Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo gia nhập thị trường thực trạng pháp luật và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.53 KB, 5 trang )

LUẬT

HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP
SÁNG TẠO GIA NHẬP THỊ TRNG
- THC TRNG PHP LUT V GII PHP



:

đ

ô 558 đ s
g * g a
, ã
. . ... đ ằ



:

:

-





::


Sỡ

-ô>-ã

ớ.

ớ<

i

i J


s

s đ

. :::


::

Vs

ã DNG HIU PHONG




TểM TT:

Bi vit trỡnh by quan niệm và dấu hiệu của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Đồng thời,

bài viết cũng nêu thực tiễn pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong giai đoạn
gia nhập thị trường để tìm ra một số hạn chế cần khắc phục. Từ đó, bài viết đề xuất một số giải

pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong giai đoạn gia nhập

thị trường.
Từ khóa: khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, gia nhập thị trường.

1. Đặt vấh đề
Kết luận tại cuộc đôi thoại với thanh niên khởi
nghiệp tại Diễn đàn Thanh niên khởi nghiệp
2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh
rằng: “Nhiệt huyết khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
chính là thể hiện lòng yêu nước, làm cho quốc
phú, dân cường. Khởi nghiệp sẽ là một con đường
biến ước mơ của bản thân thành hiện thực, đồng
thời góp phần hiện thực hóa khát vọng lớn hơn
của tồn dân tộc.” Khẳng định trên đã thể hiện
quyết tâm của Chính phủ, cũng như thái độ tích
cực của Nhà nước ta đối với vấn đề khởi nghiệp,
đổi mới sáng tạo. Khởi nghiệp sáng tạo (KNST)
là tiền đề quan trọng để tạo ra năng lực cạnh
tranh nhằm đạt được sự tăng trưởng dài hạn của
doanh nghiệp (DN) ở Việt Nam, đặc biệt là trong
bốì cảnh cơng nghiệp hóa, hội nhập hóa quốc tế.
Với tốc độ tăng trưởng bùng nổ của các doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST), đặt ra


những yêu cầu cấp thiết về xây dựng chính sách,
hệ thơng pháp luật để hỗ trợ và quản lý nhóm DN
này, đặc biệt là giai đoạn gia nhập thị trường để
đảm bảo phát triển kinh tế thị trường bền vững,
tăng cường tính cạnh tranh của DN.
2. Quan niệm và dấu hiệu của DNKNST
Với góc độ tiếp cận của Việt Nam về “khởi
nghiệp” có phần nghiêng theo nghĩa là tự khởi sự
kinh doanh với mục đích chủ yếu là tạo việc làm
và tăng thu nhập thay vì hướng tới ý nghĩa phổ
biến là một ngành kinh tế sáng tạo trên thế giới.
Định nghĩa “Startup” trên thế giới thực tế chính
là định nghĩa “khởi nghiệp sáng tạo” của Việt
Nam. Theo đó, KNST là việc kết hợp q trình
khởi nghiệp truyền thông thuần túy với việc áp
dụng khoa học công nghệ, trình độ kĩ thuật cao để
tạo ra hình thức kinh doanh mới, tạo ra sản phẩm
khác biệt có giá trị cao và có khả năng tăng
trưởng nhanh.

SỐ 19-Tháng 8/2021

73

ÍS

:





TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG

ở góc độ pháp lý, pháp luật Việt Nam quy

định, định nghĩa DNKNST tại khoản 2, Điều 3,
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)
năm 2017 như sau: “DNNVV KNST là DNNVV
được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở
khai thác tài sản trí tuệ, cơng nghệ, mơ hình kinh
doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh.”
Nếu bỏ qua yếu tô' nhỏ và vừa, DNKNST theo
Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017 được xác định
theo 3 tiêu chí:
Một là, tư cách pháp lý phải là DN thành lập
hợp pháp;
Hai là, về hoạt động, phải dựa trên khai thác
tài sản trí tuệ, cơng nghệ hoặc mơ hình kinh
doanh mới;
Ba là, về triển vọng, phải có tính đột phá, tăng
trưởng nhanh.
Như vậy, DNKNST được định nghĩa là DN
được thành lập hợp pháp để thực hiện ý tưởng dựa
trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, cơng nghệ, mơ
hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưỏng
nhanh. Các DN này có khả năng tăng trưởng
nhanh do có các giải pháp kỹ thuật, cơng nghệ,
giải pháp quản lý để nâng cao năng suất, chất
lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa.
* Dấu hiệu của DNKNST:

