Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm sử 7: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn lịch sử lớp 7 tại trường THCS Lạc Hòa pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 27 trang )

Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ……………………………………… 2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ …………………… …3
1. Kể chuyện lịch sử trong giờ dạy………………………… 3
2. Sử dụng hình ảnh minh họa ……………………………. 8
3. Cung cấp tư liệu cho HS ……………………………… 13
4. Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề …. ………………………… 21
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ …………………… 24
1. Kết quả ………………………………………………… 25
2. Bài học kinh nghiệm ……………………………………. 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 1
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Môn lịch sử trong nhà trường phổ thông nói chung ở lớp 7 nói riêng có
chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ
Không chỉ ở nước ta mà ở các nước tiên tiến trên thế giới cũng chú trọng
việc dạy môn lịch sử vì nó đào tạo con người có bản sắc dân tộc.
Đảng và Nhà nước, Bộ giáo dục coi trọng việc dạy và học bộ môn lịch sử.
Đúng như Hồ Chí Minh đã khẳng định trong hai câu thơ mở đầu trong cuốn lịch
sử nước ta:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Nhưng trong thực tế cũng không ít người cho rằng, môn lịch sử là bộ môn học
thuộc nặng về ghi nhớ những sự kiện năm tháng dài lê thê và xếp vào môn phụ,
vì vậy ảnh hưởng không tốt vào mục tiêu đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ.
Trong quá trình giảng dạy và kết quả học tập của học sinh, tôi đã xác định
lịch sử là một bộ môn khoa học có ưu thế hình thành nhân sinh quan cho học
sinh, rèn tư duy sáng tạo cho các em, đặc biệt giúp cho học sinh từ hiểu biết lịch
sử mà rút ra kinh nghiệm quý giá để xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ


nghĩa.
Để đạt được kết quả trên thì việc áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy vào
tiết học lịch sử là rất quan trọng. Trong quá trình giảng dạy, ngoài các phương
pháp thường dùng tôi chú trọng vào việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề, kể chuyện
lịch sử, sử dụng kênh hình, liên hệ với thực tế để giáo dục tư tưởng cho HS, …
Qua một thời gian áp dụng tôi thấy rất có hiệu quả. Trên cơ sở đó tôi tổng
hợp thành Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn
lịch sử lớp 7 tại trường THCS Lạc Hòa”
Các câu chuyện lịch sử, tranh ảnh,… không chỉ có tác dụng làm nổi bật nội
dung, mà còn là nguồn tri thức không thể thiếu đựợc trong bài học. Nếu những
câu chuyện lịch sử, tranh ảnh được sử dụng tốt, sẽ huy động được sự tham gia
của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe,
mắt thấy, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối liên hệ thần
kinh tạm thời khá phong phú, phát huy đựơc năng lực chú ý quan sát, hứng thú
của học sinh.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 2
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
II. GIẢI QUYÊT VẤN ĐỀ (Cách làm mới)
1. Kể chuyện lịch sử trong giờ dạy.
Có thể nói rằng, bất cứ nơi nào, ở đâu những câu chuyện kể luôn luôn
mang lại hiệu quả. Đặc biệt là tính giáo dục của các câu chuyện, môn lịch sử
cũng không là ngoại lệ. Điếu quan trọng là ta phải biết sử dụng đúng lúc, đúng
chỗ để nó phát huy giá trị và không làm mất thời gian của tiết học.
Khi sử dụng giáo viên phải biết chắt lọc, kể gọn và sau mỗi câu chuyện
phải biết đặt những câu hỏi hoặc gợi ý cho học sinh nêu lên suy nghĩ của mình, từ
đó giáo dục tư tưởng cho HS.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 9 – Nước Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê, ở mục I
2
giáo viên có thể kể về thái hậu Dương Vân Nga:
Khi đề cao võ công văn trị của Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, những vị anh

hùng của công cuộc thống nhất đất nước không thể không nhắc đến công lao cua
Dương Vân Nga đối với đất nước. Cỏ thể xem Dương Vâm Nga là cái cầu nối
giữa Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, người làm cho côg cuộc thống nhất đất nứơc do
Đinh Bộ Lĩnh khởi xưởng được Lê Hoàn hoàn tất. Sự nghiệp chính trị của người
phụ nữ ấykhông được sử cũ chú ý đến mà lại cứ tập trung vào thân phận làm vợ
của bà. Vốn là con của ông Dương Thế Hiển quê ở vùng Nho Quan, Ninh Bình
rồi trở thành vợ của Đinh Bộ Lĩnh, nên sau khi chồng bị ám hại, để lại đứa con 6
tuổi kế nghiệp Hoàng đế, Dương Vân Nga đã phải cáng đáng những khó khăn
vượt quá sức mình. Sự nghiệp thống nhất đất nước vừa mới hoàn thành thì bị đe
doạ từ nhiều phía. Bên ngoài phong kiến phương bắc sửa soạn đại binh xâm
lược. Bên trong, các triều thần phân biệt tranh chấp ngay gắt có nguy cơ xảy ra
nội chiến lớn. Là người có tầm nhìn xa thấy rộng, Dương Vân Nga nhận thấy
chỉ có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng giải quyết tình hình
nghiêm trọng ấy. Nếu Dương Vân Nga không biết đặt lợi ích của đất nước lên
trên lợi ích của dòng họ, bà có thể dựa vào một quyền thần để chống lại một
quyền thần khác, ngoan cố bảo vệ ngai vàng cho đứa con nhỏ của mình, sẽ gây
ra nạn bè đảng tranh chấp, đẩy đất nước vào thảm cảnh rối loạn. Vậy mà chỉ vì
Dương Vân Nga lây chiếc áo bào choàng lên vai Lê Hoàn, về sau lại tở thành vợ
của Lê Hoàn mà sử sách phong kiến đã xoá sạch công lao của bà. Ngược lại với
cách nhìn nhận trên, nhân dân ta có thái độ rộng lượng và đúng đắn. Sử cũ
chép: “Tục dân lập đền thờ tô ba pho tượng Tiên Hoàng, Đại Hành và Dương
Vân Nga cùng ngồi”. Vùng Hoa Lư còn lưu nhiều truyền thuyết đẹp về Dương
Vân Nga nằm ghi nhận công lao của bà. Đến thời Lê Mạt, An phủ sứ Lê Thúc
Hiển ra lệnh cấm thờ chung ba nhân vật của sự nghiệp thống nhất hồi cuối thế kỉ
thứ 10 thì dư luận dân gian đã phê phán quyết liệt. Truyền thuyết ở Hoa Lư còn
kể rằng: sau khi Lê Thúc Hiển làm cái việc buộc lụa trắng vào cổ tay bức tượng
Dương Vân Nga, dong tượng bà từ đền thờ Đinh Bộ Lĩnh về đền thờ Lê Hoàn,
thì trở về kinh, viên quan họ Lê ấy đã lăn ra chết vì đứt ruột.
( Theo Các triều đại Việt Nam)
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 3

Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Kể chuyện này giáo viên chú ý bỏ qua những đoạn đánh giá nhận xét mà
tập trung vào đoạn Dương Vân Nga lấy áo bào khoác lên người Lê Hoàn, cách
đối xử của mọi người đối với bà. Từ đó đặt câu hỏi để HS thể hiện ý kiến của
mình đối với thái hậu Dương Vân Nga, qua đó giáo dục tư tưởng cho HS.
Ví dụ 2. Khi dạy bài 14 – Ba lần kháng chiến chống quan xâm lược Mông –
Nguyên, ở mục IV – Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử, có thể kể về Trần
Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, …
HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN
Hơn bảy trăm năm trước, cả Á – Âu đang trong cơn kinh hoàng, khiếp
đảm về cái hoạ Tác – ta (giặc Mông ), khi chúng lướt trên vó ngựa viễn chinh tàn
phá hết nước này sang nước khác. Từ Thái Bình Dương sang tận bên bờ Địa
Trung Hải, khắp Á – Âu chưa có một danh tướng nào ngăn cản được. Giáo
hoàng La Mã sợ hãi đến nỗi “… tuỷ khô, thân gầy, sức kiệt”. Người Đức hàng
ngày cầu nguyện: “ Xin chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ Tác – ta !”,
vó ngựa của chúng đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó. Vậy mà ở miền Đông
Nam châu Á, lũ giặc Tác – ta phải kinh hồn, lạc phách trước ý chí chiến đấu và
tài nghệ quân sự tuyệt vời của quân dân Đại Việt dưới sự chỉ huy thiên tài của
Quốc Công Tiết chế, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Công lao to lớn của Người, ba lần tổng chỉ huy quân dân Đại Việt cả phá
quân Nguyên – Mông hung bạo, đánh cho chúng thất điên bát đảo, Trấn Nam
Vương Thoát Hoan chui vào ống đồng có người kéo qua biên ải mới thoát chết.
Với tài thao lược, trí dũng song toàn, luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên
hết, Trần Hưng Đạo không chỉ sống mãi trong lòng mọi người dân đất Việt mà
còn vang danh khắp năm châu bốn biển. Trần Quốc Tuấn (1228 – 1300) là một
anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta đồng thời là danh nhân quân sự cổ kim của thế
giới.
Người sinh ngày 10-12-1228 (Mậu tý), là con của An sinh vương Trần
Liễu (anh ruột Trần Thái Tông – Trần Cảnh).
Người dung mạo hùng vĩ, thông minh hơn người, đủ tài văn võ, chuyên

tâm nghiên cứu lục tam thao lược của người xưa và dành cả tâm huyết, hiểu biết
của mình để viết: Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ để dạy các tướng cầm quân
đánh giặc, khích lệ lòng yêu nước của quân dân Đại Việt.
Trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, thấy rõ nếu để
ngành trưởng và ngành thứ xích mích, nghi kị lẫn nhau thì chỉ có lợi cho kẻ thù.
Người đã chủ động giao lưu hoà hiếu với Trần Quang Khải, tạo nên sự đoàn kết
nhất trí trong Vương triều, bảo đám đánh thắng quân thù .
Chuyện kể rằng: Một hôm Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ở bến
Bình Than sai người mời Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ
rồi sai người nấu nước thơm tự mình tắm rửa với Trần Quang Khải, từ đó vĩnh
viễn xoá bỏ hiềm khích giữa hai chi họ (Quốc Tuấn là con của Trần Liễu ngành
trưởng , Quang Khải con của Trần Cảnh ngành thứ ). Lần khác, Quốc Tuấn đem
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 4
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
việc xích mích hỏi các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông nến cướp ngôi của
chi thứ.
Ông nổi giận rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và
những người tâm phúc van xin, ông mới bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng :
- Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn thằng nghịch tử, phản
thầy này nữa.
Trong kháng chiến ông luôn hộ giá bên vua, tay chống gậy bịt sắt .dư luận xì
xào sợ ông giết vua. Ong liền bỏ luôn phần bịt sắt, chỉ chống gậy để tránh hiềm
nghi, làm yêu lòng dân quân.
Ba lần chống giặc Nguyên – Mông , các vua Trần đều giao cho ông chức Tiết
chế(tổng tư lệnh quân đội ), vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính vì
vậy tướng sĩ hết lòng thương yêu ông. Đạo quân cha con ấy trở thành đạo quân
bách chiến bách thắng.
Trần Quốc Tuấn là vị tướng trụ cột của triều đình. Ông đã soạn hai bộ
binh thư :Binh thư yếu lược và Vạn Khiếp tổng bí truỵền thư để răn dạy các
tướng cầm quân đánh giặc.khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược, ông viết “ Hịch

tướng sĩ”, truyền lệnh cho các tướng, dạy bảo họ lẽ thắng bại, tiến lui. Hịch
tướng sĩ rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định văn chương của một bậc đại bút .
Trần Quốc Tuấn là một bậc đại tướng gồm đủ đức và tài. Là tướng nhân
oâng thương dân như quân, chỉ cho họ con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi
việc phải hơn điều nghĩa. Là tướng trí, ông xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh
giặc, tạo nên những trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời. Là tướng tín, ông bày
tỏ trước quân lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông sẽ gặp hoạ. Cho nên cả ba
lần đánh giặc Nguyên, ông đều được giao trọg trách điều sát binh mã và đều
la[65 được công lớn.
Hai tháng trước khi mất, vua Anh tông đến thăm và hỏi :
- Nếu chẳng may khanh mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế
sách làm sao ?
Ông đã trăng trối những lới tâm huyết ,sâu sắc, đúng cho mọi thời đại :
- Thời bình phải khoan thứ sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng
sách giữ nước.
Mùa thu tháng tám, ngày 20 năm Canh tý (1300) “Bình Bắc đại nguyên
soái” Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn qua đời. Theo lới ông dặn, thi hài
ông được hoả tảng thu vào bình đồngvà chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng
An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng , trồng cây như cũ. Vua gia phong
cho ông chức Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí
Linh, ấp phong của ông lúc sinh thời.
( Theo Các triều đại Việt Nam )
Trong đó tập trung vào những việc làm của Trấn Quốc Tuấn để làm rõ việc
ông chủ động giải quyết các bất hòa trong nội bộ: bỏ bịt sắt ở cây gậy của mình,
đích thân tắm cho Trần Quang Khải, hỏi ý kiến của các con về việc giành ngôi.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 5
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Từ đó giáo dục cho HS về tinh thần đoàn kết là sức mạnh vô địch, sự vĩ đại của
Trần Hưng Đạo, …
Hay chuyện về Trần Nhật Duật:

