Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.03 KB, 102 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những thành tựu phát triển KT-XH của thành phố Đà Nẵng trong những
năm qua, có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). FDI thực sự trở thành một nguồn vốn quan trọng cho phát triển,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở ra nhiều ngành nghề,
sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, tạo thêm
việc làm, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển quan hệ kinh tế
đối ngoại của thành phố ven biển miền Trung. Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã và đang trở thành một bộ phận kinh tế quan trọng của thành phố,
đóng góp ngày càng tăng trong tổng sản phẩm của thành phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, hoạt động FDI những năm qua còn bộc lộ nhiều mặt yếu
kém. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang đặt ra triển vọng và
thách thức lớn trên nhiều lĩnh vực trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX (nhiệm kỳ
2006-2010) đã đặt ra yêu cầu: Thực hiện đầy đủ và vận dụng linh hoạt các cơ
chế chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ sản xuất kinh doanh đi đôi với tiếp tục
nghiên cứu ban hành một số cơ chế chính sách ưu đãi nhằm tạo môi trường
thông thoáng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) [2, tr.60].
Nâng cao sự tác động tích cực của FDI đối với phát triển KT-XH thành
phố sẽ góp phần thực hiện tốt Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16-10-2003 của
Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ
CNH, HĐH đất nước, hoàn thành mục tiêu: đưa thành phố Đà Nẵng trở thành
“một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế- xã hội lớn của
miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch
vụ;…. phấn đấu để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ bản trở thành thành phố công
nghiệp trước năm 2020”.
Nghiên cứu sự tác động FDI đối với phát triển KT-XH trong thời gian
qua ở thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao
sự tác động tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với KT-XH của Đà


Nẵng là rất cần thiết. Do vậy, vấn đề “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng” được chọn làm đề tài nghiên
cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung là vấn đề được nhiều học giả
quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam đã xuất bản nhiều sách, báo, công trình
nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam như:
- Những vấn đề giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (Nguyễn Khắc Thân, Chu Văn Cấp chủ
biên – NXB Pháp lý H.1992);
- Luận văn tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Huy Thám “Kinh nghiệm thu hút
vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam”
(H.1999);
- Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cơ sở pháp lý - hiện trạng - cơ hội -
triển vọng (NXB Thế giới H.1994);
- Luận án PTS của Mai Đức Lộc “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc
phát triển kinh tế Việt Nam" (H.1994);
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và giải pháp (Trần
Xuân Tùng, Nxb Chính trị quốc gia H.2005).
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam (Nguyễn
Anh Tuấn, Nxb Tư pháp, H.2005).
- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam (CIEM SIDA, Nxb Khoa học kỹ thuật, H.2006).
Các đề tài trên đã nghiên cứu bản chất và xu hướng vận động của đầu tư
trực tiếp nước ngoài, đề ra một số giải pháp trong thu hút, quản lý FDI ở Việt Nam.
Đặc biệt, đã có một số công trình nghiên cứu vấn đề thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài trên địa bàn Đà Nẵng được công bố giúp chung ta có cái nhìn
tương đối rõ hơn tình hình, triển vọng của hoạt động đầu tư nước ngoài của
thành phố ven biển miền Trung này như:
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thành phố Đà Nẵng (Luận án Thạc

sỹ kinh tế của Nguyễn Hữu Chiến H.1999);
Một số giải pháp cơ bản nhằm thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (đề tài khoa học cấp thành phố- Trung
tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng- ĐN. 2003).
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề: “Tác động đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng” dưới góc
độ khoa học kinh tế - chính trị. Do đó, đề tài luận văn này là cần thiết và
không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tìm giải pháp nâng cao sự tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực
của FDI vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Thực trạng sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát
triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng;
- Tìm ra nguyên nhân những sự tác động tích cực cũng như tiêu cực của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng;
- Đề ra các giải pháp để nâng cao tác động tích cực của FDI đối với đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đối tượng khảo sát: các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng,
tình hình KT-XH có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phạm vi khảo sát: địa bàn thành phố Đà Nẵng, thời gian từ khi thành phố
Đà Nẵng được tách ra từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, để trở thành đơn vị
hành chính trực thuộc trung ương (năm 1997-nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,

luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia,
phân tích, tổng hợp, so sánh…, đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả của một
số công trình nghiên cứu có liên quan.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Đánh giá sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với KT-XH ở
thành phố Đà Nẵng kể từ khi Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc
Trung ương đến nay;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao sự tác động tích cực của đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ VAI TRÒ FDI
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ –XÃ HỘI
1.1. BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1 Khái niệm đầu tư (Investment)
Có nhiều cách hiểu đầu tư, nhưng thông thường đầu tư được coi là “bỏ
vốn (tiền của, sức lao động, thì giờ…) vào một công cuộc” [11, tr.257]; hoặc
là việc “nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình
thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư”[11, tr.257], nhằm đạt được
những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm, khái niệm, định nghĩa về đầu tư,
trong đó có 2 khái niệm tiêu biểu về đầu tư như sau:
Đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm tạo
ra năng lực vốn lớn hơn. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di
chuyển vốn vào hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lại một khoản tiền
lớn hơn.

Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian
tương đối dài (từ 2 năm trở lên) nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích KT-
XH.
Theo những định nghĩa trên, thì hoạt động đầu tư phải có các đặc trưng
sau: đầu tư là một hoạt động tài chính (bỏ vốn thu lợi nhuận), vốn đầu tư có
thể là tiền hoặc tài nguyên nói chung; đầu tư là hoạt động trong khoảng thời
gian tương đối dài; đầu tư hoạt động bỏ vốn hiện tại, nhằm thu lợi trong tương
lai, vì thế đầu tư có tính rủi ro cao.
Tóm lại, đầu tư là hoạt động bỏ vốn trong một thời gian tương đối dài
nhằm thu được lợi nhuận (hoặc các lợi ích KT-XH). Vốn đó từ nhiều nguồn
khác nhau như quỹ tích luỹ của tái sản xuất xã hội hoặc thu hút từ nước ngoài
dưới nhiều hình thức.
Người bỏ vốn đầu tư được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư, chủ đầu tư
có thể là cá nhân, tổ chức hay nhà nước. Nếu phân loại đầu tư theo quan hệ
quản lý của chủ đầu tư, thì có thể chia làm hai loại đầu tư:
“Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư).
“Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và
thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không
trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”(điều 3, Luật Đầu tư).
1.1.2. Đầu tư nước ngoài
1.1.2.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước khác
nhằm mục đích kiếm lời. Đầu tư nước ngoài có một số đặc điểm khác với đầu
tư nội địa đó là:
Chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài, điều này sẽ có liên quan đến các
quy định về xuất nhập cảnh, về phong tục tập quán, ngôn ngữ...;
Các yếu tố đầu tư được di chuyển ra khỏi biên giới, đặc điểm này liên
quan đến các chính sách, pháp luật về hải quan và cước phí vận chuyển;

Vốn đầu tư có thể là tiền tệ, vật tư hàng hóa, tư liệu sản xuất, tài nguyên
thiên nhiên nhưng được tính bằng ngoại tệ, đặc điểm này liên quan đến chính
sách tài chính và tỷ giá hối đoái của các nước tham gia đầu tư.
Quan niệm đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước theo Luật Đầu tư
năm 2005 của nước ta là: “Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước
bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư
tại Việt Nam”. “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động
đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư).
1.1.2.2. Hình thức biểu hiện của đầu tư nước ngoài
- Vốn ODA, đây là nguồn viện trợ song phương hay đa phương dưới dạng
viện trợ không hoàn lại hay lãi suất và thường đi kèm theo điều kiện về chính trị.
- Vốn tín dụng thương mại, chủ yếu là nhằm hỗ trợ cho hoạt động
thương mại, xuất nhập khẩu giữa các nước.
- Vốn đầu tư từ việc bán cổ phiếu, trái phiếu... cho người nước ngoài
(Foreign Portfolio Investment). Thực chất là người nước ngoài tham gia đầu
tư vào các công ty đã phát hành ra cổ phiếu, trái phiếu.
- Vốn FDI, là nguồn vốn đầu tư khá phổ biến hiện nay của nước ngoài
(có thể là tư nhân, tổ chức, hay nhà nước hoặc là sự phối hợp) đầu tư vào một
quốc gia nào đó nhằm mục đích kiếm lợi nhuận là chủ yếu, thông qua hoạt
động sản xuất kinh doanh ngay tại nước nhận đầu tư.
Các hình thức đầu tư trên đều được các nhà đầu tư nước ngoài vận dụng
linh hoạt nhằm đem lại hiệu quả cao. Trên thực tế, nguồn vốn ODA và FDI
phổ biến hơn, hai nguồn này đều có vị trí quan trọng theo quan điểm của từng
nước, ở từng thời điểm.
1.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Có nhiều khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Quỹ Tiền tệ quốc
tế (IMF): FDI là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước
khác (nước nhận đầu tư) không phải nước mà doanh nghiệp đang hoạt động

(nước đi đầu tư) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp.
Theo Uỷ ban Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc (UNCTAD)
thì: FDI là đầu tư có mối liên hệ lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp
nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với
một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI, hoặc chi nhánh
nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp).
Tiêu thức phân biệt FDI với hoạt động đầu tư nội địa thường tập trung
vào các đặc trưng sau:
- Về vốn góp, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối
thiểu theo quy định của mỗi nước nhận đầu tư để có quyền trực tiếp tham gia
điều phối, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh;
- Về quyền điều hành quản lý, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ
thuộc vào mức vốn góp, nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền hành
hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý;
- Về phần chia lợi nhuận, dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ,
đều được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các
khoản đóng góp.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu FDI là sự di chuyển vốn quốc tế
dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn
vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành,
tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm
quản lý... nhằm mục đích thu lợi nhuận.
1.1.3.2. Các hình thức cơ bản của FDI
Có nhiều tiêu thức để xác định hình thức FDI, về cơ bản là:
Thứ nhất, xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân làm hai hoặc đầu tư
theo chiều ngang và đầu tư theo chiều dọc.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang: là việc một công ty tiến
hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi
thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm
lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước

ngoài. Hình thức này thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền mà Mỹ, Nhật Bản
đang dẫn đầu việc đầu tư này ở các nước phát triển.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc: Với mục đích khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như lao động, đất đai
của các nước nhận đầu tư. Các nhà đầu tư thường khai thác các lợi thế cạnh
tranh đó để hoàn thiện qua lắp ráp ở nước chủ nhà. Sau đó các sản phẩm được
bán trên thị trường quốc tế. Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển.
Thứ hai, xét về hình thức sở hữu, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có
các hình thức sau:
+ Doanh nghiệp liên doanh: đây là hình thức FDI, qua đó pháp nhân mới
được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai
hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật
của nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một
pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập
với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên
doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi
bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh
trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn
bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý,
điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp: đây là hình thức đầu tư
trực tiếp, hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên
(gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động
kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia
kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí nghiệp