Thứ nhất, DNKNST ln mang tính đột phá và
sáng tạo: đặc điểm dễ nhận biết nhất của
DNKNST là khi tốc độ tăng trưởng DN cao dựa
vào sự sáng tạo và tiềm năng, với những ý tưởng
kinh doanh mang tính đột phá và sáng tạo; Giá trị
của trí tuệ và sáng tạo là vơ cùng to lớn, góp phần
tạo sự đột phá và quyết định khả cạnh tranh của
DNKNST trong điều kiện nhóm DN này cịn hạn
chế về nhiều mặt như: vốh, trang thiết bị,...
Thứ hai, tiềm năng và mục tiêu tăng trưởng:
Khác với DN truyền thống, sự tăng trưởng nhanh
chóng là một điều kiện bắt buộc. Một khi tăng
trưởng nhanh, DNKNST sẽ tạo ra những lợi nhuận
mới, là nguồn động lực cũng như là nguồn tái đầu
tư, khiến cho DN cố gắng nhân rộng mơ hình,
vươn ra khu vực và thế giới. Cũng chính vì mục
tiêu tăng trưởng này nên các DNKNST thường
năng động, sáng tạo và linh hoạt hơn so với những
DN truyền thơng.

74

SƠ'19-Tháng 8/2021

Thứ ba, về vốn đầu tư: Khi bắt đầu hoạt động
kinh doanh, các DNKNST bắt đầu từ chính nguồn
tài chính của người sáng lập, gia đình, bạn bè hay
từ các nhà đầu tư thiên thần, các quỹ đầu tư
mạo hiểm.
Thứ tư, tính rủi ro cao: DNKNST thơng thường

là các DN “sớm nở tơ'i tàn”, cịn “non trẻ”, chắc
chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn, rủi ro trong quá
trình hoạt động sản xuâ't - kinh doanh. Bên cạnh
đó, nhóm DN này rất khó tiếp cận với các nguồn
vốn, thiếu kinh nghiệm trong quản lý điều hành,
phát triển DN; cùng với đó, DNKNST gắn liền với
tính mới của khoa học cơng nghệ nên tính rủi ro,
sự thất bại trong khởi nghiệp rất cao.
Thứ năm, về mơ hình kinh doanh: Không giống
như mục tiêu các DN truyền thống là doanh thu,
mục tiêu ưu tiên của DNKNST là đi tìm mơ hình
kinh doanh phù hợp với thị trường và hoạt động
hiệu quả nhất. Để làm được điều đó, DNKNST
phải không ngừng cải tiến, thử nghiệm những
cách làm mới. Việc có được một mơ hình hiệu quả
trong vận hành, quản lý và kinh doanh sẽ thu hút
được sự quan tâm của các nhà đầu tư.
Thứ sáu, về đội ngũ nhân sự: Đa phần các
DNKNST với quy mơ cịn nhỏ, do đó số lượng
nhân sự chưa nhiều, thậm chí một người phải đảm
nhiệm nhiều cơng việc. Phần lớn nhóm DN này
khơng có đội ngũ hành chính hay pháp lý chun
biệt dẫn đến việc thực hiện các thủ tục khởi sự sẽ
gặp nhiều khó khăn.
3. Thực tiễn pháp luật hỗ trự DNKNST
trong giai đoạn gia nhập thị trường
Đối với những DNKNST mới, trong giai đoạn
gia nhập thị trường, điều quan trọng nhất đô'i với
DN là thủ tục đăng ký thành lập DN và thủ tục cấp
giấy chứng nhận đầu tư. Hiện nay, cơng cuộc cải

cách thủ tục hành chính (TTHC) đang diễn ra
mạnh mẽ ở Việt Nam khi thực hiện cắt giảm, loại
bỏ hàng loạt TTHC trên hầu hết các lĩnh vực, góp
phần tháo gỡ khó khăn cho DN.
Các bước đăng ký DN được quy định trong
Luật Doanh nghiệp 2020 và được hướng dẫn chi
tiết tại Nghị định sô' 01/2021/NĐ-CP về Đăng ký
DN. Nghị định 01 đã quy định chi tiết TTHC
đăng ký thành lập DN, hồ sơ đăng ký thành lập