CHIÊU VĂN ĐẠI VƯƠNG TRẦN NHẬT DUẬT
Trần Nhật Duật (1253 – 1330 )con trai thứ tư của Trần Thái Tông, người có
công lớn trong việc chỉ huy quân Trần đánh thắng giặc Nguyên, từng được
phong Thái uý quốc công với Chiêu Văn Đại vương, từ bé đã nổi tiếng là ông
hoàng hiếu học và sớm ‘bộc lộ thiên tri”, ham thích hiểu biết về các tiến nói và
các giống người. Có thể nói, tuổi trẻ của Trần Nhật Duật là nhubg74 bgày tháng
rèn luyện miệt mài để thành tài. Vì vậy, ông nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng. Uy tín
của vị tướng còn vang dội ra cả nước ngoài do sự hiểu biết sâu rộng về các nước
láng giềng. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm Thành, Nhật Duật chẳng những sử
dụng thành thạo các ngôn những nước ấy mà còn am hiểu nhiều mặt của các
nước đó, kể cả phong tục, tập quán của họ. Ong không những hiểu tiếng mà còn
hiểu về người.
Mới ngoài 20 tuổi, Nhật Duật đã được triều đình nhà Trầngiao d9ặc cách
những công việc về các dân tộc có liên quan. Vua Nhân Tông thán phục, thường
nói đùa: “Chiêu Văn vương có lẽ không phải người nước Việt mà là hậu thân
của giống Phiên, Man”. Tiếp xúc với các sứ thần triều Nguyên, có lần Nhật Duật
đã vui vẻ, tự nhiên trò chuyện suốt cả một ngày, khiến cho sứ nhà Nguyên khăng
khăng cho rằng Nhật Duật là người Hán ở chân Định ( gần Bắc Kinh)sang làm
quan bên Đại Việt. Hiển nhiên, Nhật Duật phải khổ học công phu và phải hết sức
kiên trì mới đạt đựơc kết quả như vậy. Câu chuyện sau đây chứng tỏ Nhật Duật
chẳng những giỏi các thứ tiếng mà còn là nhà dân tộc học lỗi lạc.
Ngày ấy, vua quan triều Trần được tin chúa đạo Đà Giang (thuộc miền Tây
Bắc ngày nay)Trịnh Giác Mật tụ họp phe đảng nổi lên cự lại triều đình. Tin dữ
trong nước đến cùng lúc nhà Nguyên đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Cần
dẹp ngay mỗi bất hoà trong nước. Người đảm đang trọng trách này kông ai khác
hơn Nhật Duật. Thế là vị tướng trẻ 27 tuổi dưới cờ hiệu “ Trấn thủ Đà Giang”
làm lễ ra quân lên đường .
Hay tin, chúa Đà Giang họp đám đầu mục bàn kế cự chiến. Trịnh Giác Mật
định ám hại vị tướng trẻ triều Trần nên đưa thư dụ Nhật Duật: “ Giác Mật
không giám chống lại triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến, Giác Mật

xin ra hàng ngay”. Muốn thu phục được Giác Mật, Nhật Duật mặc các tướng
can ngăn, một mình một ngựa đến trại Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng đi
theo hầu. Thản nhiên giữa lớp lớp gươm giáo và đám lính an mặc kì dị cố ý phô
trương để uy hiếp của Giác Mật. Nhật Duật nói với chúa đạo bằng chính ngôn
ngữ và theo đúng phong tụccủa dân tộc Đà Giang.
- Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đây thì nóng tai
phải.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 6
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Từ Giác Mật đến các đầu mục đều sửng sờ kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói
và tục lệcủa Nhật Duật. Rồi mâm rượu được bưng lên. Chúa đạo nheo mắt thách
thức, đưa tay mời. Chỉ có quả bầu cắt đôi sóng sánh rượu và dĩa thịt nai muối.
Nhật Duật không chút ngần ngại cầm thịt ăn rồi vừa nhai vừa ngửa mặt cầm gáo
rượu bầu từ từ dốc vào mũi hết sức thành thạo.
Trịnh Giác Mật thốt lên: “ Chiêu Văn Vương là anh em với ta”.
Nhật Duật từ tốn: “ Chúng ta xưa nay đã là anh em rồi”. Rồi sau đấy
theo, lệnh Nhật Duật, tiểu đồng mở tráp lấy ra những chiếc vòng bạc sáng loá
trao cho từng đầu mục Đà Giang. Những người cầm đầu đạo Đà Giang chỉ còn
biết đón lấy tặng phẩm kết nghĩa theo đúng tục lệ của họ từ tay viên tướng triều
đình mà họ vừa nhận là anh em. Chúa đạo Đà Giang đã quy thuận. Sức mạnh
của dân tộc như được nhân lên.
( Theo Các triều đại Việt Nam)
Ở truyện này chủ yếu là cho HS thấy được rằng nhà Trần có nhiều nhân
tài, bổ sung thêm về sự chuẩn bị chu đáo của nhà Trần.
Ví dụ 3. Khi dạy bài 16 – Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV, ở mục II
có thể kể về Hồ Nguyên Trừng cho HS thấy được tài năng của ông, từ đó tăng thêm
lòng tự hào dân tộc:
HỒ NGUYÊN TRỪNG
Hồ Nguyên Trừng, con cả của Hồ Quý Ly không chỉ làvị tướng có tài mà
còn là một công trình sư lỗi lạc được coi ông tổ của nghề đúc súng thần công