liên doanh hoặc pháp nhân mới. Hình thức này không làm hình thành một
công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân
độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nhà nước.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công
trình xây dựng còn có hình thức:
+ BOT: là một phương thức đầu tư trực tiếp, thực hiện trên cơ sở văn
bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước
ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, để xây dựng kinh doanh công
trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn kinh doanh,
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao cho nước chủ nhà công trình đó mà không
nhận bồi hoàn bất kỳ khoản nào.
Hợp đồng BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài,
cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần góp vốn của chính
phủ hoặc các tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà.
+ BTO: là phương thức đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng,
kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư
nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể sẽ
dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất
định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
+ BT: là một phương thức đầu tư nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước
ngoài, để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà
đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính phủ
nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác
để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Các hình thức BOT, BTO, BT có ưu điểm là thu hút vốn đầu tư vào
những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng với đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn
trong thời gian khá dài. Như vậy sẽ làm giảm áp lực cho ngân sách, đồng thời
lại có được các công trình hoàn chỉnh để phát huy các nguồn lực khác nhằm phát

triển KT-XH. Tuy nhiên, với các phương thức này, nước chủ nhà khó tiếp nhận
kinh nghiệm quản lý, công nghệ tiên tiến và khó kiểm soát công trình.
Ngày nay, cùng với sự gia tăng của dòng vốn FDI, thì ngày càng xuất
hiện nhiều hình thức đầu tư mới, đa dạng nhằm đưa lại hiệu quả cao cho nhà
đầu tư và nước nhận đầu tư.
1.1.3.3. Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay
FDI phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế và thương mại thế
giới. Toàn cầu hóa kinh tế ngày càng thúc đẩy sự phát triển các luồng vốn
FDI, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của vốn đầu tư thông qua di chuyển sản xuất,
kinh doanh đến địa điểm có lợi nhất về chi phí và tiêu thụ. Vai trò của các
công ty xuyên quốc gia ngày càng tăng lên trong quá trình phân bổ và di
chuyển các dòng vốn FDI trên thế giới. Ngày nay, sự vận động của FDI biểu
hiện trên một số xu hướng sau:
Cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng,
vốn đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh và trở thành một hình thức
quan trọng trong hoạt động đầu tư của các quốc gia trên thế giới.
Theo báo cáo của UNCTAD về đầu tư thế giới, tổng vốn lưu chuyển
quốc tế trong mấy thập kỷ vừa qua tăng mạnh với mức tăng bình quân khoảng
20 - 30%/năm. Những năm 1970, vốn FDI toàn thế giới mới ở mức khoảng 25
tỷ USD, đến thời kỳ năm 1980 - 1985 đã tăng gấp đôi, đến năm 1995 đã đạt
mức 235 tỷ USD. Năm 2000, cùng với đà phục hồi của kinh tế thế giới sau
một thời gian ngừng trệ do chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ Châu Á (1997 - 1999) vốn FDI đạt đến mức kỷ lục, vượt ngưỡng 1.000
tỷ USD, trong đó có phần tăng mạnh do xu hướng sáp nhập và mua lại các
công ty, hình thành các công ty, tập đoàn khổng lồ chưa từng có trước đây.
Năm 2001, FDI giảm xuống mức 760 tỷ USD và năm 2002 giảm tiếp, chỉ còn
543 tỷ USD do trào lưu mua lại, sáp nhập công ty đã giảm xuống và ảnh
hưởng của tình trạng trì trệ, suy thoái của kinh tế thế giới, sự phục hồi chậm
chạp của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu (EU).
Nhìn chung, luồng vốn FDI đã có khối lượng lớn, chiếm tỷ trọng đáng

kể và trở thành bộ phận quan trọng trong tổng vốn đầu tư và tài chính, sự tiến
bộ nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn
thông, đã tạo ra những khả năng mới cho các hoạt động đầu tư nước ngoài
diễn ra thuận lợi, nhanh chóng hơn, là cơ sở của sự gia tăng quy mô và tính đa
chiều, đa dạng của hoạt động FDI.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành một xu thế khách
quan, tác động đến sự phát triển của tất cả các nước, thì việc Việt Nam mở
cửa thu hút FDI đang trở thành một đòi hỏi cấp thiết để tăng cường tiềm lực
kinh tế, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý, góp phần mở rộng
thị trường, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Sự phân bổ dòng vốn FDI không đều, phần lớn tập trung ở các nước
công nghiệp phát triển, dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển
tuy có chiều hướng tăng lên nhưng tỷ trọng còn rất nhỏ bé.
Cũng theo báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD, năm 1999 các nước
phát triển chiếm 76,5% trong tổng số 865 tỷ USD vốn FDI toàn cầu, trong khi
các nước đang phát triển chia nhau số vốn còn lại (khoảng 192 tỷ USD); năm
2000, thu hút vốn FDI của các nước đang phát triển được cải thiện, đạt trên
200 tỷ USD trong tổng số khoảng 1.200 tỷ USD FDI toàn cầu; năm 2001 và
2002, khoảng 80% lượng vốn FDI toàn cầu được đầu tư giữa các nước công
nghiệp với nhau, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được khoảng 20%
lượng vốn còn lại. EU là nguồn cung cấp FDI lớn nhất và chủ yếu là trao đổi
tư bản trong nội bộ khối; vốn đầu tư ra ngoài EU lại hướng trước hết vào Mỹ.
Mỹ cũng là nhà cung cấp FDI thuộc loại lớn nhất, nhưng đồng thời cũng là
nước tiếp nhận FDI hàng đầu thế giới (cho đến trước năm 2002).
Trước xu thế trên, để thu hút được nhiều FDI phục vụ cho sự nghiệp
CNH, HĐH, chúng ta cần phát huy những lợi thế của nước ta như: chính trị
ổn định, KT-XH phát triển, môi trường đầu tư đang được cải thiện, các yếu tố
đầu vào sản xuất rẻ...
Dòng vốn FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các
TNCs của các nước phát triển.

