CÔNG TÁC KIỂM SÁT
VÉ THẨM QUYỀN KIÊN NGHỊ CÙA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG CÔNG TÁC KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TV PHÁP VÀ
THẨM QUYẾN ĐỂ NGHỊ KHÁNG NGHỊ GIÁM Đốc THẨM
DƯƠNG THANH QUANG
*
Kiến nghị là một trong những quyền năng pháp lý của Viện kiềm sát
nhân dân trong thực hiện chức năng thực hành quyền công tổ và
kiểm sát hoạt động tư pháp. Thẩm quyền kiến nghị của Viện kiểm sát
được quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014,
Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản
hướng dẫn. Tuy nhiên, thực tiễn việc thực hiện thẩm quyền kiến
nghị vẫn còn bất cập.
Từ khỏa: Thẩm quyền kiến nghị; thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm.
Nhận bài: 07/10/2021; biên tập xong: 19/10/2021; duyệt bài: 25/10/2021.
hoản 2 Điều 5 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân
K
(VKSND) năm 2014 quy
định: ...“2. Trường hợp hành
định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít
nghiêm trọng khơng thuộc trường hợp
kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này
thì VKSND kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và
xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp
luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong
hoạt động quản lý thì kiến nghị cơ quan,
tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng
các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp
vi,
luật quyết
và tội phạm. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan có trách nhiệm xem xét,
giải quyết, trả lời kiến nghị của VKSND
theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, ngoài kiến nghị yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư
*Phó Trường phịng 9 Viện kiểm sát nhân dân
tình Tiền Giang.
Tạp chí
Sơ 09/2022VkIÉM sát
11
CƠNG TÁC KIẾM SÁT
pháp khắc phục vi phạm thì Viện kiểm sát
còn kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan
khắc phục và áp dụng các biện pháp
phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội
phạm. Ngoài ra, tại Chương II Luật tổ
chức VKSND năm 2014 quy định các
công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của VKSND và trong từng khâu công tác
quy định cụ thể thẩm quyền kiến nghị của
Viện kiểm sát. Trong phạm vi bài viết này,
tác giả phân tích về thẩm quyền kiến nghị
của VKSND cấp tỉnh và cấp huyện.
Thứ nhất, về thẩm quyền kiến nghị
yêu cầu khắc phục vi phạm trong hoạt
động tư pháp.
Tại khoản 3 Điều 41 Luật tổ chức
VKSND năm 2014 quy định: ...“3. Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, VKSND cấp
huyện thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp trong phạm vi địa
phương mình”.
Như vậy, có thể khẳng định, thẩm
quyền kiến nghị đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong hoạt động tư pháp là những
cơ quan ngang cấp và cấp dưới của
VKSND. Hoạt động tư pháp ở đây được
hiểu bao gồm cả hoạt động bổ trợ tư pháp.
Vì vậy, VKSND cấp tỉnh có thể kiến nghị
đối với những vi phạm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp cấp
tỉnh, cấp huyện, cấp xã. VKSND cấp
huyện kiến nghị đối với những vi phạm
trong hoạt động tư pháp của cấp huyện,
cấp xã. Đối với các cơ quan tư pháp thì
phân cấp theo cấp hành chính thì đã rõ.
Tuy nhiên, một số cơ quan có chức năng
bổ trợ tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý
I Tạp chí
12
KIỂM SÁ I
Sơ 09X2022
của cấp tỉnh đóng tại địa phương như: Các
Văn phịng cơng chứng, Văn phòng thừa
phát lại trực thuộc Sở tư pháp, Văn phòng
đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên
và Môi trường thì các cơ quan này có
được xem là cơ quan ngang cấp huyện
khơng, và VKSND cấp huyện có thẩm
quyền kiến nghị yêu cầu khắc phục vi
phạm trong công tác bổ trợ tư pháp đối
với các cơ quan này không. Hiện nay, các
địa phương cấp huyện vẫn thực hiện kiến
nghị yêu cầu khắc phục vi phạm đối với
các cơ quan này, một số đơn vị thì khơng
thực hiện nên chưa thống nhất, cần có
hướng dẫn cụ thể.
