Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

chức năng và cơ chế tài chính của ngân hàng nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.56 KB, 13 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
ooo0ooo
ĐỀ TÀI 08:
Tp.HCM, ngày 12 tháng 03 năm 2014
GVHD : THẦY PHẠM QUANG HUY
SVTH : LÊ THỦY TIÊN
LỚP : KTKTDEM2-K22
1
CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Chương 1: Những vấn đề chung về chức năng và cơ chế tài chính của ngân hàng
nhà nước Việt Nam
1.1. Tổng quan về ngân hàng nhà nước Việt Nam
I.a.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng nhà nước Việt Nam
a. Giai đoạn 1945 -1954
Sau CMT8 năm 1945, kho bạc chỉ còn 1,25 triệu đồng Đông Dương, trong đó một
nửa là tiền rách. Để phủ hợp với tình hình kinh tế, chính phủ cho thành lập 3 khu vực
tiền tệ và cho phép phát hành các đồng tiền khu vực. Ngày 06/05/1951 Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký sắc lệnh 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam bao gồm Ngân hàng
Trung Ương, Ngân hàng liên khu và Ngân hàng tỉnh, thành phố.
b. Giai đoạn 1955 -1964
26/10/1961 Ngân hàng quốc gia Việt Nam đổi tên thành Ngân hàng nhà nước Việt
Nam được mở rộng tới các huyện, quận, thị xã; đội ngủ cán bộ được tăng cường, nâng
cao trình độ. Hoạt động tín dụng được đẩy mạnh, có nhiều cải tiến trong công tác thanh
toán không dung tiền mặt. Trong giai đoạn này, Ngân hàng kiến thiết Việt Nam và Ngân
hàng ngoại thương Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động. Đến cuối năm 1964,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với 265 ngân hàng tại 41 nước trên
thế giới.


c. Giai đoạn 1965 -1975
Đây là thời kỳ Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, chiến sự diễn ra rất ác liệt,
mọi hoạt động của Ngân hàng Nhà nước phải chuyển hướng để phù hợp với hoàn cảnh
thời chiến. Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ này đạt bình quân 85,5%
tổng mức chu chuyển tiền tệ qua quỹ ngân hàng.
d. Giai đoạn 1976 -1980
Thực hiện chủ trương cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng theo Quyết định
32/CP ngày 11/2/1977 của Hội đồng Chính phủ, Tổng giám đốc NHNN đã ban hành Thể
lệ cho vay vốn lưu động và quy định về cho vay đầu tư XDCB đối với các XNQD. Hoạt
động tín dụng bước vào thời kỳ cải tiến mạnh mẽ và mở rộng các loại cho vay, trước hết
là đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Hệ thống thanh toán thống nhất trong cả nước
được thiết lập; tình trạng công nợ dây dưa giữa các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị được
giải quyết đáng kể. Quan hệ tín dụng và thanh toán quốc tế với các nước XHCN được

tăng cường. Tháng 5/1977, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tham gia Ngân hàng Đầu tư
quốc tế (MIB), Ngân hàng hợp tác kinh tế quốc tế (MBES).
Để thống nhất tiền tệ trên cả nước, ngày 1/4/1978, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số
08/NQ-TW về việc phát hành tiền ngân hàng mới, thu hồi tiền cũ ở cả hai miền. Ngày
2/5/1978, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu phát hành tiền mới, thu hồi tiền cũ trên cả nước.
e. Giai đoạn 1981 -1985
Trong thời kỳ này, hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu thông phân phối gặp rất
nhiều khó khăn. Thực hiện Nghị quyết 26/NQTW ngày 23/6/1980 của Bộ Chính trị và
các quyết định của Hội đồng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp quy, chế độ nghiệp vụ về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, cấp phát đầu tư xây dựng cơ
bản, ngoại hối; thực hiện “chính sách tín dụng tích cực, coi tín dụng là mặt trận phía
trước”, mở ra nhiều hình thức cho vay mới nhằm đáp ứng nhu cầu vốn và tiền mặt, góp
phần thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế, hỗ trợ ngành thương nghiệp quốc doanh thu
mua nắm nguồn hàng phục vụ đời sống nhân dân và ổn định giá.
Cuộc thu đổi tiền tháng 9/1985 là chính sách kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước
trong lĩnh vực phân phối lưu thông, một bộ phận trong kế hoạch tổng điều chỉnh giá -

lương - tiền nhằm ổn định sức mua của đồng tiền, phục vụ công cuộc xây dựng và cải tạo
xã hội chủ nghĩa.
f. Giai đoạn 1986 -1989
Sau một thời gian tiến hành làm thử việc chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh
doanh XHCN, ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 53/HĐBT với
định hướng cơ bản là “chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh”. Tổ
chức, bộ máy của Ngân hàng Nhà nước được kiện toàn, sắp xếp lại để thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, đồng thời làm chức năng ngân hàng của các
ngân hàng; các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tín dụng và dịch
vụ ngân hàng. Theo đó, bốn ngân hàng chuyên doanh được thành lập trên cơ sở chuyển