Mặc dù ngày càng có sự đa dạng hóa trong các đối tác và chủ thể tham
gia vào quá trình luân chuyển FDI, nhưng thực chất dòng vốn FDI quốc tế
hiện nay đang bị chi phối bởi các công ty xuyên quốc gia ở các nước phát
triển. Các công ty xuyên quốc gia trở thành những chủ thể đầu tư trực tiếp với
khối lượng kiểm soát trên 90% tổng FDI toàn thế giới, đồng thời là lực lượng
chủ yếu vận hành những mảng lớn của nền kinh tế thế giới, nắm vững nguồn
vốn tài chính, kỹ thuật, nắm giữ các ngành kinh tế then chốt và mũi nhọn,
kiểm soát thương mại quốc tế theo thống kê, các công ty xuyên quốc gia nắm
giữ gần 40% sản lượng công nghiệp; 60% ngoại thương, 80% kỹ thuật mới
của thế giới tư bản. Chỉ tính riêng 100 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới
(tất cả đều thuộc Mỹ, EU và Nhật Bản) đã chiếm 1/3 FDI toàn cầu và tổng tài sản
ở nước ngoài của các công ty này đã lên tới 1.400 tỷ USD, sử dụng 73 triệu lao
động, trong đó lao động ở nước ngoài là 12 triệu, chiếm trên 16%.
Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia tiếp tục vươn ra các khu vực khác
nhau trên thế giới với quy mô FDI ngày càng lớn, đóng vai trò ngày càng
quyết định đối với lĩnh vực này. Bên cạnh việc giữ vững các khu vực đầu tư
truyền thống như Châu Âu, Bắc Mỹ, các công ty xuyên quốc gia đang gia
tăng hoạt động đầu tư vào những địa bàn mới đầy triển vọng. Đặc biệt, tất cả
các công ty xuyên quốc gia đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực châu Á. Đây
cũng là địa bàn ưu tiên đầu tư hàng đầu của Nhật Bản, hàng thứ hai của Mỹ (sau
Châu Âu) và hàng thứ ba của các nước Châu Âu (sau Bắc Mỹ và Châu Âu).
Đối với nước ta, cần chú trọng đến thu hút FDI từ các TNCs sẽ tận dụng
sức mạnh về tài chính, công nghệ và khả năng tiếp cận thị trường thế giới của
các TNCs vào quá trình phát triển KT-XH, hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Mặt khác, Việt Nam hiện là một trong những địa bàn mới đầy triển
vọng để các TNCs nhắm tới đầu tư.
 Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và giữa các nước tiếp nhận đầu
tư với nhau ngày càng cao. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới và tiến
trình toàn cầu hóa làm cho nguồn vốn FDI ngày càng mở rộng và gia
tăng nhưng đồng thời nhu cầu thu hút sử dụng FDI ở tất cả các nước.

Đặc biệt là các nước đang phát triển cũng ngày càng lớn, dẫn đến sự
cạnh tranh quyết liệt giữa các nước và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn
này. Các nước nhận FDI - đặc biệt là các nước vừa phục hồi sau khủng
hoảng, các nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển
khác có xu hướng tập trung nỗ lực đẩy mạnh việc cải thiện môi trường
đầu tư theo hướng thông thoáng, mở cửa rộng hơn, tạo điều kiện kết cấu
hạ tầng ngày càng thuận lợi hơn, kích thích tiêu dùng nội địa, dỡ bỏ bớt
những “rào cản” trong các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực nhạy cảm như bảo
hiểm, viễn thông, năng lượng... nhằm thu hút, “lôi kéo” FDI.
Trong tổng FDI toàn cầu, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được
trên 20%, nhưng 2/3 của số đó lại tập trung vào một số nước có điều kiện
thuận lợi và sức hấp dẫn đầu tư cao như Trung Quốc, ấn Độ, Singapore, Hàn
Quốc... Hàn Quốc trước đây là nước chủ yếu sử dụng vay nợ nước ngoài để
phát triển. Từ cuối những năm 1980 và nhất là sau khủng hoảng tài chính, tiền
tệ khu vực đã thay đổi chính sách, chuyển sang mở cửa thu hút mạnh FDI để
cơ cấu lại nền kinh tế. Trong đó có việc cơ cấu lại hệ thống các tập đoàn kinh
tế, do vậy đã thoát nhanh khỏi khủng hoảng, tạo ra sức sống mới cho nền kinh
tế. Nhiều nước khác trong khu vực cũng đang tích cực cải thiện môi trường
đầu tư, cạnh tranh trong việc thu hút FDI như Thái Lan, Malaysia, Philippin...
Hiện nay đang có sự cạnh tranh khá gay gắt về thu hút FDI trong khu vực
đang xuất hiện xu hướng dịch chuyển luồng vốn FDI từ một số nước ASEAN
sang Trung Quốc...
Không chỉ có sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư, cuộc cạnh
tranh giữa các nhà đầu tư cũng không kém phần quyết liệt, tạo cho các nước
tiếp nhận đầu tư có khả năng lực chọn. Các nhà cung cấp FDI đang “ráo riết”
chào mời để có thể nhảy vào những lĩnh vực và thị trường kinh doanh béo bở,
những dự án lớn được chính phủ nước sở tại khuyến khích bảo lãnh, bảo hộ...
Trong bối cảnh đó, nước ta cần có chiến lược thu hút đầu tư và sử dụng
FDI, chiến lược ấy phải phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH. Trong đó
mức độ ổn định về chính trị - xã hội, kết quả của sự nghiệp đổi mới đất nước,

hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư là những yếu tố quan trọng
quyết định để tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam nhằm thực hiện những mục
tiêu KT-XH.
FDI giữa các đối tác tham gia quá trình luân chuyển vừa có tính quốc
tế hóa, vừa có tính cục bộ hóa.
Các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến FDI và nhận thức được tầm
quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế và phân công lao động quốc tế
trong quá trình toàn cầu hóa. Cùng với tốc độ lưu chuyển vốn quốc tế nhanh,
thị trường tài chính của các quốc gia đang mở rộng hơn, tạo nên xu thế ngày
càng hội nhập vào thị trường tài chính thế giới.
Hiện tượng “đa biên hóa” trong xu hướng vận động của FDI ngày càng
đậm nét, rất nhiều các công trình có sự tham gia của “tập thể” nhiều chủ đầu
tư. Sự tham gia này có thể dưới dạng góp cổ phần hoặc phân nhỏ công trình
thành các hạng mục đầu tư cho nhiều chủ thể tham gia. Tuy nhiên, FDI cũng
mang tính cục bộ khu vực, chẳng hạn như các nước EU là những nhà đầu tư
hàng đầu thế giới, nhưng phần lớn khối lượng đầu tư được thực hiện ngay
trong nội bộ các nước EU. Do các yếu tố về địa lý và văn hóa mà hiện nay,
trên thế giới đã hình thành các nhà đầu tư truyền thống của từng khu vực; ví
dụ: Nam Mỹ là “lãnh địa” của các nhà đầu tư Mỹ, còn Nhật Bản đang nắm
giữ thị phần đầu tư lớn ở Đông Á.
Như vậy, đối tác đầu tư của nước ta trong thời gian tới vừa đa dạng theo
hướng đa phương, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, vừa tập trung vào các nhà
đầu tư có tiềm lực tài chính, công nghệ, có uy tín và kinh nghiệm từ Nhật
Bản, Mỹ, Trung Quốc....
Hầu hết các nước đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận
đầu tư.
Hầu hết các nước đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận
đầu tư. Năm 1998, EU đầu tư ra nước ngoài 368 tỷ USD, nhưng cũng tiếp
nhận 230 tỷ USD vốn FDI, là khu vực đầu tư và tiếp nhận đầu tư trực tiếp lớn
nhất thế giới. Các nước công nghiệp phát triển (G7) chiếm 4/5 tổng FDI toàn

thế giới, nhưng cũng thu hút trên 2/3 tổng vốn FDI toàn cầu.
Quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới
ngày càng sâu sắc, giúp các quốc gia phát huy lợi thế so sánh của mình khi
tham gia đầu tư ra nước ngoài, đồng thời bổ sung nguồn vốn đầu tư để khắc
phục những hạn chế của mình (nhất là về công nghệ và năng lực quản lý đối
với các nước đang phát triển), làm tăng hiệu quả hoạt động kinh tế trong nước
thông qua việc tiếp nhận FDI. Đây là cơ sở của sự gia tăng xu hướng đầu tư.
Hiện nay, nhiều nước và vùng lãnh thổ đang phát triển, ngoài việc thu
hút FDI từ các nước phát triển, cũng vươn lên trở thành những nhà đầu tư
quốc tế có uy tín lớn như Singapo, Đài Loan.... Tuy nhiên chủ đầu tư FDI từ
các nước này chủ yếu vào các nước có cùng khu vực địa lý và mang tính chất
chuyển giao một số ngành, cơ sở kinh tế có năng suất lao động thấp, sang các
các nền kinh tế kém phát triển hơn.
Vì thế, khi tiếp nhận FDI từ các nước này, cần phải xem xét, chọn lọc
những dự án phù hợp, để có thể đảm bảo tính hiệu quả trong thu hút và sử
dụng nguồn vốn FDI phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững và rút ngắn
khoảng cách về trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam đối với thế giới.
Mặt khác, chúng ta cũng cần mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoài để phát
huy lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.2.1. Quan niệm cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển là quá trình mà qua đó một xã hội người cùng nhau phấn đấu
thỏa mãn được các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản và hiện đại. Theo nghĩa
rộng, phát triển KT-XH bao gồm cả khía cạnh chính trị và phát triển con người.
Phát triển KT-XH là sự phát triển, trong đó tăng trưởng kinh tế nhanh, có
chất lượng, xã hội ổn định và phát triển, môi trường trong sạch. Phát triển KT-
XH nhanh, bền vững đang là vấn đề vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến
lược đối với mỗi quốc gia.
Đại hội IX của Đảng đã đưa ra mô hình tổng quát kinh tế của nước ta
trong thời kỳ quá độ là: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa". Trong mô hình kinh tế này, một mặt, chúng ta sử dụng cơ chế thị
trường với tư cách là thành quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện
để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; mặt khác, đề cao vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước đối
với nền kinh tế nhằm mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh" [12].
Các chủ trương, định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế xã hội đều hướng đến sự phát triển bền vững, với những mục tiêu:
tăng trưởng kinh tế nhanh; xã hội ổn định phát triển; môi trường trong sạch.
Ngay từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định
sự gắn kết giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, trong đó coi: trình độ
phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng
những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế.... Trên cơ sở
phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu
dùng xã hội, làm cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong phát triển sự nghiệp
giáo dục, y tế, văn hóa và các sự nghiệp phúc lợi khác. Trong Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 1991-2000 được thông qua tại Đại
hội VII của Đảng nêu rõ: tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Đại hội IX của Đảng cũng đã ra
nhiệm vụ: “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo và môi trường, phát triển KT-
XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo giữa môi trường
nhân tạo và môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học" [12, tr.162].
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã
hội trong phạm vi cả nước, ở từng địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt chính sách
xã hội trên cơ sở phát triển, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ,
tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển KT-XH [13, tr.101].
Với nhận thức về phát triển KT-XH, chúng ta có điều kiện tìm hiểu mối
quan hệ và vai trò của FDI đối với phát triển KT-XH. Có thể nói, FDI có tác