Việt Nam. Việc ông lập một phòng tuyến chống giặc bắt đầu bằng cứ điểm then
chốt Đa Bang (Ba Vì, Hà Tây ) kéo dài theo bờ Nam sông Đà cho đến sông Ninh
(Hà Nam) rồi lại tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình đến Bình Than dài
trên 400 km, đã tỏ ra ông là một nhà quân sự kiệt xuất. Hồ Nguyên Trừng cũng
sáng tạo ra cách đánh độc đáo: ông cho đúc nhiều cây xích lớn chăng qua những
khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phụctrang bị hoả lực mạnh, từng khiến
cho thuỷ quân giặc nhiều phen khiếp đảm. Tuy vậy nói đến Hồ Nguyên Trừng
người ta thuờng nhắc đến công sáng chế súng thần cơ của ông.
Thời ấy, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị
cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp tổ chức những
xưởng đúc súng lớn. Nhờ thông minh tuyệt vời cùng khả năng suy nghĩ phi
thường, ông đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền trên cơ sở đó, phát minh,
chế tạo ra những loại súng có sức công phá khủng khiếp. Từ việc cải tiến súng,
chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của đạn, Nguyên trừng phát minh ra phương pháp
đúc súng mới gọi là súng “thần cơ”. Súng thần cơ của ông có đầy đủ các bộ
phận của loại súng thần công sau này. Nòng súng là một ống được đúc bằng sắt
hoặc đồng. Phía đuôi súng được đúc kín có bộ hận ngòi cháy nổ ở chỗ nhồi thuốc
nổ. Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn, người ta nhồi thuốc súng phía đáy
rồi đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn bằng sắt và chì. Súng thần cơ có nhiều
loại: loại nhỏ dùng cho bộ binh bắn xa áng chừng 700 mét. Hồ Nguyên Trừng
đặc biệt cho đúc nhiều súng thần cơ cỡ lớn, gọi là “thần cơ pháo”. Thần cơ pháo
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 7
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
thực chất là thấn cơ cỡ lớn được đặt trên thành hoặc trên xe kéo cơ động. Quân
minh bao phen kinh hoàng về loại sùng này mà không hiểu nổi. Nhưng cuộc
kháng chiến của nhà Hồ thất bại vì không được nhân dân ủng hộ, trong lúc quân
giặc dương cao cờ “phù Trần diệt Hồ”. Giặc Minh bắt được nhiều súng thần cơ,
bắt được cả nhà sáng chế ra nó. Trong “Vân Đài loạn ngữ”, Lê Quý Đôn nhắc
đến một chi tiết: “quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng”.
Nếu nhớ lại rằng vào thời Hồ Nguyên Trừng, thế giới đang thai nghén về

súng đại bác thì chúng ta càng tự hào về những sáng chế của ông.
(Theo Các triều đại Việt Nam)
Lúc kể những câu chuyện lịch sử chính là lúc HS tập trung chú ý lắng
nghe, đó là cơ hội tốt để giáo dục tư tưởng cho HS, làm cho HS càng thêm yêu
dân tộc mình, biết thêm những điều mà trong SGK chưa cung cấp nhưng lại rất
cần thiết trong cuộc sống, trong quá trình học tập của mỗi con người.
Có một điều chắc chắn rằng HS sẽ nhớ nội dung của mỗi bài nhiều hơn
nhờ những câu chuyện này. Đặc biệt HS sẽ biết nhiều hơn về mỗi triều đại, biết
nhiều nhân vật lịch sử hơn. Từ đó môn lịch sử có giá trị cao hơn trong lòng các
em. Điều này có thể được chứng thực ở lớp 7A
1
, 7A
4
, 7A
6
.
Nguyên tắc khi kể chuyện trong giờ học lịch sử là không kể tràn lan và
phải thông qua câu chuyện để làm nổi bật nội dung bài, giáo dục tư tưởng cho
HS,
2. Sử dụng hình ảnh minh họa.
Hình ảnh minh họa rất có giá trị trong học tập. Nó giúp HS có thể hình
dung vấn đề rõ hơn, từ đó để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ HS. Giúp HS có
thể nhớ được lâu hơn. Đồng thời giúp HS không bị lạc lõng khi bắt gặp một hình
ảnh nào đó mang tính lịch sử.
Trong thời địa bùng nổ của công nghệ thông tin, giáo viên ngoài việc tận
dụng kênh hình trong SGK thì có thể tận dụng mạng internet để có được những
hình ảnh rất đẹp phục vụ cho việc dạy lịch sử.
Trước hết giáo viên tìm hình mà mình cần rồi sau đó in ra giấy A
4
. Tùy

điều kiện mà giáo viên có thể in hình màu hay đen trắng. Nếu là hình màu thì HS
dễ quan sát và thu hút HS nhiều hơn. Trong lúc sử dụng cần đặt các câu hỏi để
HS suy nghĩ tìm ra các vấn đề liên quan đến hình ảnh chứ không để cho HS nhìn
hình chỉ vì nó lạ, đẹp.
Đối với các nhân vật lịch sử có thể đặt dạng câu hỏi như: Ông là ai? Sống
dưới triều đại nào? Ông có công lao gì? Ta có thể học được gì nơi ông? … Đối
với các hình là những chùa chiền có thể hỏi: tên của chùa là gì? Nó liên quan đến
triều đại nào, sự kiện lịch sử nào? Qua hình đó thể hiện điều gì (liên quan đến bài
học)?… và giáo dục tư tưởng cho HS.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 8
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Ví dụ 1 : khi dạy bài 10 – Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất
nước, ở mục 1 – Sự thành lập nhà Lý, có thể sử dụng hình ảnh:

Tượng Lý Thái Tổ ở Hà Nội
Khi HS đọc xong mục 1 giáo viên có thể cho HS xem hình và đặt câu hỏi
để HS xác định tượng trong hình là ai. Khi xác định được giáo viên lại hỏi về
thân thế của họ. Từ đó giáo viên dựa vào hình để tổng kết, nêu lên công lao của
Lý Công Uẩn.
Ví dụ 2. khi dạy bài 12 – Đời sống kinh tế, văn hóa, ở mục II
2
giáo viên
có thể sử dụng hình chùa Một Cột trong SGK trang 48 hoặc hình sau (mặt sau
của chùa):
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 9
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Chùa Một Cột ở thủ đô Hà Nội
Giáo viên có thể hỏi HS những hiểu biết về ngôi chùa này như: năm xây
dựng, kiểu kiến trúc, sự dộc đáo của nó, … Từ đó giáo viên khắc sâu những kiến
thức liên quan làm cho HS có ấn tượng sâu sắc về ngôi chùa. Từ đây các em có

