâm tình da
diết, những kỉ niệm khơng thể nào quên của những ngày đầu cách mạng đầy gian khổ,


khó khăn, nhưng qn dân một lịng cùng nhau đánh giặc. Điệp ngữ “mình đi, mình về”
và cấu trúc đối đã diễn tả tình cảm sâu đậm, thủy chung của người dân Việt Bắc đối với
cách mạng.
3.Người ra đi khẳng định tình cảm sắt son của mình ( Khổ 4 và khổ 5 – 10 câu tiếp
theo):
a.Người cán bộ cách mạng khẳng định tấm lòng sắt son chung thủy của mình đối
với Việt Bắc (Khổ 4 - 4 câu đầu):
“Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”
Cách ngắt nhịp 3/3 “ta với mình/ mình với ta” làm cho người đọc cảm nhận, ta với
mình tuy hai mà một, gắn bó khơng thể tách rời. Cấu trúc so sánh và tăng tiến “lòng ta
sau trước mặn mà đinh ninh” nhằm nhấn mạnh tình cảm của người ra đi đối với Việt Bắc
bao la và sâu nặng.
Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”, khơng cịn là câu hỏi mà là một lời tâm tình,

tự nhủ. Nhớ Việt Bắc cũng chính là nhớ về cuộc sống của chính bản thân mình. Cách so
sánh đặc biệt “bao nhiêu, bấy nhiêu”, nhằm để cụ thể hóa tình cảm sâu nặng của cán bộ
cách mạng dành cho nhân dân Việt Bắc. Đặc biệt câu thơ “mình đi mình lại nhớ mình”,
thể hiện sự sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu khi vận dụng cặp đại từ nhân xưng “mình, ta”.
Câu thơ có ba từ “mình”, hai từ “mình” đầu được dùng để chỉ cán bộ cách mạng, từ
“mình” thứ ba dùng để chỉ nhân dân Việt Bắc. Câu thơ như khẳng định, người cán bộ
cách mạng không bao giờ qn chính mình trong những ngày khó khăn, gian khổ nhưng
đậm nghĩa tình với Việt Bắc.
b. Nỗi nhớ về thiên nhiên và cuộc sống của người Việt Bắc (Khổ 5 - 6 câu sau):
“ Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê vơi đầy.”
Qua hồi tưởng của người cán bộ cách mạng, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật
đẹp, vừa hiện thực, lại vừa thơ mộng, tạo nét đẹp riêng biệt khơng nơi nào có được. Nỗi
nhớ Việt Bắc được tác giả so sánh “ Nhớ gì như nhớ người yêu”, bởi nỗi nhớ Việt Bắc
tựa nỗi nhớ người yêu, nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ bao trùm lên mọi không gian và thời
gian. Nhớ ánh nắng ban chiều, nhớ ánh trăng buổi tối, nhớ bản làng mờ trong sương sớm,


nhớ bếp lửa hồng trong đêm khuya lạnh, nhớ núi rừng, sông suối mang những tên quen
thuộc, được thể hiện bằng hàng loạt hình ảnh liệt kê “ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê”. Điệp
ngữ “nhớ từng” làm cho nỗi nhớ thêm da diết, vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc
nên thơ sẽ cịn đọng mãi trong kí ức người ra đi.
*Sơ kết: Đoạn thơ chỉ là một mảng nhỏ trong hồi tưởng của nhà thơ về những kỉ niệm
không thể quên, với cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống của Việt Bắc. Tuy nhiên, đó là
những kỉ niệm da diết và sâu đậm luôn thường trực trong nỗi nhớ của tác giả.
4.Nỗi nhớ về cảnh sinh hoạt ở Việt Bắc ( Khổ 6 – 12 câu tiếp theo):

“ Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
Nhớ Việt Bắc không phải là nỗi nhớ chung chung mà rất cụ thể. Nhớ những ngày gần
gũi “mình đây ta đó”, cùng chia sẻ “đắng,cay,ngọt,bùi”. Có những ngày lũ rừng về xối
xả, mưa rừng ào ào, gạo muối bị cuốn trơi, địch phục kích sau lung…Những đêm bị sốt
rét rừng hành hạ, được các mế, các chị chăm sóc…thấm thía vơ cùng tình qn dân keo
sơn gắn bó.
Hàng loạt tính từ “đắng, cay, ngọt, bùi” nhằm thể hiện những khó khăn tột cùng,
nhưng nhờ tinh thần đồng cam cộng khổ giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng,
được thể hiện qua những động từ “chia, sẻ, đắp cùng”. Trong kháng chiến chống Pháp họ
thiếu thốn về vật chất, nhưng họ đã vượt qua được, nhờ họ thương yêu, đùm bọc nhau:
chia từng củ sắn, sẻ bát cơm cho nhau, đắp chăn bằng vỏ cây sui cùng nhau để chống cái
lạnh vùng cao…
“ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngơ”
Hình ảnh “ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng. Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, giúp
người đọc cảm nhận, người dân Việt Bắc lao động làm ra của cải vật chất thật khó nhọc,
thế mà họ vẫn sẵn sang nuôi dưỡng cách mạng.
“ Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Điệp ngữ “nhớ sao” được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ của tác giả càng
lúc càng day dứt: Nhớ cảnh học tập của lớp bình dân học vụ, nhớ niềm vui trong đêm liên



hoan, nhớ tinh thần lạc quan, yêu đời của quân dân Việt Bắc, đặc biệt tác giả nhớ âm
thanh đặc trưng của núi rừng Việt Bắc đó là tiếng mõ, tiếng chày.
*Sơ kết: Đoạn thơ cho ta thấy hình ảnh người cán bộ cách mạng nhớ phong cảnh quê
hương cách mạng, con người Việt Bắc và những sinh hoạt đời thường của quân dân Việt
Bắc. Qua nỗi nhớ, nhà thơ gợi lên một Việt Bắc thi vị, hài hòa. Đồng thời, nhắc lại một
thời ở Việt Bắc gian khổ mà ấm áp nghĩa tình, tràn đầy tinh thần lạc quan. Âm hưởng trữ
tình vang vọng, đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình quân dân, tình yêu đất
nước, yêu đời.
5.Nỗi nhớ về cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc ( Khổ 7 – 10 câu tiếp theo):
Cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc mang vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng,
nhưng tiêu biểu nhất và đẹp nhất là bức tranh tứ bình của Việt Bắc qua bốn mùa được thể
hiện trong đoạn thơ.
a. Hai câu đầu nêu cảm xúc chủ đạo của cả đoạn thơ đó là nỗi nhớ về Việt Bắc:
“ Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Ở đoạn thơ này có sự thay đổi đại từ nhân xưng: “Ta” là người cán bộ cách mạng,
“Mình” là nhân dân Việt Bắc. Tác giả sử dụng hai lần cụm từ “ta về” vào cùng một thời
điểm chia tay, nhưng “ta về” ở câu lục là để hỏi người Việt Bắc, còn “ta về” ở câu bát là
để giãi bày lịng mình. Câu thơ “ Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, từ “cùng” trong
“hoa cùng người”, nhằm khẳng định thiên nhiên và con người Việt Bắc có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Qua đó, ta thấy hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa
quyện trong nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng về xuôi.
b. Tám câu sau bức tranh tứ bình Việt Bắc:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hịa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Ở đoạn thơ này, cảnh và người Việt Bắc hiện lên rất đẹp, rất trữ tình, thơ mộng trong
nỗi nhớ của người đi xa. Bốn cặp câu lục bát có kết cấu đan xen độc đáo: Câu lục nói đến
thiên nhiên, câu bát nói đến con người. Nói đến hoa như thể hiện tình người, nói đến
người lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau tỏa
sáng bức tranh tứ bình Việt Bắc.