động mạnh mẽ đến phát triển KT-XH của nước tiếp nhận đầu tư trên nhiều
mặt: tăng trưởng kinh tế, cán cân thanh toán, phúc lợi xã hội, thu nhập của
người lao động, văn hoá, đạo đức… Sự tác động ấy diễn ra cả hai chiều thuận
và nghịch đối với nước tiếp nhận đầu tư: có nhiều mặt tích cực, đồng thời
cũng có những mặt hạn chế, bất lợi riêng.
1.2.2. Những tác động tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế -
xã hội
FDI có tác động tích cực đến kinh tế – xã hội đối với nước tiếp nhận đầu
tư trên một số mặt chủ yếu sau đây:
1.2.2.1. FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho phát
triển kinh tế - xã hội
Tăng trưởng kinh tế thường gắn với tỷ lệ đầu tư. Vốn đầu tư cho phát
triển kinh tế được huy động từ hai nguồn chủ yếu là vốn trong nước và vốn
ngoài nước. Vốn trong nước được hình thành thông qua tiết kiệm và đầu tư.
Vốn nước ngoài được hình thành thông qua vay thương mại, đầu tư gián tiếp
và hoạt động FDI. Với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố
đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế. Những quốc gia này luôn lâm
vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, hoạt động sản xuất và đầu tư ở những nước
này như là một “vòng đói nghèo luẩn quẩn” (theo Paul A. Samuelson). Để
phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy, các nước nghèo và đang phát triển phải tạo ra
“một cú huých lớn”, mà biện pháp hữu hiệu là tăng vốn cho đầu tư, huy động
các nguồn lực để phát triển nền kinh tế để tạo ra tăng trưởng kinh tế dẫn đến
thu nhập tăng.
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước
ngoài có những ưu điểm cơ bản sau đây:
- FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác
như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài... Do vậy, FDI là hình
thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước
tiếp nhận đầu tư.

- Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián
tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực 1997
đã cho thấy, những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường là
những nước nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên nhiều phương
diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu các
thành phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động...
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. FDI
được coi là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển KT-XH. Kể
từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1988) đến hết ngày 31/6/2006,
nước ta đã thu hút được trên 7.550 dự án (6.390 dự án còn hiệu lực) với mức
vốn đăng ký đạt hơn 68,9 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 53,9 tỷ USD, vốn
đang hoạt động trên 36 tỷ USD. Tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực FDI
ngày càng tăng. Nếu năm 1994, ở mức 6,9%, thì năm 2004 là 15,2% và “năm
2005 các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP… gần 10% tổng thu ngân
sách nhà nước” [13, tr153]. Khu vực FDI đã góp phần quan trọng trong việc
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành một
bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân.
1.2.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy phát triển công
nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến
Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang
phát triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi phần lớn những
kỹ thuật mới được phát minh trên thế giới vẫn xuất phát chủ yếu từ các nước
công nghiệp phát triển. Do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước
công nghiệp phát triển các nước đang phát triển cần nhanh chóng tiếp cận với
các kỹ thuật mới. Có nhiều phương thức chuyển giao công nghệ khác nhau
như nhập khẩu thiết bị, kỹ thuật, mua hoặc hợp đồng sử dụng bản quyền, sáng
chế; tự thiết kế và sản xuất theo bản thiết kế tổng thể do bên nước ngoài cung
cấp... Thực tế cho thấy, FDI là một kênh quan trọng đối với việc chuyển giao

công nghệ cho các nước vừa thiếu vốn, vừa có trình độ phát triển thấp, công
nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém, đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo đầy đủ.
Các doanh nghiệp FDI còn có tác dụng phổ biến những công nghệ hiện
đại, công nghệ sạch, giữ gìn môi trường theo các tiêu chuẩn tiên tiến cho các
doanh nghiệp trong nước, nhờ thế mà thúc đẩy khoa học – công nghệ phát
triển. Ngoài ra, do áp lực cạnh tranh từ doanh nghiệp FDI, buộc các doanh
nghiệp trong nước phải nhanh chóng học hỏi, vươn lên, đổi mới kỹ thuật,
công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường đào tạo cán bộ... làm cho tốc độ hiện
đại hóa được nâng lên rõ rệt.
Đồng thời, FDI có tác dụng rõ nét hơn các hình thức đầu tư nước ngoài
khác trong việc chấn hưng, làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt và sự sôi động
của nền kinh tế nước tiếp nhận nhờ gia tăng các nhà đầu tư nước ngoài, kéo
theo các dịch vụ cho họ vận tải, khách sạn, văn phòng, nhà hàng ăn uống, vui
chơi, giải trí...
Tuy nhiên, không chỉ có các nước đang phát triển quan tâm đến yếu tố
chuyển giao công nghệ của FDI, mà các nước công nghiệp phát triển cũng
đang tìm cách tận dụng ưu điểm này của FDI nhằm hợp lý hóa sản xuất, tận
dụng lợi thế so sánh để nâng cao sức cạnh tranh, năng suất và hiệu quả tổng
thể của nền kinh tế. Những ngành có khả năng cạnh tranh cao thì mở rộng đầu
tư ra nước ngoài, những ngành trong nước kém sức cạnh tranh thì có thể cho
doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, thậm chí thôn tính hoặc xóa bỏ những
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong nước. Đây cũng là kết quả tất yếu
của quá trình phân công, hợp tác lao động quốc tế, chuyên môn hóa và hợp lý
hóa sự phân bổ các nguồn lực thông qua FDI.
Đối với nước ta, hoạt động FDI những năm qua đã góp phần quan trọng
trong nâng cao năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp FDI và các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. “Đến năm 2002 việc chuyển giao công nghệ
trong khu vực có vốn ĐTNN chiếm 90% trong số 200 hợp đồng” [28, tr.186].
Nhiều công nghệ mới đã được chuyển giao. Ví dụ như: khai thác dầu khí
ngoài khơi, lắp ráp các tổng đài kỹ thuật số, công nghệ chế tạo máy biến thế,