thể giải đáp cho bất cứ ai hỏi về ngôi chùa, cho dù đó là người nước ngoài.
Ngoài chùa Một Cột, thời Lý còn có nhiều ngôi chùa nổi tiếng khác có thể
dùng để làm nổi bật kiến trúc thời Lý như: chùa Keo, chùa Phật Tích( Bắc Ninh),
chúa Thầy(Hà Tây), …
Tất cả những tấm hình này giáo viên có thể dễ dàng tìm thấy trân mạng
Internet. Nhưng khi lấy trên mạng giáo viên chú ý phải lấy những hình ảnh có độ
phân giải cao mới bung ra giấy A
4
đẹp.
Ví dụ 3. Ngoài ra giáo viên có thể sử dụng một số hình ảnh sau đề làm
cho mục II
2
được rõ hơn (Những ngôi chùa được xây dựng hoặc đại tu dưới
thời Lý):
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 10
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Bố cục của Văn miếu Quốc tử giám
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 11
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Tượng A –di – đà (chùa Phật Tích – Bắc Ninh)
Chùa Trấn Quốc (được trùng tu dưới thời Lý)
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 12
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Chùa Keo(Hà Tây)
Địa thế Hoa Lư(Ninh Bình)
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 13
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
3. Cung cấp tư liệu cho học sinh.
SGK thường cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản. Đó là một việc làm
hết sức cần thiết, không cần phải bàn cải. Nhưng bây giờ thử hỏi, học xong lịch

sử lớp 7 mà HS không biết nhà Lý có những vị vua nào, nhà Trần có những vị
vua nào? Lý Thường Kiệt là ai? Chu Văn An là ai? Thì đã thực sự hợp lý hay
chưa. Vì vậy để HS của mình có cái nhìn khái quát hơn, cụ thể hơn thì giáo viên
nên cung cấp cho HS những tư liêu cần thiết.
Tư liệu cung cấp cho HS phải phục vụ cho việc học của HS, tư liệu đó HS
có thể sử dụng lâu dài trong cuộc sống.
Khi cung cấp tư liệu giáo viên không được bắt ép HS phải có nó mà phải
để cho HS hoàn toàn tự nguyện sử dụng. Giáo viên chỉ cố gắng động viên cho HS
có được nó và sử dụng.
Ví dụ 1: khi dạy bài 8 – Nước ta buổi đầu độc lập, giáo viên có thể hỏi:
từ trước đến nay nước ta có những tên gọi nào?
HS sẽ trả lời nhưng chắc chắn không đầy đủ. Từ đó giáo viên cho HS thấy
sự cần thiết phải biết các quốc hiệu của nước mình (như đặt ra trường hợp một
người nước ngoài hỏi chẳng hạn, nếu không trả lời được thì sẽ như thế nào). Bây
giờ giáo viên có thể cung cấp cho HS tư liệu về Quốc hiệu Việt Nam qua các thời
kì:
Quốc hiệu Việt Nam
Dưới đây là danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng
lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc
được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.
1. Văn Lang
Văn Lang là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô
đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ gồm khu vực Đồng bằng
Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.
2. Âu Lạc
Năm 257 TCN, nước Âu Lạc được dựng lên, từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt
(Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán - An Dương Vương. Âu Lạc
có lãnh thổ bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần đông nam
Quảng Tây.
Khoảng cuối thế kỷ thứ 3 TCN, đầu thế kỷ thứ 2 TCN (năm 208 TCN hoặc

179 TCN), Triệu Đà (quận úy Nam Hải-nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc.
Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị diệt vong.
3. Vạn Xuân
Vạn Xuân là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi.
Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.
4. Đại Cồ Việt
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 14
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Đại Cồ Việt là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà
Lý, do Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 86 năm đến năm
1054, đời vua Lý Thánh Tông đổi sang quốc hiệu khác.
5. Đại Việt
Đại Việt là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054,
khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại không liên tục (gián đoạn
7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), đến năm 1804, trải qua các
vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 743 năm.
6. Đại Ngu
Đại Ngu (nghĩa là Niềm vui lớn) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ.
Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm
quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc
lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.
7. Việt Nam
Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia
Long sử dụng từ năm 1804.
Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế
kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm
viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ 15 của
Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Điều này còn
được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491-1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt

Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số
tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia
chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh Đặc
biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu
thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền
đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ
"Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương
Nam).
8. Đại Nam
Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại
Nam, ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.
9. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945
đến đến 1976. Nhà nước được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngày
quốc khánh của Việt Nam ta ngày nay).
10. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã
quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu
này được sử dụng từ đó đến nay.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 15
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Ví dụ 2: khi dạy bài 13 – Nước Đại Việt ở thế kỉ XIII, giáo viên có thể
đặt câu hỏi: Nhà Lý tồn tại bao nhiêu năm? Trải qua mấy đời vua?
Với câu hỏi này chắc chắn sẽ có nhiều HS không thể trả lời vì các em kông
có tư liệu tham khảo. Bây giờ giáo viên có thể cung cấp tư liệu cho HS:
CÁC TRIỀU ĐẠI VIỆT NAM
TRIỀU NGÔ(939 - 965), kinh đô CỔ LOA (Đông Anh, Hà Nội)
1. Ngô Quyền (939 – 944)
2. Hậu Ngô vương (gồm Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập)(950 – 965)
TRIỀU ĐINH(968 – 980), quốc hiệu ĐẠI CỒ VIỆT,kinh đô HOA LƯ (Ninh

Bình)
1. Đinh tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh ,968 – 979)
2. Phế Đế (Đinh Toàn, 979 – 980)
TRIỀU TIỀN LÊ(980 – 1009), kinh đô HOA LƯ
1. Lê Đại Hành (Lê Hoàn, 980 – 1005)
2. Lê Trung Tông (1005)
3. Lê Long Đỉnh (1005 – 1009)
*Dương Vân Nga
TRIỀU LÝ(1010 – 1225) ,quốc hiệu ĐẠI CỒ VIỆT, kinh đô HOA LƯ. Năm
1010 dời đô về THĂNG LONG, từ năm 1054 đổi quốc hiệu là ĐẠI VIỆT
1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn,1010 – 1028)
2. Lý Thái Tông (1028 – 1054)
3. Lý Thánh Tông (1054 – 1072)
4. Lý Nhân Tông (1072 – 1127)
*Nguyên Phi Ỷ Lan
5. Lý Thần Tông (1128 – 1138)
6. Lý Anh Tông (1138 – 1175)
7. Lý Cao Tông (1176- 1210)
8. Lý Huệ Tông (1211 - 1224)
9. Lý Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh công chúa – 1225)
Triều Lý tồn tại 216 năm thì tan rã. Trải qua 9 đời vua .
TRIỀU TRẦN(1225 – 1400), quốc hiệu ĐẠI VIỆT, kinh đô THĂNG LONG
1. Trần Thái Tông (Tần Cảnh , 1225 – 1258)
2. Trần Thánh Tông (1258 – 1272)
3. Trần Nhân Tông (1279 – 1293)
4. Trần Anh Tông (1293 – 1314)
5. Trần Minh Tông (1314 – 1329)
6. Trần Hiến Tông (1329 – 1341)
7. Trần Dụ Tông (1314 – 1369)
8. Trần Nghệ Tông (1370 – 1372)