Cảnh mùa đông không tàn lụi, lạnh lẽo mà sống động, ấm áp. Giữa rừng xanh bạt ngàn
tha thiết, lại đột ngột bùng lên màu “hoa chuối đỏ tươi” như ngọn lửa của rừng ấm áp tình
yêu:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Theo trình tự thời gian xn, hạ, thu rồi đến đơng. Nhưng ở đoạn thơ này tác giả đi theo
trình tự đơng, xn, hạ, thu. Bởi vì, bài thơ được sáng tác vào tháng mười, tức là vào mùa
đông nên mùa đông được nhắc đến trước. bức tranh mùa đông ở Việt Bắc là một không
gian xanh thẳm, bạt ngàn của núi rừng, được điểm tô màu đỏ tươi của hoa chuối. Phải
chăng màu đỏ của hoa chuối làm cho mùa đông bớt lạnh? Bên cạnh bức tranh mùa đông
là nét đẹp khỏe khoắn của con người Việt Bắc với hình ảnh “ Đèo cao nắng ánh dao gài
thắt lưng”. Hình ảnh hoán dụ “dao gài thắt lưng”, lấy con dao đi rừng – vật bất li thân
của người dân miền núi, để vẻ nên nét đẹp đặc trưng của con người Việt Bắc, họ hùng vĩ,
kiêu hãnh, thách thức trước cái lạnh của núi rừng, trước độ cao của đèo. Giữa “ Rừng
xanh hoa chuối đỏ tươi”, đã nổi bật lên hình ảnh người lao động miền núi chăm chỉ làm
việc “ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Cảnh mùa xuân cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân), là sự chuyển màu
trong bức tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi
của hoa mơ khi mùa xuân đến:
“ Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bức tranh mùa xuân bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ, thời gian ở đây được chỉ rất rõ

“ngày xuân” với gam màu trắng là gam màu đặc trưng. Câu thơ đem lại cho người đọc
cảm nhận khơng khí xuân lan tràn, không gian núi rừng mênh mông, thiên nhiên Việt Bắc
giàu sức sống. Giữa sự tinh khiết của màu trắng hoa mơ là hình ảnh người đan nón chuốt
từng sợi giang. Động từ “chuốt” gợi sự cần mẫn, chịu thương, chịu khó trong lao động
của người dân Việt Bắc. Họ kết từng sợi nhớ sợi thương trong công việc đan nón tỉ mẫn
hàng ngày. Trong sắc xuân của thiên nhiên, đất trời, con người chính là chủ nhân của bức
tranh xuân, đang tô điểm cho sắc xuân bằng tình yêu lao động.
Cảnh mùa hè được chuyển sang gam màu vàng của “rừng phách” – Một loại cây phổ
biến ở rừng núi Việt Bắc:
“ Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cơ em gái hái măng một mình”
Bức tranh mùa hạ buộc người đọc phải cảm nhận bằng cả thính giác và thị giác.
Tiếng ve kêu báo hiệu hè về, những ngày xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ
hoa cịn kín kẽ trong lá. Khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề
đồng loạt trổ bông, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Đặc biệt động từ “đổ’, trong “rừng


phách đổ vàng” giúp người đọc liên tưởng trong phút chốc màu vàng nhuộm cả rừng
phách. Nổi bật trên nền bức tranh màu vàng là hình ảnh “cơ em gái hái măng một mình”.
Cách gọi trìu mến “cơ em gái” và động từ “hái” trong “hái măng”, hái chứ không phải là
bẻ hay chặt, thể hiện sự mềm mại, thành thạo trong lao động của cô gái Việt Bắc.
Cảnh mùa thu khép lại bức tranh với đêm trăng trữ tình, bình n và huyền ảo:
“ Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Bức tranh thu thật êm đềm, thơ mộng và thanh bình biết bao bởi không gian về đêm,
trăng hiện trong đêm thu, dưới rừng thu để chuyển tải một tình thu. Đó là tình u hịa
bình “trăng rọi hịa bình”. Đặc biệt điểm vào bức tranh mùa thu huyền ảo ấy là tiếng thu –
Tiếng hát sắt son, thủy chung, ân tình của người dân Việt Bắc.
*Sơ kết: Thể thơ lục bát và cách diễn đạt bằng lời đối đáp của kẻ ở với người đi bằng cặp
đại từ nhân xưng “mình, ta”, khiến cho tình cảm trong bài thơ được thể hiện một cách