cáp; hệ thống lắp ráp tự động bảng mạch điện tử; sản xuất mô tơ nhỏ; chíp
điện tử; công nghệ về viễn thông; nuôi trồng, chế biến một số nông, lâm, thủy
sản; công nghệ dịch vụ kinh doanh khách sạn.
Sự phát triển công nghệ kỹ thuật cũng tác động mạnh mẽ đến xã hội, các
tiêu chuẩn mới với những đòi hỏi khắt khe hơn trên các lĩnh vực giáo dục, y
tế, an tòan thực phẩm, vệ sinh môi trường... làm cho chất lượng cuộc sống
không ngày càng đươc nâng lên.
1.2.2.3. FDI góp phần thâm nhập thị trường thế giới và khu vực, mở
rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ thể chủ yếu của hoạt động FDI trên thế giới hiện nay là các công
ty, tập đoàn xuyên quốc gia với mạng lưới chân rết toàn cầu; thông qua tiếp
nhận đầu tư của các công ty, tập đoàn này, nước sở tại có điều kiện thuận lợi
để tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu,
làm quen với tập quán thương mại quốc tế, thích nghi nhanh hơn với những
thay đổi trên thị trường thế giới... Đó là vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế rất quan trọng của FDI, một nhân tố đẩy nhanh
quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN với uy tín của mình đã giúp hàng hóa
Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. “Đến nay, hàng hóa Việt Nam đã có
mặt trên 140 nước và ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình trên thị
trường mới như: EU, châu Mỹ, Trung Đông… góp phần tăng nguồn thu cho
ngân sách… trong 5 năm qua (2001-2005) mỗi năm đóng góp cho ngân sách
gần 1 tỷ USD” [16, tr.111].
Hoạt động FDI góp phần quan trọng đối với đẩy mạnh xuất khẩu và cải
thiện cán cân thanh toán. Trong đó, xuất khẩu là một trong những giải pháp
tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng thêm thu nhập cho nền kinh tế, từ đó tạo
điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Thông qua thặng dư xuất khẩu và
chuyển vốn đầu tư vào Việt Nam, hoạt động FDI góp phần vào việc hạn chế
thâm hụt của cán cân thanh toán.
Ngoài ra, FDI còn góp phần tích cực hòan thiện, nâng cao nghiệp vụ

quản lý xuất nhập khẩu theo tiến trình hội nhập quốc tế: như hải quan, thực
hiện lộ trình cát giảm thuế; nâng cao hệ thống kinh tế - kỹ thuật xuất nhập
khẩu như: thương mại điện từ, ngân hàng điện tử, vận tải (cảng công ten nơ,
hệ thống vận tải bồn dầu theo tiêu chuẩn quốc tế, cầu cảng, hàng không....).
Với sự đóng góp của các doanh nghiệp FDI, kim ngạch xuất khẩu Việt
Nam tăng nhanh, góp phần nâng mức tăng kim ngạch xuất khẩu lên 16% năm
2005. Nếu như giai đoạn 1990-1995 kim ngạch xuất khẩu khu vực ĐTNN đạt
trên 1,12 tỷ USD thì giai đoạn 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ (chiếm 25% kim
ngạch xuất khẩu cả nước). Đến giai đoạn 2001-2005, xuất khẩu của khu vực
FDI (không kể dầu thô) đạt mức 33,8 tỷ USD, chiếm trên 33% tổng giá trị
xuất khẩu của cả nước. Nếu tính cả xuất khẩu dầu thô, tỷ lệ này đạt gần 55%.
Khu vực FDI chiếm khoảng 15% tổng sản phẩm nội địa (GDP), 18% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội. Với sự tăng trưởng của xuất khẩu, cán cân thương mại
khu vực FDI luôn thăng dư: trong năm 1995 là 5 triệu USD, năm 2002 là
1,184 triệu USD và năm 2003 là 1,3 triệu USD.
1.2.2.4. FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực
FDI góp phần giải quyết việc làm:
Bằng việc tăng nguồn vốn đầu tư xã hội, FDI tác động đến cung – cầu
lao động; nó không những trực tiếp thu hút và sử dụng lao động, mà còn gián
tiếp tạo thêm việc làm cho các ngành dịch vụ và cho các ngành công nghiệp
phụ trợ trong nước.
Ở nước ta, FDI đã trực tiếp thu hút, giải quyết số lượng việc làm cho xã
hội. Số người lao động trong các doanh nghiệp FDI tăng lên hàng năm. Cuối
năm 1993 số lao động trong các dự án FDI chỉ có 49.892 lao động, thì đến
cuối năm 2004 là 739.000 người, tăng 15 lần so với năm 1993. Giai đọan
1993-2004 bình quân mỗi năm số lao động trong khu vực FDI tăng thêm
66,18 nghìn lao động”.
Cùng với việc phát triển của khu vực FDI, nhiều lĩnh vực, ngành nghề
sản xuất, cung ứng dịch vụ cho khu vực này cũng phát triển theo. Như vậy, sẽ