và tách ra từ Ngân hàng Nhà nước, gồm: Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng
Phát triển nông nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam.
g. Giai đoạn 1990 -1996
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua 2 Pháp lệnh Ngân hàng. Hệ thống
ngân hàng bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, căn bản và toàn diện phù hợp với chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng, Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách lãi suất dương, kết hợp sử dụng các công
cụ gián tiếp với công cụ kiểm soát trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ; hình thành
các thị trường tiền tệ; bước đầu hiện đại hóa công nghệ và tăng cường đào tạo nguồn
nhân lực cho việc vận hành hệ thống ngân hàng mới. Vốn tín dụng được mở rộng cho
mọi thành phần kinh tế và đạt mức tăng trưởng bình quân 36%/năm, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng trong nhiều năm.
Thời kỳ này, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc
tế (IMF, WB, ADB) được tái lập và khơi thông.
h. Giai đoạn 1997 -2007
Năm 1997, Quốc hội thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các
tổ chức tín dụng, tạo nền tảng pháp lý căn bản và mạnh mẽ hơn cho hệ thống ngân hàng

tiếp tục đổi mới hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, góp phần giảm thiểu tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997; tiếp tục hoàn thiện cơ
chế điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là cơ chế điều hành lãi suất. Hệ thống các tổ
chức tín dụng được chấn chỉnh, củng cố, từng bước xử lý nợ tồn đọng và nâng cao năng
lực tài chính. Công nghệ ngân hàng có bước phát triển mạnh mẽ; Hệ thống thanh toán

điện tử liên ngân hàng được đưa vào vận hành chính thức từ tháng 5/2002, các dịch vụ
ngân hàng điện tử xuất hiện (E-Banking, Internet banking, ). Ngân hàng Nhà nước tham
gia đàm phán gia nhập WTO và tích cực triển khai các cam kết về hội nhập quốc tế trong
lĩnh vực ngân hàng.
i. Giai đoạn 2007 -2013
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 tác động rất
tiêu cực đến kinh tế nước ta. Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, Ngân
hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt, từ ưu tiên kiềm chế
lạm phát cao năm 2008 sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế năm 2009, khôi phục
đà tăng trưởng năm 2010 và kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế năm 2011, 2012.
Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XII thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
và Luật Các tổ chức tín dụng, tạo nền tảng pháp lý phù hợp hơn để tiếp tục đổi mới hoạt
động ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Sự kiện Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Thống đốc
IMF/WB nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị thường niên lần
thứ 44 Ngân hàng phát triển châu Á, Hội nghị Thống đốc NHTW ASEAN, khẳng định
vị thế ngày càng tăng của Việt Nam trong cộng đồng tài chính quốc tế.
I.a.2. Chức năng của ngân hàng nhà nước Việt Nam
Theo luật ngân hàng nhà nước Việt Nam tháng 12/1997, ngân hàng nhà nước Việt
Nam là cơ quan của chính phủ và là Ngân hàng Trung Ương ( NHTW) của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân

hàng làm dịch vụ tiền tệ cho chính phủ
• Là ngân hàng phát hành tiền
Giấy bạc và tiền hiện kim do NHTW phát hành và lưu thông là phương tiện thanh
toán hợp pháp trong mỗi quốc gia. Độc quyền phát hành tiền không chỉ thể hiện quyền

lực mà còn nhấn mạnh trách nhiệm trong việc phát hành tiền để đảm bảo phát triển kinh
tế và lưu thông tiền tệ ổn định
• Là ngân hàng của các ngân hàng
Sự ra đời và hoạt động của hệ thống ngân hàng 2 cấp đã tạo nên mối quan hệ đặc biệt
giữa NHTW với các NHTM và các tổ chức tín dụng, đó là mối quan hệ giữa chủ thể quản
lý và khách thể chịu sự quản lý. Trong mối quan hệ này NHTW đóng vai trò là người
quản lý vĩ mô đồng thời là một tác nhân kinh tế làm hậu thuẫn đối với các ngân hàng.
Việc hết hợp quản lý bằng một hệ thống pháp chế, chính sách với việc áp dụng các biện
pháp nghiệp vụ thông qua cơ chế thị trường.
• Là ngân hàng của nhà nước
Làm thủ quỹ cho kho bạc nhà nước, thông qua quản lý tài khoản của kho bạc dưới
dạng thuế, phí, thu khác được gửi vào tài khoản tại NHTW. NHTW có trách nhiệm theo
dõi thực hiện chi trả theo yêu cầu của kho bạc.
Bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, chứng khoán do các tổ chức
trong nước hoặc nước ngoài phát hành
Làm đại lý cho chính phủ trong việc đầu thầu, phát hành và thanh toán tín phiếu, trái
phiều, công trái của chính phủ.
Làm ngân sách cho nhà nước vay trong những trường hợp cần thiết.
Làm tư vấn cho chính phủ về những vấn đề kinh tế tiền tệ và đại diện cho chính phủ
tại các tổ chức tài chính quốc tế.
Thực hiện quản lý nhà nước và tiền tệ tín dụng và hoạt động ngân hàng.
1.2. Cơ chế tài chính của ngân hàng nhà nước Việt Nam
Nhiệm vụ cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là quản lý nhà nước về hoạt động tiền
tệ tín dụng, ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước trong khi thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của mình còn có các hoạt động mang tính kinh doanh. Tuy nhiên, các