9. Trần Duệ Tông (1372 – 1377)
10. Trần Phế Đế (1377 -1388)
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 16
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
11. Trần Thuận Tông (1388 – 1398)
12. Trần Thiếu Đế (1398 – 1400)
* Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
* Thượng Tướng Thái Sư Trần Thủ Độ
*Chiêu Văn Đại Vương Trần Nhật Duật
Như vậy triều Trần kể từ Thái Tông Trần Cảnh đến Trần Thiếu Đế, là 12 ông
vua, trị vì được 175 năm. Cơ nghiệp nhà Trần bắt đầu suy vi từ Dụ Tông và
Nghệ Tông. Nghệ Tông thì hoang chơi, không lo đến chính sự, làm loạn cả kỉ
cương phép nước, làm dân nghèo nước yếu. Nghệ Tông thì bạc nhược không
phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thể làm loạn, tự mình nối giáo cho
giặc khiến cho cơ nghiệp nhà Trần tan vở .
TRIỀU HỒ (1400 – 1407)quốc hiệu ĐẠI NGU, kinh đô TÂY ĐÔ ở THANH
HOÁ
1. Hồ Quý Ly (1400)
2. Hồ Hán Thương (1401 – 1407 )
*Hồ Nguyên Trừng (ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt
Nam )
TRIỀU HẬU TRẦN (1407 – 1413)
1. Giản Định Đế (1407 – 1409)
2. Trùng Quang Đế (1409 – 1413 )
Từ năm 1414 đến 1417 Đại Việt năm dưới sự thống trị của nhà Minh .
TRIỀU LÊ SƠ (1428 – 1527),quốc hiệu ĐẠI VIỆT, kinh đô ĐÔNG ANH (Hà
Nội)
1. Lê Thái Tổ (Lê Lợi ,1428 – 1433)
2. Lê Thái Tông (1434 – 1442)
3. Lê Nhân Tông (1443 – 1459)

4. Lê Thánh Tông (1460 – 1497)
5. Lê Hiến Tông (1497 – 1504)
6. Lê Túc Tông (1504)
7. Lê Uy Mục (1505 – 1509)
8. Lê Tương Dực (1510 – 1516)
9. Lê Chiêu Tông (1516 – 1522)
10. Lê Cung Hoàng (1522 – 1527)
Như vậy là triều Lê Sơ kể từ Lê Thái Tổ lên ngôi (1428) đến Cung Hoàng
(1527) gồm 10 đời vua, cả thảy đúng 100 năm. Nếu kể cả thời gian Lê Lợi dấy
quân xưng là Bình Định Vương năm mậu tuất (1418) là 110. Đây là thời các vua
Lê nắm được trọn quyền cai trị đất nước. Các nhà sử học gọi là thời Lê Sơ để
phân biệt với Lê Trung Hưng về sau .
TRIỀU MẠC (1527 – 1592), kinh đô ĐÔNG ANH (Hà Nội)
1. Mạc Đăng Dung (1527 – 1529)
2. Mạc Đăng Doanh 1530 – 1540)
3. Mạc Đăng Hải (1541 - 1546)
4. Mạc Đăng Nguyên(1546 - 1561)
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 17
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
5. Mạc Đăng Hợp (1562 - 1592)
TRIỀU HẬU LÊ (LÊ TRUNG HƯNG )
NAM BẮC TRIỀU (1533 - 1548)
Năm 1527 , Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê lập nên triều Mạc. Năm 1533
nhà Lê lại được dưng lên trên đất Lào. Mặc dù vua ở đất Lào nhưng đã có niên
hiệu, các nhà chép sử gọi đây là thời Trung Hưng. Năm 1543 nhà Lê chiếm được
Tây kinh (Thanh Hoá), từ đó nhà Lê cai quản từ Thanh Hoá, Nghệ An trở vào
cùng với sự giúp đỡ của họ Nguyễn rồi họ Trịnh (Nam Triều). Vùng Bắc Bộ
thuộc quyền họ Mạc (Bắc Triều). Từ đó bắt đầu một cuộc nội chiến kéo dài khốc
liệt hơn 50 năm, gọi là nội chiến Nam – Bắc triều. Nhà Mạc sau đó bị nhà Lê
tiêu diệt.

Lê Trang Tông (1533 – 1548)
Lê Trung Tông (1548 – 1556)
Lê Anh Tông (1556 – 1573)
VUA LÊ – CHÚA TRỊNH
Họ Trịnh có công lớn trong việc khôi phục nhà Lê nên vua Lê Trang Tông
tuy ngồi ở ngôi chí tôn nhưng quyền hành đều do Trịnh Kiểm nắm giữ .Có nghĩa
là bên cạnh vua là chúa nên gọi là vua Lê – chúa Trịnh.
Lê Thế Tôn (1573 – 1599)
TRỊNH - NGUYỄN PHÂN TRANH
Lê Kính Tôn (1600 – 1619)
Lê Thần Tông (1619 – 1643 )
Lê Chân Tông (1643 – 1649)
Lê Thần Tông (1649 – 1662)
Lê Huyền Tông (1663 – 1671)
Lê Gia Tông (1672 – 1675)
Lê Hy Tông (1676 – 1705)
Lê Dụ Tông (1705 – 1728)
Hôn Đức Công (1729 – 1732)
Lê Thuần Tông (1732 – 1735)
Lê Y Tông (1735 – 1740)
Lê Hiến Tông (1740 – 1786)
Lê Mẫn Đế (1787 – 1789)
DÒNG DÕI CHÚA TRỊNH (1545 – 1786)
Thế tổ minh khang Trịnh Kiểm (1545 – 1570)
Thành tổ triết vương Trịnh Tùng (1570 – 1623)
Văn tổ nghị vương Trịnh Tráng (1623 – 1652)
Hoằng tổ dương vương Trịnh Tạc (1653 – 1682)
Chiêu tổ khang vương trịnh Căn (1682 – 1709)
Hi tổ nhân vương Trịnh Cương (1709 – 1729)
Dụ tổ thuận vương Trịnh Giang (1729 – 1740)