vừa kín đáo, tinh tế, vừa đậm đà ý vị dân tộc. Đoạn thơ giàu màu sắc hội họa, từ ngữ giàu
giá trị tạo hình đã vẽ nên bức tranh đầy màu sắc về vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt
Bắc. Cảnh và người hòa quyện thắm thiết, tô điểm cho nhau, tạo nên nét riêng biệt của
mảnh đất Việt Bắc mà khơng có vùng q nào có được. Qua đó, thể hiện tình u, sự gắn
bó sâu nặng, nỗi nhớ của cán bộ cách mạng đối với miền đất Việt Bắc ân nghĩa, thủy
chung. Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài thơ, đồng thời cũng tiêu biểu
cho phong cách thơ Tố Hữu: Đậm đà tính dân tộc.
6.Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu ( Khổ 8 –10 câu tiếp theo):
“ Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”.
Động từ “lùng” trong “giặc lùng”, và điệp từ “giặc”, nhằm nhấn mạnh tội ác của thực
dân Pháp, đã gây ra cho nhân dân Việt Nam, chúng lùng sục để giết dân lành và triệt tiêu
phong trào cách mạng. Từ “cùng” trong “ Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”, cho thấy
thiên nhiên Việt Bắc cũng góp phần cùng bộ đội ta kháng chiến chống Pháp. Thực dân
Pháp càng điên cuồng, tàn bạo bao nhiêu thì nhân dân Việt Bắc, thiên nhiên Việt Bắc,
càng thể hiện tinh thần đoàn kết bấy nhiêu. Họ tạo ra những địa hình hiểm trở để che giấu
cán bộ cách mạng và gây khó khăn cho thực dân Pháp.
“ Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”.
Hàng loạt hình ảnh nhân hóa “núi giăng thành lũy, rừng che bộ đội, rừng vây quân
thù”, cho thấy thiên nhiên cũng giống như con người, hiểu được ý nghĩa của cuộc kháng
chiến chống Pháp là nhằm đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Vì thế cuộc kháng chiến
chống Pháp là cuộc kháng chiến vì chính nghĩa, nên thiên nhiên Việt Bắc tạo nên một địa
hình hiểm trở để che chở cán bộ cách mạng và vây hãm quân thù. Đoạn thơ còn gợi lại sự
kiện quan trọng là quân và dân ta đã chiến thắng giặc Pháp trận Thu Đông 1947, đập tan


âm mưu của Pháp dự định đánh chiếm vào chiến khu Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu
não của cách mạng. Ngồi ra hình ảnh “núi rừng” cịn tượng trưng cho sự đông đảo của
từng lớp người Việt Nam tham gia cách mạng đơng như rừng, ý chí vững chắc như núi.

“ Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lịng”.
Hình ảnh “ Mênh mơng bốn mặt sương mù”, chỉ thời tiết Việt Bắc thật là khắc
nghiệt, trời đầy sương mù. Sương mù dày đặc đã góp phần che mắt qn thù, cản trở tầm
nhìn và con đường tiến cơng của giặc. Ngồi ra cặp từ ngữ đối “mênh mông đất trời –
chiến khu một lịng”, nhằm nhấn mạnh sự đồn kết trong chiến đấu của quân và dân ta,
giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.
“ Ai về ai có nhớ khơng?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng nhớ sang Nhị Hà…”
Câu hỏi tu từ “ Ai về ai có nhớ khơng?”, điệp từ “nhớ” và đại từ phiếm chỉ “ai”, cùng
hàng loạt hình ảnh liệt kê về địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng…nhằm
nhắc nhở người ra đi và người ở lại, hãy nhớ đến những địa danh lịch sử, nơi ấy đã xảy ra
những trận đánh lớn giữa ta và địch, quân dân ta đã giành những chiến thắng vẻ vang.
*Sơ kết: Với thể thơ lục bát, âm điệu sâu lắng, hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, vận dụng thành
cơng các biện pháp tu từ như nhân hóa, liệt kê, điệp từ, điệp ngữ… Đoạn thơ đã bộc lộ
nỗi nhớ, niềm tự hào của người cán bộ cách mạng về một Việt Bắc anh dũng, kiên cường.
7.Tinh thần chiến đấu và khí thế ra trận của quân dân Việt Bắc ( Khổ 9 –
12 câu tiếp theo):
“ Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”.
Từ láy hoàn toàn chỉ thời gian “đêm đêm”, nhằm chỉ thời gian liên tục, đêm này sang
đêm khác, không ngừng nghỉ, thường xuyên. Hình ảnh so sánh “ Những đường Việt Bắc
của ta, đêm đêm rầm rập như là đất rung”, nhằm nhấn mạnh khí thế ra trận hùng dũng,
rung trời, lở đất của quân dân ta, bởi cuộc kháng chiến của dân tộc ta là cuộc kháng chiến
chính nghĩa, với mục đích đánh đuổi giặc Pháp xâm lược, giành độc lập tự do cho dân
tộc, nên đã tập hợp được các tầng lớp sĩ, nông, công, thương. Những tầng lớp này đại
biểu cho sức mạnh, cho tư tưởng và khát vọng giành độc lập của dân tộc Việt Nam.
“ Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân cơng đỏ đuốc từng đồn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay


Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”.
Những từ, cụm từ chỉ số lượng đông đảo “điệp điệp, trùng trùng, từng đồn, mn
tàn lửa bay”, nhằm thể hiện sức mạnh, khí thế của quân dân Việt Bắc. Sức mạnh được chỉ
ra rất cụ thể gồm “quân” và “dân công” ( Bộ đội và nhân dân Việt Bắc) từng đoàn người
ra trận, đoàn quân này tiếp nối đồn qn kia, liên tục khơng ngừng nghỉ.
Con đường Việt Bắc về đêm, không chỉ tấp nập bởi bộ đội, dân cơng, mà cịn rực rỡ
bởi ánh sáng, ánh sáng của niềm tin, hi vọng, được thể hiện ở hàng loạt từ ngữ “ánh sao
đầu súng, đỏ đuốc, đèn pha bật sáng” (ánh sáng sao đêm, ánh sáng đuốc, và ánh sáng của
đèn pha xe vận tải quân sự). Hình ảnh ẩn dụ “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày”, nhằm
để chỉ cuộc sống tối tăm, nô lệ của nhân dân ta dưới chế độ thực dân phong kiến. Hình
ảnh “bước chân nát đá”, lấy từ thành ngữ “chân cứng đá mềm”, nhằm thể hiện ý chí
quyết tâm, vượt qua gian khổ, hi sinh để giành thắng lợi của quân dân Việt Bắc.
“ Tin vui chiến thắng trăm miền
Hịa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
Tác giả liệt kê hàng loạt các địa danh “Hịa Bình, Tây Bắc, Đồng Tháp, An Khê, Việt
Bắc, đèo De, núi Hồng” và điệp từ “vui” nhằm nhấn mạnh tâm trạng sung sướng của
quân dân ta vì đã chiến thắng giặc Pháp với những chiến dịch lớn. Đặc biệt ở đoạn thơ
này, nhịp thơ dồn dập, tạo nên khí thế hùng dũng của quân dân Việt Bắc.
*Sơ kết: Với bút pháp lãng mạn, đoạn thơ đưa người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến
đấu, với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào
hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Đoạn thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng
ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại. Qua đó, thể hiện hào khí ngất trời của quân dân ta trong

cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời, tác giả ca ngợi Việt Bắc, ca ngợi cuộc kháng
chiến chống Pháp oanh liệt, hào hùng và vẻ vang của dân tộc ta.
8.Vai trò của Việt Bắc và Bác Hồ ( Khổ 10 và khổ 11 – 16 câu còn lại):
“ Ai về ai có nhớ khơng?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc việc cơng”
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ “ Ai về ai có nhớ không?”, cùng với đại từ phiếm
chỉ “ai” (chỉ người cán bộ cách mạng), khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội thì hãy nhớ những
kỉ niệm ở hang Việt Bắc – Thủ đô kháng chiến, nơi ấy những phiên họp của chính phủ


được diễn ra, cuộc họp “luận bàn việc công” – những công việc to lớn, quan trọng của đất
nước. Cuộc họp đầy tinh thần lạc quan của những người cách mạng, được thể hiện ở hình
ảnh “ngọn cờ đỏ thắm, rực rỡ sao vàng”.
“ Điều quân chiến dịch Thu – đơng
Nơng thơn phát động, giao thơng mở đường
Giữ đê, phịng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
Đoạn thơ liệt kê hàng loạt những công việc của cán bộ cách mạng “điều quân, giao
thông mở đường, giữ đê, phòng hạn, thu lương, gửi dao miền ngược, thêm trường các
khu”. Nghĩa là cách mạng ta vừa phải đánh giặc thắng lợi “ Điều quân chiến dịch Thu –
đông”, vừa phải phát triển kinh tế đảm bảo lương thực cho hậu phương và tiền tuyến “
Giữ đê, phòng hạn, thu lương”, bên cạnh đó cịn phải chăm lo phát triển văn hóa “ thêm
trường các khu”. Nghĩa là cách mạng đang thực hiện chủ trương “chống thù trong giặc
ngoài, diệt giặc đói, giặc dốt”.
“ Ở đâu u ám qn thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nịi
Trơng về Việt Bắc mà ni chí bền”.

Điệp ngữ “ở đâu” nhằm để nhấn mạnh nhân dân cả nước đang hướng về cách mạng.
Động từ “nhìn lên, trơng về” dùng để chỉ hành động tuyệt đối tin tưởng của nhân dân đối
với cách mạng. Hình ảnh Bác Hồ hiện lên trong lòng nhân dân – Bác vừa là một vị lãnh
tụ, vừa là người cha, người bác, người anh, với trái tim vĩ đại đủ sức xóa tan sự u ám, đau
đớn cho giống loài Việt Nam.
“ Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hịa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Cụm từ chỉ thời gian “mười lăm năm ấy”, nhằm để chỉ thời gian gắn bó ân tình, sâu
nặng giữa người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu thơ khẳng định “ai quên,
dựng nên Cộng hòa”, nhằm khẳng định tấm lòng thủy chung, son sắt của người ra đi đối
với Việt Bắc. Bởi vì Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, nơi ấy nuôi dưỡng Đảng và Bác
Hồ trong những ngày kháng chiến gian khổ, để giành thắng lợi, lập nên chế độ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
*Sơ kết:Đoạn thơ khẳng định Việt Bắc là căn cứ địa, chiến khu của kháng chiến, là cơ
quan đầu não của kháng chiến. Hình ảnh Bác Hồ được ngợi ca với một niềm tin yêu,
thành kính: Bác là ánh sáng soi đường, là niềm tin yêu của nhân dân Việt Nam.


III.TỔNG KẾT:
“ Việt Bắc” là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng
chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc
thái dân gian. Tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi mãi và
phát huy truyền thống quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của cách mạng,
của con người Việt Nam.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×