LUẬT

DN đối với từng loại hình DN khác nhau. Đặc
biệt, Nghị định số 01/2021/NĐ-CP còn quy định
về việc đăng ký thành lập DN thơng qua mạng
thơng tin điện tử.
Ngồi thủ tục đăng ký thành lập DN, thủ tục
câp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư
cũng là một trong những TTHC được các
DNKNST quan tâm nhất hiện nay. Đặc thù của
nhóm DN này là cần phải gọi vốn đầu tư từ các
nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi nhà đầu tư muôn đầu
tư, họ phải thực hiện thủ tục xin câp giây chứng
nhận đầu tư theo quy định tại Luật Đầu tư và các
văn bản hướng dẫn (hình thức đầu tư thường theo
hình thức góp vốn để thành lập DN).
Nếu DN nộp đầy đủ và không bị yêu cầu thay
đổi, bổ sung thông tin, DN sẽ nhận được Giấy
chứng nhận thành lập DN sau 3 ngày làm việc,

cũng như Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trong
thời hạn 15 ngày. Quy định của pháp luật là như
vậy, thế nhưng có tới 73% DN cho rằng rào cản
liên quan đến cơ chế chính sách do thủ tục rườm
rà, gây mất thời gian; 46% cho rằng do chồng
chéo giữa các cơ quan nhà nước; 36% cho rằng do
sự thay đổi đột ngột và bất định về chính sách...[ 1 ]
Nhiều DN muốn nhận được các giấy chứng nhận
trên phải chờ nhiều tháng đến hàng năm.
Ngồi ra, DNKNST vẫn cịn phải đơi mặt với
hàng loạt các TTHC khác như thủ tục xin cấp giấy
phép kinh doanh đôi với các ngành nghề đầu tư,
kinh doanh có điều kiện; thủ tục nộp thuế; thủ tục
xuất khẩu hàng hóa, thủ tục đăng ký bảo hộ sở
hữu trí tuệ, giấy phép thiết lập website,... Khi thực
hiện các thủ tục này, các DN phải chuẩn bị nhiều
bộ hồ sơ và phải nộp tại nhiều các cơ quan hành
chính khác nhau, mất thời gian và là nguyên nhân
khiến nhiều DNKNST mất đi cơ hội.
Không những thế, sự phôi hợp giữa các bộ,
ngành, giữa Trung ương và địa phương cịn yếu.
Tình trạng quy định các TTHC trong văn bản Luật
vẫn mang tính chát chung chung, khơng rõ ràng
dẫn đến bất cập trong việc cấp dưới còn ban hành
các quy định về các giấy phép “con”, “cháu” và
cứng nhắc trong giải quyết vướng mắc cho DN.
Đặc biệt là chưa có cơ quan chịu trách nhiệm về
giải quyết vấn đề vướng mắc như về thủ tục, hồ

sơ, pháp lý,... cho DN. Hiện tượng “đùn đẩy” giữa

các cơ quan nhà nước vẫn diễn ra thường xuyên
qua việc nhiều DN hiện nay muôn thực hiện một
hoạt động nào phải xin ý kiến của rất nhiều các cơ
quan nhà nước quản lý có liên quan, dẫn đến kéo
dài thời gian thực hiện TTHC cho DN, nhà đầu tư.
Nếu có sự phơi hợp thường xun, kịp thời giữa
các cơ quan, thông nhất đầu môi trong công tác
quản lý, hỗ trợ DN, sẽ giúp các DN và các địa
phương tập trung nguồn lực, đồng thời tạo sự phôi
hợp chặt chẽ khi xác định rõ trách nhiệm ở từng
khâu công việc, từng cá nhân, cơ quan, đơn vị.
Đặc thù của DNKNST là luôn thay đổi, thử
nghiệm mô hình, tận dụng cơ hội và thời gian
nhanh nhất có thể để bứt phá phát triển. Nếu các
TTHC ban đầu quá nặng nề sẽ trở thành rào cản
rất lớn cho các DNKNST để bắt đầu kinh doanh.
Do đó, thay vì mất thời gian thực hiện rất nhiều
TTHC mà đáng lẽ phải dành cho việc phát triển
sản phẩm, nhiều DN đã chọn giải pháp chuyển
dịch sang hoạt động tại các quốc gia khác có thể
hỗ trợ tối đa cho DNKNST, tối giản các TTHC dẫn đến hiện tượng chảy máu khởi nghiệp. Ví dụ
như ở Singapore chỉ mất có 2 ngày để thành lập
DN và tiền nhà đầu tư rót vốn vào DN đó chỉ trong
vịng 1 tháng tính từ khi thành lập DN . Còn ở Việt
Nam, các nhà đầu tư từng đầu tư về Việt Nam phải
mất 8 tháng mới hoàn thiện xong các TTHC.[2]
4. Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật
hỗ trự DNKNST trong giai đoạn gia nhập
thị trường
Thứ nhất, xây dựng cơ sở pháp lý riêng về hỗ