Nghị tổ ân vương Trịnh Doanh (1940 – 1767 )
Thái tổ tịnh vương Trịnh Sâm (1767 – 1782)
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 18
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Đoạn nam vương Trịnh Tông (1782 – 1786)
An đô vương Trịnh Bồng (1786 – 1787)
DÒNG DÕI CÁC CHÚA NGUYỄN (1600 – 1802)
Nguyễn Kim (cha của Nguyễn Hoàng ) có công lớn trong việc trung hưng
nhà Lê. Khi Nguyễn Kim chết thì Trịnh Kiểm tìm cách thâu tóm quyền lực thì tìm
cách loại bỏ con của Nguyễn Kim, chỉ còn Nguyễn Hoàng biết giữ mình nên sống
sót Nguyễn Hoàng muốn trả thù nhưng chưa biết làm sao thì được trạng trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên: Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”(có nghĩa
là :một dải núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời ). Hoàng nhờ chị gái nói
với Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hoá(Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay) .
Nguyễn Hoàng (1600 – 1635)
Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635)
Nguyễn Phúc Lan(1635 – 1648)
Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687)
Nguyễn Phúc Trăn (1687 – 1691)
Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725)
Nguyễn Phúc Chú (1725 – 1738)
Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765 )
Nguyễn Phúc Thuần (1765 – 1777)
Nguyễn Phúc Anh (1780 – 1802)
TRIỀU TÂY SƠN (1778 – 1802), kinh đô PHÚ XUÂN (Huế)
Thái Đức Hoàng Đế (Nguyễn Nhạc ,1778 – 1793)
Quang Trung Hoàng Đế (Nguyễn Hụê, 1789 – 1792 )
Cảnh Thịnh Hoàng Đế (1792 – 1802)
TRIỀU NGUYỄN (1802 – 1945), quốc hiệu VIỆT NAM từ Minh
Mạng(1838)là ĐẠI NAM, kinh đô HUẾ (Thừa – Thiên )

THỜI KÌ ĐỘC LẬP
Gia Long Hoàng Đế (Nguyễn Anh, 1802 – 1819)
Minh Mệnh Hoàng Đế (1820 – 1841)
Thiệu Trị Hoàng Đế (184 – 1847)
Tự Đức Hoàng Đế (1848 – 1883)
THỜI KÌ THUỘC PHÁP
Dục Đức (làm vua ba ngày )
Hiệp Hoà (1883 – 1883)
Kiến Phúc (1883 – 1884)
Hàm Nghi (1883 – 1885 )
Đồng Khánh (1885 – 1888 )
Thành Thái (1889 – 1907 )
Duy Tân (1907 – 1916 )
Khải Định (1916 – 1925 )
Bảo Đại (tên thật là Vĩnh Thuỵ, vị hoàng đế cuối cùng của chế độ phong
kiến Việt Nam, 1926 – 1945)
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 19
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Đã cung cấp tư liệu thì trong quá trình dạy học giáo viên cần cho HS vận
dụng để các em thấy kiến thức đó là bổ ích. Có như vậy thì HS mới chịu đọc, còn
không thì dù có các em cũng bỏ đó mà không dung tới.
Chẳng hạn: khi gọi HS lên bảng ngoài các câu hỏi trong chương trình thì
giáo viên có thể sử dụng câu hỏi phụ để hỏi HS về những kiến thức bổ sung như:
hãy kể tên các vua thời Lý. Làm như vậy HS sẽ cố gắng đọc để biết thêm.
Ví dụ 3. Cũng trong mục II
2
– bài 12 – Đời sống kinh tế, văn hóa có nói
đến Nho giáo, giáo viên có thể cung cấp tư liệu nói về nội dung của Nho giáo:
Nội dung cơ bản của Nho giáo
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ

chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo
cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ
làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân",
những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo
đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là
những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được
lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm
quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo",
phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành
đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu
thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành
chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia
đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời
giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh
trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh).
Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn
tại của nó.
1. Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức để làm
chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và
Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã
hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
a. Tam cương: tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan
hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).
trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên
những nguyên tắc“chết người”
- Quân thần: ("Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" nghĩa là: dù vua
có bảo cấp dưới chết đi nữa thì cấp dưới cũng phải tuân lệnh, nếu cấp
dưới không tuân lệnh thì cấp dưới không trung với vua)Trong quan hệ

vua tôi, vua thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 20
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
- Phụ tử: ("phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khiến con
chết, con không chết thì con không có hiếu)")
- Phu phụ: ("phu xướng phụ tùy" nghĩa là: chồng nói ra, vợ phải theo)
b. Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều
phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
c. Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải
theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
- Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,
- Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
- Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"
d. Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ
phải có, là: công - dung - ngôn - hạnh.
- Công: khéo léo trong việc làm.
- Dung: hòa nhã trong sắc diện.
- Ngôn: mềm mại trong lời nói.
- Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
• Đạt đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà
người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có
năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn
bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ,
huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân

[1]
. Trong xã
hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân
được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là
Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
• Đạt đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử
nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân
không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách
Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở
thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên
có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là
ngũ thường.

• Biết thi, thư, lễ, nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người
quân tử còn phải biết "thi, thư, lễ, nhạc". Tức là người quân tử còn phải có
một vốn văn hóa toàn diện.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 21
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
2. Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn -
trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim
chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương
châm:
• Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu
người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là
nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình
không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được
coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có

nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách
Luận ngữ).
• Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi
người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời
không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ).
Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử
tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo,
chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư,
lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà
không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo
đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
Cũng như trên, trong kiểm tra bài cũ có thể giáo viên đặt câu hỏi phụ cho
HS nêu nội dung của Nho giáo và liên hệ thực tế tới cuộc sống bây giờ.
Ngoài ra giáo viên còn có thể cung cấp thêm tư liệu về các nhân vật lịch sử
như: Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, … cho HS.
Làm được như vậy, khi kết thúc chương trình lịch sử lớp 7 HS sẽ có được
cái nhìn khái quát về lịch sử Việt Nam thời phong kiến.
4. Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề và liên hệ với
thực tế để giáo dục tư tưởng cho học sinh.
Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề là một yêu cầu trong dạy học hiện nay. Và
thực tế dạng câu hỏi này mang lại hiệu quả cao trong dạy học. Câu hỏi dạng này
có không gian sử dụng rộng. Nó được sử dụng rất hiệu quả khi đặt học sinh vào
tình huống có vấn đề với những câu hỏi có vấn đề vì đã “đụng” vào sự tò mò của
HS.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 22
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Một trong những mục tiêu lớn của giáo dục nói chung và môn lịch sử nói