Thứ hai, về thẩm quyền kiến nghị cơ
quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp
dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm
pháp luật và tội phạm (kiến nghị phòng ngừa).
Khoản 2 Điều 5 Luật tổ chức VKSND
năm 2014 nêu rõ: “Nếu phát hiện sơ hở,
thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến
nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục
và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi
phạm pháp luật và tội phạm.”, về thẩm
quyền kiến nghị phịng ngừa có một số
vấn đề đặt ra như sau:
- về thấm quyền kiến nghị theo cấp có
được hiểu như thẩm quyền kiến nghị yêu
cầu khắc phục vi phạm trong hoạt động tư
pháp không.
Ỷ kiến thứ nhẩt cho rằng, khoản 3
Điều 41 Luật tổ chức VKSND năm 2014
chỉ quy định chung về chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp mà không quy định rõ thẩm
quyền kiến nghị phòng ngừa nên VKSND
CÔNG TÁC KIỂM SÁT
cấp huyện qua kiểm sát hoạt động tư
pháp phát hiện vi phạm trong hoạt động
tư pháp, và nhất là công tác bổ trợ tư
pháp mà do sơ hở thiếu sót trong hoạt
động quản lý của cấp tỉnh nên có thể kiến
nghị đến cơ quan quản lý nhà nước cấp
tỉnh đề nghị chỉ đạo khắc phục, phòng
ngừa chung, và thực chất đã có đơn vị
cấp huyện thực hiện kiến nghị đến đơn vị
cấp sở và được chấp nhận, có văn bản chỉ
đạo khắc phục, nhất là vi phạm của các
Văn phịng cơng chứng, Văn phịng thừa
phát lại.
Ỷ kiến thứ hai cho rằng, VKSND cấp
huyện khơng có thẩm quyền kiến nghị
phòng ngừa đối với các cơ quan quản lý
cấp trên, việc kiến nghị các cơ quan quản
lý nhà nước cấp tỉnh phải do VKSND cấp
tỉnh thực hiện.
Theo tác giả, trong khi chưa có hướng
dẫn thực hiện thống nhất thẩm quyền kiến
nghị phịng ngừa thì VKSND cấp huyện
nên tập hợp những vi phạm của các cơ
quan tư pháp, bổ trợ tư pháp báo cáo, đề
nghị VKSND tỉnh tổng hợp vi phạm trong
tồn tỉnh để kiến nghị phịng ngừa chung
vừa đảm bảo nguyên tắc thẩm quyền theo
cấp hành chính và mang lại hiệu quả kiến
nghị cao.
- về kiến nghị phòng ngừa trong thực
hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết
án hình sự.
Luật tổ chức VKSND năm 2014 chỉ
quy định về kiến nghị phịng ngừa thơng
qua hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra, hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn truy tố. Tuy nhiên,
trên thực tế hiện nay, chúng ta đều ban
hành kiến nghị phòng ngừa trong cả 4
giai đoạn: Thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố; thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra; thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai
đoạn truy tố; thực hành quyền công tố và
kiếm sát xét xử vụ án hình sự. Đồng thời
các hệ thống chỉ tiêu nghiệp vụ ngành và
tiêu chí thống kê cũng có u cầu thống
kê kiến nghị phịng ngừa của các giai
đoạn trên. Trong khi đó, Điều 13, Điều
19 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi,
bổ sung năm 2021 (gọi tắt là BLTTHS
năm 2015) cũng không quy định rõ thẩm
quyền này. Như vậy, khi ban hành kiến
nghị phịng ngừa, thì báo cáo, thống kê là
kiến nghị phịng ngừa thơng qua kiểm sát
tin báo, kiểm sát điều tra, hoạt động truy
tố hay kiểm sát xét xử. Thực tế, thực hiện
nội dung này là không thống nhất.
