Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Bệnh Basedow và thai kỳ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.26 KB, 3 trang )

1

Bệnh Basedow và thai kỳ


Bệnh Basedow, hay còn gọi là bệnh bướu cổ lồi mắt, là một bệnh thường hay gặp
trong nhân dân. Tại các phòng khám nội tiết Ở các bệnh viện lớn, có hơn 45,8% số
bệnh nhân bị bệnh Basedow trong tổng số các bệnh nhân đến khám hàng ngày.
Vào năm 1840, K.Basedow, một thầy thuốc người Đức, đã mô tả tỉ mỉ và đầy đủ
các triệu chứng lâm sàng của bệnh này, bao gồm 3 nhóm triệu chứng chính: hội
chứng cường giáp trạng với các triệu chứng: ăn nhiều, gầy nhiều, run tay, tim đập
nhanh, hồi hộp… bướu cổ lan tỏa và lồi mắt. Và từ đó, để kỷ niệm người bác sĩ
đầu tiên tìm ra căn bệnh, người ta đã lấy tên của ông để đặt gọi là bệnh Basedow.
Tuy nhiên ở các nước khác nhau, nó còn được gọi dưới những cái tên khác như: ở
Anh, Mỹ gọi là bệnh Graves, ở Liên Xô (cũ
) bệnh độc tuyến giáp, ở Việt Nam:
bướu cổ lồi mắt (hay còn gọi là bệnh nhiễm độc tuyến giáp)…





Nguyên nhân
2

Lúc đầu đại đa số các nhà khoa học đều cho rằng chức năng của tuyến giáp có liên
quan mật thiết đến sự hoạt động của hệ thống thần kinh trung ương, do đó nó đóng
một vai trò rất quan trọng trong nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của bệnh
Basedow.
Tuy nhiên, từ năm 1925 đã có những công trình nghiên cứu đầu tiên về hiện tượng
miễn dịch trong bệnh lý tuyến giáp. Năm 1955 các nhà sinh học đ


ã tìm thấy chất:
“Kích thích tuyến giáp có tác dụng kéo dài” là một chất có tác dụng giống hoóc-
môn kích thích hoạt động của tuyến giáp trạng nhưng không phải do tuyến yên tiết
ra. Đến năm 1980 thì tìm thấy các kháng thể chống lại thụ thể của hoóc-môn tuyến
giáp trong máu của hầu hết các bệnh nhân Basedow. Hơn thế nữa, khi quan sát các
mẫu tiêu bản lấy từ mô tuyến giáp của bệnh nhân Basedow, các nhà bệnh lý học
thấy có sự hiện diện c
ủa rất nhiều tế bào lympho là những thành phần chính trong
hệ thống miễn dịch của cơ thể. Khi nghiên cứu sâu về cây gia phả của những bệnh
nhân Basedow, các nhà khoa học thấy có sự liên quan mang tính chất gia đình, các
cặp sinh đôi cùng trứng nếu có một người bị bệnh Basedow thì khả năng người còn
lại cũng mắc bệnh này lên đến 50%, trong khi khả năng này chỉ là 5% ở những
người sinh đôi khác trứng. Trong th
ực hành bệnh viện, chúng tôi đã gặp trường
hợp một gia đình cả 5 chị em gái cùng bị bệnh.
Phương pháp điều trị
Bệnh nếu không được điều trị sẽ gây ra nhiều biến chứng làm bệnh nhân gầy sút
nhanh chóng có những bệnh nhân mất hơn 15kg trong 6 tháng. Mất ngủ, tiêu chảy
càng làm cho bệnh nặng hơn. Có nhiều bệnh nhân bị biến chứng về tim mạch gây
suy tim và hạ huyế
t áp dể ngất xỉu và khá nhiều trường hợp dẫn đến tử vong.
Hiện nay có 3 phương pháp điều trị chính cho bệnh nhân bị bệnh Basedow bao
gồm điều trị nội khoa với việc sử dụng các loại thuốc kháng giáp tổng hợp, thuốc
ức chế giao cảm và một số trường hợp nặng bệnh nhân được sử dụng tăng cường
các loại thuốc kháng viêm ức chế
miễn dịch loại corticoide, các thuốc an định thần
kinh và chống suy tim. Việc điều trị nội khoa là căn bản nền tảng để điều trị khác
được tiếp tục sau đó như phẫu thuật cắt bán phần hai thùy tuyến giáp hay sử dụng
iode đồng vị phóng xạ
Có một số công trình nghiên cứu cho rằng, trong thời gian mang thai bệnh

Basedow có thể thuyên giảm do tác dụng của hoóc-môn sinh dục nữ. Nhưng c
ũng
có những nghiên cứu khác lại cho thấy bệnh trở nên nặng hơn, nhất là những bệnh
nhân bị suy tim do biến chứng của bệnh.
3

Ở những bệnh Basedow có thai hoặc mong muốn có thai, tuy thuốc điều trị không
gây quái thai và ảnh hưởng nhiều đến thai phụ, nhưng các bác sĩ vẫn khuyên bệnh
nhân hạn chế sử dụng thuốc điều trị bệnh Basedow trong thời kỳ mang thai. Tốt
nhất là điều trị dứt bệnh trước khi có thai.
PGS.TS. Nguyễn Hoài Nam
Theo Sức khoẻ & đời sống

×