nâng cao khả năng tạo việc làm, giảm bớt tỉ lệ thất nghiệp. Hiện nay, với
chính sách tăng dần tỉ lệ nội địa hóa trong sản phẩm của các doanh nghiệp
FDI các ngành sản xuất ô tô, xe máy, giày da, may mặc…. đã xuất hiện thêm
nhiều doanh nghiệp vệ tinh cung cấp sản phẩm dịch vụ cho doanh nghiệp
FDI, tạo ra nhiều việc làm. Tùy theo lĩnh vực sản xuất, số việc làm do doanh
nghiệp FDI gián tiếp tạo ra tương đối lớn. Năm 2002 số lao động gián tiếp do
doanh nghiệp FDI tạo ra là 553.570, bằng với số lao động đang trực tiếp trong
khu vực FDI. Đến cuối năm 2004, các doanh nghiệp FDI thu hút 77 vạn lao
động trực tiếp và 1,5 triệu lao động gián tiếp
FDI góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
FDI tác động đến vấn đề lao động của nước tiếp nhận đầu tư liên quan
đến cả số lượng và chất lượng lao động. FDI đã góp phần quan trọng trong
việc nâng cao năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp của lao
động Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp FDI đã tạo điều kiện cho lao động nước
ta nâng cao tay nghề, tiếp cận kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm quản lý
tiên tiến, rèn luyện kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp tại doanh nghiệp
hoặc gửi đi đào tạo ở nước ngoài. “Hiện nay, trình độ, năng lực của 6000 cán
bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật và trình độ tay nghề của hàng vạn lao động
ở các doanh nghiệp CVĐTNN được nâng lên rõ rệt” [16, tr.113].
Việc cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI, thúc đẩy các doanh nghiệp
trong nước đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường cán bộ, thu hút
nhân tài, nâng cao trình độ, năng lực của lao động cũng góp phần rất lớn trong
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam.
1.2.3. Những tác động tiêu cực của FDI đối với kinh tế – xã hội
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra tác động bất lợi cho
nước tiếp nhận, cần phải lưu ý:
1.2.3.1. Mất cân đối trong đầu tư
Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng
có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa vốn trong
nước. Từ đó, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước

và vốn nước ngoài), có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn
nước ngoài, vào nhà đầu tư nước ngoài (kể cả bí quyết kỹ thuật, công nghệ, đầu
mối cung cấp vật tư, nguyên liệu, thị trường sản phẩm...). Nếu tỷ trọng FDI
chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ có thể bị
ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc.
1.2.3.2. Lợi dụng biện pháp chuyển giá để trốn thuế gây thiệt hại cho
ngân sách và người tiêu dùng, gây sức ép cạnh tranh đến các doanh nghiệp
trong nước
Các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng lợi thế của mình đối với
doanh nghiệp ở nước tiếp nhận, nhất là trong trường hợp liên doanh, để thực
hiện biện pháp “chuyển giá” (transfer pricing) thông qua cung ứng nguyên vật
liệu, chi tiết, linh kiện, bộ phận, sản phẩm dở dang với giá cao, thu lợi ngay từ
khâu này, làm cho giá thành sản phẩm cao một cách giả tạo, giảm lợi nhuận,
thậm chí gây ra “lỗ giả, lãi thật”, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và giảm
thu ngân sách của nước sở tại. Cụ thể:
- Khai tăng giá trị tài sản góp vốn. Đây là hiện tượng khá phổ biến. Gần
đây, Công ty Giám định quốc tế SGS (Thụy sĩ) tiến hành giám định thí điểm
14 dự án FDI theo hình thức liên doanh tại Việt Nam thì đã có 8 dự án chủ
đầu tư báo thiết bị nhập khẩu cao hơn 10-20% giá thực tế.
- Mua nguyên liệu, vật liệu và các yếu tố sản xuất đầu vào khác cao hơn
giá thực tế.
- Quản lý và sử dụng chi phí không hợp lý. Ví dụ chi phí tiếp thị, quảng
cáo rất lớn so với yêu cầu thực tế. Chẳng hạn như Công ty Cocacola chi cho
quảng cáo, khuyến mại, phân phối sản phẩm, quản lý hành chính của liên
doanh chiếm tới 41,8% doanh thu so với 20% doanh thu được phê duyệt tại
luận chứng kinh tế ban đầu.
- Trốn thuế. Ở nước ta hiện nay “những vi phạm pháp luật về thuế vẫn
còn diễn ra phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau.... Lợi dụng sự kém
hiểu biết về chế độ kế tóan nước ngoài và trình độ ngoại ngữ yếu của cán bộ
thuế, các công ty này áp dụng hình thức kế tóan đa dạng, phức tạp nhằm bịt

mắt, qua mặt cán bộ thuế... Nhiều công ty hạnh tóan lỗ cao, khai thấp thu
nhập so với thực tế để giảm thuế thu nhập phải nộp”[16, tr.124].
Ngoài việc lợi dụng “chuyển giá”, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước,
doanh nghiệp FDI còn gây sức ép cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước.
Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, công nghệ, các doanh FDI
tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt đến các doanh nghiệp trong nước. Các doanh
nghiệp trong nước nếu không đủ mạnh dễ bị mất thị phần, làm ăn thua lỗ,
thậm chí phá sản. Đôi khi, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực hiện
chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn
đầu và các hình thức cạnh tranh không bình đẳng khác để loại trừ đối thủ cạnh
tranh độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn át các doanh nghiệp trong
nước, làm cho một ngành hoặc một số ngành sản xuất trong nước không phát
triển được.

×