trợ DNKNST. Trước tiên, cần đưa ra định nghĩa rõ
ràng, cụ thể và đầy đủ nhất về DN khởi nghiệp
hay DNKNST. Nhĩtng định nghĩa về DN khởi
nghiệp hay DNKNST vẫn chưa đủ và cũng chưa
bám sát được tình hình thực tế của DN khởi
nghiệp Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những
DNKNST, vẫn có những DN khởi nghiệp thơng
thường hay vẫn có những DNKNST khơng thuộc
khơi DNNVV. Bên cạnh đó, Nhà nước cần xây
dựng các chính sách hỗ trợ đặc thù dành riêng cho
khối DNKNST; sửa đổi, bổ sung những chính sách
hỗ trợ cho DNKNST sao cho phù hợp với thực tế,
phải nhất quán, tránh chồng chéo và đáp ứng được

SỐ 19-Tháng 8/2021

75


TẠP CHÍ GƠNG THIÍÍNG

nhu cầu chính đáng của DN. Theo đó, nếu có quy
định cụ thể, rõ ràng và đầy đủ về định nghĩa, đặc
điểm và loại hình DNKNST với quy mơ như thế
nào thì sẽ được hưởng các chính sách hỗ trợ sẽ
giúp cho các DN và cơ quan nhà nước tránh gặp
lúng túng khi thực hiện áp dụng pháp luật.
Thứ hai, cải cách TTHC nhằm tạo điều kiện
thuận lợi tối đa cho DNKNST. Cải cách TTHC
theo hướng rút gọn thời gian xử lý, đơn giản hóa

các TTHC dành cho đối tượng DNKNST và các
đôi tượng liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu thực
tiễn. Hỗ trợ KNST tốt nhất đó là tiếp tục gỡ bỏ
những giấy phép con, những quy định và TTHC
bất hợp lý tạo ra rào cản và gánh nặng kinh
doanh cho DN. Cơ quan có thẩm quyền cấp trung
ương ban hành văn bản quy định và hướng dẫn về
việc thực hiện hỗ trợ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ
quan chủ trì việc tổ chức thực hiện các thủ tục gia
nhập thị trường hồn tồn có thể quy định về quy
trình đăng ký rút gọn, tư vấn miễn phí khi thực
hiện quy trình này dành riêng cho các DNKNST;
phơi hợp với Bộ Tài chính để quy định trường hợp
giảm phí, lệ phí đối với chủ thể đăng ký là
DNKNST. Tương tự, Bộ Khoa học và Công nghệ,
cơ quan quản lý về bảo hộ tài sản sở hữu trí tuệ,
có thể quy định về quy trình rút gọn cho đăng ký
bảo hộ tài sản sở hữu trí tuệ của DNKNST, phối
hợp với Bộ Tài chính để quy định trường hợp
miễn/giảm phí đăng ký ban đầu, phí duy trì bảo
hộ hàng năm cho các DNKNST.
Thứ ba, phân cơng, phối hợp hiệu quả giữa các
chủ thể có thẩm quyền trong công tác thực hiện
pháp luật về hỗ trợ, thúc đẩy phát triển
DNKNST. Thẩm quyền, trách nhiệm các cơ
quan, tổ chức hỗ trợ DNKNST phải được phân
định rõ ràng, tránh chồng chéo lẫn nhau. Việc
này cũng sẽ giúp kịp thời sửa chữa và quy trách
nhiệm khi xảy ra sai phạm, khắc phục được tình
trạng “đùn đẩy” trách nhiệm - một hiện tượng

khá phổ biến hiện nay. Với vấn đề bất cập này,
Nhà nước nên nghiên cứu xây dựng cơ chế “một
cửa” để tiếp nhận, giải quyết các vấn đề trên tương tự như bộ phận, trung tâm “một cửa” giải
quyết các TTHC. Với quy định rõ ràng như vậy,
các DNKNST sẽ dễ dàng tìm đến đúng đầu mơi