Qua công tác kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố, kiểm sát điều tra, truy
tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự thì
chúng ta mới có cơ sở xác định là có sơ
hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý và
kiến nghị phịng ngừa vi phạm, tội phạm.
Tuy nhiên, việc xác định là có sơ hở,
thiếu sót trong hoạt động quản lý để ban
hành kiến nghị phòng ngừa cũng là vấn
đe đặt ra. Hiện nay, nhiều đơn vị ban hành
kiến nghị phòng ngừa cũng khơng chỉ ra
Tạp chí
SỐ09/2022\_KIẺM SÁT
13
CƠNG TÁC KIỂM SÁT
là có sơ hở, thiếu sót trong hoạt động
quản lý. Điển hình là nhiều đơn vị cấp
huyện nhận thấy tình trạng ly hơn trên địa
bàn huyện ngày càng tăng nên ban hành
kiến nghị đến Chủ tịch UBND cấp huyện
đề nghị có biện pháp để hạn chế tình
trạng ly hôn trên địa bàn. Theo tác giả, để
kiến nghị phòng ngừa cần xác định được
vi phạm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
kiềm sát, còn biện pháp thực hiện thế nào
là trách nhiệm của cơ quan bị kiến nghị.
Tuy nhiên,mếu cấp ủy, chính quyền địa
phương có u cầu, đề nghị thì có thể
tham mưu một số biện pháp để chỉ đạo
thực hiện, nhưng không đi quá sâu vào
chuyên môn của các cơ quan khác.
về thẩm quyền đề nghị kháng nghị vụ
án hình sự, dân sự, hành chính theo thủ
trong hoạt động tư pháp, qua đó xác định tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết
là có sơ hở, thiếu sót trong hoạt động định của Tịa án dân dân cấp huyện đã có
quản lý đê ban hành kiên nghị phịng hiệu lực pháp luật. Hiện nay, có quan
ngừa. Ví dụ như: Phịng Tư pháp thiếu điểm cho rằng, thẩm quyền đề nghị Viện
kiểm tra, giám sát để xảy ra vi phạm trưởng VKSND cấp cao kháng nghị theo
trong công tác công chứng, chứng thực thủ tục giám thẩm đối với bản án, quyết
của UBND cấp xã dẫn đến việc giải quyết định về hình sự, dân sự, hành chính của
vụ án dân sự tại Tịa án khơng đúng pháp TAND cấp huyện đã có hiệu lực pháp luật
luật; Sở Tài Nguyên và Môi trường thiếu là của VKSND cấp tỉnh; VKSND cấp
kiểm tra, quản lý để Văn phịng đăng ký huyện khơng có thẩm quyền này, khi phát
đất đai chậm cung cấp thông tin về đất đai hiện vi phạm cần kháng nghị theo thủ tục
theo yêu cầu của Tòa án, dẫn đến vụ án bị giám đốc thẩm, VKSND cấp huyện báo
cáo VKSND tỉnh để VKSND tỉnh xem
kéo dài...
- về nội dung kiến nghị phòng ngừa, xét, quyết định ban hành thông báo đề
nhiều đơn vị hiện nay ban hành kiến nghị nghị Viện trưởng VKSND cấp cao kháng
phòng ngừa thường yêu cầu các cơ quan nghị theo thủ tục giám thẩm.
được kiến nghị áp dụng các biện pháp
Thực tế hiện nay, khi kiểm sát bản án,
theo chức năng, nhiệm vụ chuyên môn quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
của các cơ quan đó đế phòng ngừa vi Tòa án cấp huyện phát hiện có vi phạm
phạm như: Tăng cường cơng tác tun cần phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc
truyền, giáo dục, tăng cường cơng tác thẩm thì VKSND cấp huyện thường
kiểm tra, giám sát, tổ chức tập huấn không trực tiếp thông báo đến VKSND
chuyên môn... Theo tác giả, kiến nghị cấp cao đề nghị kháng nghị giám đốc
phòng ngừa cần chỉ ra các vi phạm của thẩm, mà báo cáo đến VKSND cấp tỉnh.