riêng là giáo dục tư tưởng cho HS. Thông qua môn lịch sử HS sẽ được bồi dưỡng
thêm các truyền thống quý báu của dân tộc, giúp các em thêm yêu quê hương, đất
nước mình,… Đó cũng là điều kiện, động lực để các em cố gắng sau này lớn lên
sẽ ra sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Việc giáo dục tư tưởng cho HS phải được tiến hành trong từng bài học.
Giáo viên có thể nêu ra các tình huống có vấn đề cũng có thể liên hệ kiến thức
đang học với hiện tại để thực hiện ý đồ của mình.
Khi thực hiện việc giáo dục tư tưởng cho HS, giáo viên phải để cho HS tự
thể hiện ý kiến của mình. Có thể cho HS đặt mình vào tình huống để nêu lên ý
kiến. Ý kiến của HS có thể phù hợp cũng có thể không phù hợp với quan điểm
dạy học. Trong trường hợp đó giáo viên cần định hướng, giải thích cho HS hiểu
vấn đề.
Ví dụ 1. Sau khi kể cho HS nghe chuyện về thái hậu Dương Vân Nga ở
bài 9 – Nước Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê (mục 2 – Tổ chức chính quyền
thời Tiền Lê), giáo viên có thể đặt câu hỏi: nếu em là thái hậu thì trong trường
hợp đó em có làm như thái hậu hay không? Thái hậu làm như vậy có chấp nhận
được không?
Trong trường hợp này giáo viên không chỉ cho một HS thể hiện ý kiến mà
nên cho nhiều học sinh thể hiện ý kiến và giải thích tại sao lại làm như vậy.
Trên cơ sở đó giáo viên cho HS thấy việc làm của thái hậu là phù hợp, bà
biết đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, bà là tuy là phụ nữ nhưng
có tầm nhìn xa. Đó là điều đáng quý, đáng trân trọng, …
Ví dụ 2. Dạy mục 2 – Luật pháp và quân đội – bài 10 – Nhà Lý đẩy
mạnh công cuộc xây dựng đất nước khi nói về sách lược “Ngụ binh ư nông”
có thể đặt câu hỏi: quân đội ta ngày nay có thực hiện chiến lược này hay không?
Sau khi cho HS thể hiện ý kiến, giáo viên có thể liên hệ đến việc thực hiện
chế độ Quân nhân dự bị, việc cho học quân sự ở cấp THPT, cao đẳng, đại học
của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Từ đó HS sẽ thấy được sự tiếp nối truyền
thống của ông cha ta, đó là một điều nên làm.
Ví dụ 3. Khi dạy bài 18 – Cuộc kháng chiến của nhà Hồ và phong trào

khởi nghĩa chống quân Minh đầu thế kỉ XV, ở mục 1 – Cuộc xâm lược của
quân Minh và sự thất bại của nhà Hồ. Để làm rõ việc tại sao nhà Hồ lại thất bại
dù rất cố gắng chống giặc. Giáo viên có thể đặt câu hỏi nêu vấn đề: Nhà Hồ tuy
có nhiều chính sách quốc phòng rất hay nhưng lại dễ dàng bị quân Minh, một
đội quân không mạnh bằng Mông Cổ đè bẹp trong lúc đó quân Trần lại chiến
thắng một đội quân hùng mạnh vào bậc nhất thế giới lúc bấy giờ?
Hoặc câu: Theo em cách đánh giặc của nhà Trần và nhà Hồ có gì khác
nhau?
HS có thể thấy được rằng nhà Trần biết dựa vào kinh nghiệm của ông cha,
có chiến lược chiến thuật hợp lí, đặc biệt biết dựa vào nhân nhân, được nhân dân
ủng hộ còn nhà Hồ lại không có được những điều trên nên nhanh chống thất bại.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 23
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
Từ đó giáo viên cho HS thấy được giá trị của tinh thần đoàn kết, vai trò
của nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Giáo viên cũng có thể lien hệ đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ sau này.
Trong bất cứ bài lịch sử nào giáo viên cũng đưa ra được câu hỏi nêu vấn đề
và giáo dục tư tưởng cho HS. Điều quan trọng là giáo viên phải vận dụng đúng
lúc, đúng chỗ mới mang lại hiệu quả cao.


Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 24
Trường THCS Lạc Hòa Sáng Kiến kinh nghiệm
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1. Kết quả
Trên đây là một số biện pháp giúp dạy tốt môn lịch sử lớp 7 ở trường
THCS Lạc Hòa mà tôi đã thực hiện. Sau đây tôi xin trình bày kết quả đã thực
hiện được:
Năm học 2008 – 2009 (Kết quả của HK I)

Tổng số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu
116 13 (11.2%) 21 (18.1%) 61 (52.6%) 21 (18.1%)

Năm học 2009 – 2010 (Kết quả của HK I)
Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu
156 30(19.2%) 31(19.9%) 84(53.8%) 11(7.1%)
2. Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình vận dụng những biện pháp trên vào bài giảng tôi rút ra một
số kinh nghiệm sau:
Người giáo viên phải biết kết hợp hài hòa mục tiêu cần đạt với nội dung
cách làm mới. Có như vậy tiết dạy mới bảo đảm nội dung.
Khi vận dụng người giáo viên phải sếp xếp thời gian hợp lí, nếu không sẽ
không đủ thời gian cho mỗi tiết dạy.
Giáo viên phải tìm mọi cách cho HS tự nêu lên thắc mắc của mình khi
nghe câu chuyện hay nhìn vào một tấm ảnh, có như vậy mới để lại ấn tượng sâu
sắc trong trí nhớ của các em.
Hình ảnh khi in ra cần được ép lại để có thể sử dụng lâu dài.
Giáo vien nên thường xuyên đặt câu hỏi có liên quan đến các tài liệu mà
mình cung cấp cho các em để HS thấy rằng đọc nó rất bổ ích…
Lạc Hòa, ngày 25 tháng 12 năm 2009
Người thực hiện
NGUYỄN ĐỨC DŨNG
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng Trang 25

×