76

SỐ 19-Tháng 8/2021

để giải quyết khó khăn, vướng mắc của DN trong
q trình gia nhập thị trường và trong hoạt động
kinh doanh - sản xuất.
Thứ tư, trong bối cảnh cơng nghiệp hóa,hiện
đại hóa ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
như hiện nay, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà
nước buộc phải sáng tạo, đổi mói phương thức
quản lý, xây dựng cơ sở dữ liệu và ứng dụng khoa
học công nghệ. Cập nhật đồng bộ các dữ liệu, đổi
mới cách thức quản lý hiệu quả, đồng nghĩa với
việc sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả DN
và cơ quan nhà nước. Các cơ quan quản lý cũng
có thể xây dựng phương án tích hợp nhiều thơng
tin khác về DN như tên, mã số DN, mã số thuế,
lĩnh vực kinh doanh, tiểu sử hoạt động, năng lực
sản xuất, nghĩa vụ thuế, tình hình tài chính, kế
hoạch tương lai,... đặc biệt là “điện tử hóa” tất cả
các TTHC. Theo đó, việc tra cứu, phân loại DN
để phù hợp với các chính sách, cơ chế hỗ trợ khác
nhau sẽ dễ dàng hơn, rút ngắn được thời gian và

chi phí cho nhà nước và cả DN khi khắc phục
được tình trạng chuẩn bị rất nhiều bộ hồ sơ và
phải nộp tại nhiều các cơ quan hành chính khác
nhau; điều này cũng tăng hiệu quả quản lý nhà
nước tiến tới “Chính phủ điện tử” khi hạn chế tối
đa việc thực hiện TTHC, lưu trữ hồ sơ dưới dạng
truyền thông.
Thứ năm, nâng cao chất lượng, năng lực của
các cơ quan thực thi pháp luật hỗ trợ DNKNST.
Việc các DNKNST có thể gia nhập thị trường dễ
dàng, nhanh chóng và đúng pháp luật cũng phụ
thuộc nhiều vào những cầu nối then chót, vơ cùng
quan trọng là các cán bộ, công chức quản lý nhà
nước trong lĩnh vực hỗ trợ DNKNST. Do đó, việc
hồn thiện và nâng cao về trình độ, năng lực, tổ
chức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước trong việc hỗ trợ DNKNST hết sức cấp
thiết. Hơn nữa, cần phải loại bỏ thái độ thờ ờ,
nhũng nhiễu và đề cao trách nhiệm của cán bộ,
cơng chức nhà nước trên tồn hệ thống từ Trung
ương đến địa phương khi tham gia hoạt động quản
lý, hỗ trợ DNKNST. Ngồi ra, cũng cần có những
chế tài xử lý cụ thể, nghiêm khắc đối với các hành
vi trái pháp luật, nhiễu sách của cán bộ, công chức
làm việc trực tiếp với DN ■


LUẬT

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Xuân Tùng (2019). Khởi nghiệp “nghẽn” vì thủ tục hành chính. Truy cập tại: />khoi-nghiep-nghen-vi-thu-tuc-hanh-chinh-430819.

2. Minh Hạnh (2017). Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo chật vật với thủ tục hành chính. Truy cập tại:
/>3.

Quốc hội (2017). Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017.

Ngày nhận bài: 5/6/2021
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 5/7/2021
Ngày chấp nhận đăng bài: 15/7/2021
Thông tin tác giả:
DƯƠNG HIỂU PHONG

Trường Đại học Luật Hà Nội

POLICIES ON SUPPORTING STARTUPS

TO ENTER THE MARKET IN VIETNAM:
CURRENT SITUATION AND SOLUTIONS
• DUONG HIEU PHONG
Hanoi Law University
ABSTRACT:

This paper presents the concepts and signs of an innovative startup. In addition, the paper
also outlines policies on supporting startups to enter the market and points out shortcomings of
these policies. Based on the paper’s findings, some recommendations are made to improve
the effectiveness of policies on supporting startups to enter the market.
Keywords: startup, innovative startup, entering market.

SỐ 19-Tháng 8/2021


77



×