cơ quan, tố chức và đề nghị cơ quan quản Viện kiểm sát nhân dân tỉnh xem xét thấy
lý chỉ đạo các cơ quan trực thuộc có biện có căn cứ thì ban hành thơng báo đề nghị
pháp chấn chỉnh, khắc phục, không để kháng nghị giám đốc thẩm gửi đến
xảy ra vi phạm như kiến nghị của Viện VKSND cấp cao. Do đó có thể xảy ra
Tạp chí
14
KIỂM SÁ I
Sơ 09/2022
CÔNG TÁC KIỀM SÁT
trường hợp, VKSND cấp huyện báo cáo
VKSND tỉnh đề nghị kháng nghị giám
đốc thẩm, VKSND cấp tỉnh khơng thống
nhất với đề nghị kháng nghị, nhưng sau đó
VKSND cấp cao kháng nghị theo yêu cầu
án, Viện kiểm sát nơi gần nhất kèm theo
chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có). Theo
khoản 1 Điều 52 Quy chế cơng tác thực
hành quyền cơng tố, kiểm sát xét xừ vụ án
hình sự, ban hành kèm theo Quyết định số
của đương sự.
Theo tác giả, VKSND cấp huyện có
quyền trực tiếp đề nghị kháng nghị giám
đốc thẩm khi kiểm sát bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án cấp
505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của
Viện trưởng VKSND tối cao thì: “1. Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực
hiện việc kiểm sát bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và
cấp dưới để phát hiện vi phạm pháp luật và
kiến nghị hoặc thông báo ngay bằng văn
bản cho Viện trưởng VKSND cấp cao xem
xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm. Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh, cấp huyện nếu không đồng ý với
quan điểm không kháng nghị của Viện
trưởng VKSND cấp cao thi có văn bản đề
nghị VKSND tối cao xem xét”.
huyện phát hiện có vi phạm theo các căn
cứ sau:
Điều 327 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 quy định: ...“2. Trường họp Tòa án,
Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác phát hiện có vi phạm pháp luật
trong bản án, quyết định của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật thì phải thơng báo bằng
văn bản cho người có thẩm quyền kháng
nghị quy định tại Điều 331 của Bộ luật
này”. Theo Chỉ thị số 07/CT-VKSTC ngày
06/8/2021 của Viện trưởng VKSND tối cao
thì: ...“5.1. Viện kiểm sát nhân dân các cấp
kiểm sát bản án, quyết định dân sự, hành
chính của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật,
nếu phát hiện có căn cứ để kháng nghị
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì thơng báo
đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm
quyền xem xét kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm theo quy định của pháp luật”.
Khoản 1 Điều 374 BLTTHS năm 2015
quy định: “Khi phát hiện vi phạm pháp
luật trong bản án, quyết định của Tịa án đã
có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án,
cơ quan, tổ chức, cá nhân thơng báo bằng
văn bản hoặc trình bày trực tiếp với người
có thẩm quyền kháng nghị hoặc với Tịa
Các quy định trên khơng hạn chế quyền
đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của
VKSND cấp huyện. Tuy nhiên, để đảm bảo
nguyên tắc tập trung thống nhất trong
ngành, đảm bảo thơng báo đề nghị kháng
nghị giám đốc thẩm có căn cứ, đúng quy
định, theo tôi khi phát hiện bản án, quyết
định của Tịa án cùng cấp có vi phạm pháp
luật, VKSND cấp huyện báo cáo VKSND
tỉnh để xem xét, quyết định ban hành thông
báo đề nghị Viện trưởng VKSND cấp cao
kháng nghị theo thủ tục giám thẩm. Trường
hợp VKSND cấp tỉnh không thống nhất với
quan điểm đề nghị kháng nghị của VKSND
cấp huyện thì VKSND cấp huyện có thể
trực tiếp ban hành thông báo đề nghị Viện
trưởng VKSND cấp cao kháng nghị theo
thủ tục giám thẩm theo thẩm quyền.□
Tạp chí
SỐO9/2O22\_KIẺM SÁT
15