hoạt động có tính kinh doanh của Ngân hàng Nhà nước không vì mục đích lợi nhuận mà
chủ yếu là vì mục đích ổn định giá trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động
ngân hàng và các TCTD. Hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu thông
qua các nghiệp vụ tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng, nghiệp vụ phát hành tiền,
nghiệp vụ ngoại hối và một số nghiệp vụ khác.

Như vậy, hoạt động của Ngân hàng Nhà nước vừa mang tính chất như một cơ
quan ngang Bộ vừa mang tính chất là đơn vị hoạt động có thu. Do tính chất hoạt động
của Ngân hàng Nhà nước khác với Bộ khác cho nên cơ chế tài chính của Ngân hàng Nhà
nước cũng mang những đặc thù riêng:
- Ngân hàng Nhà nước thực hiện chế độ tài chính riêng do Chính phủ ban hành.
Chế độ tài chính này vừa đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước hoạt động theo chức năng
quản lý, vừa đảm bảo hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước.
- Các khoản thu, chi tài chính của Ngân hàng Nhà nước về nguyên tắc phải thực
hiện theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc lập kế
hoạch thu, chi tài chính và tổ chức thực hiện chế độ tài chính của Ngân hàng Nhà nước.
- Các khoản chi phí của Ngân hàng Nhà nước không do Ngân sách Nhà nước cấp
như các Bộ khác mà được sử dụng các nguồn thu có tính chất kinh doanh để trang trải.
- Do có hoạt động mang tính chất kinh doanh cho nên ngoài các khoản chi theo
chế độ của Ngân sách Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước còn được trích lập các quỹ theo
quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam và quy định cụ thể của Nghị định
100/1998/ND-CP của Chính phủ. Sau khi trích lập các quỹ, phần chênh lệch thu lớn hơn
chi còn lại sẽ được nộp cho Ngân sách Nhà nước.
- Ngân hàng Nhà nước không phải nộp các loại thuế đối với các hoạt động nghiệp
vụ và dịch vụ.
- Năm tài chính của Ngân hàng Nhà nước phù hợp với năm dương lịch, bắt đầu từ
ngày 1/ 1 và kết thúc vào ngày 31/ 12.
Ngân hàng Nhà nước tổ chức thành hệ thống thống nhất từ Trung ương đến các
chi nhánh trực thuộc đặt tại các tỉnh, thành phố trong cả nước và là một pháp nhân duy

nhất cho nên việc quản lý tài chính trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước phải được thực

hiện theo nguyên tắc tập trung, thống nhất toàn hệ thống. Các khoản thu nhập, chi phí
phát sinh tại các đơn vị trực thuộc nhưng phải được quản lý và tổng hợp tại một đầu mối
là Ngân hàng Nhà nước Trung ương (Vụ Kế toán – Tài chính).
Từ đặc điểm của cơ chế tài chính trong Ngân hàng Nhà nước dẫn đến việc tổ
chức kế toán vốn và thu nhập, chi phí của Ngân hàng Nhà nước có khác so với các bộ
khác và khác so với ngân hàng thương mại. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ kế
toán tài chính cần nhận rõ đặc điểm này để nâng cao chất lượng công tác hạch toán, góp
phần tăng cường quản lý tài chính trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tài chính của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
2.1. Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, từng bước hạ lãi suất, tăng
trưởng tín dụng hợp lý, ưu tiên vốn cho sản xuất, kinh doanh.
Bám sát Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, điều kiện
thị trường tiền tệ, từ sau kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII, NHNN tiếp tục điều hành chính
sách tiền tệ, tín dụng thận trọng, hiệu quả, chủ động dẫn dắt thị trường; phối hợp hài hòa
giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra
nhằm góp phần tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo kiềm chế lạm
phát, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm
mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý phù hợp với các cân đối vĩ mô. Cụ thể:
- Điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát và ổn
định thị trường tiền tệ: (1) Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp huy động vốn,
chủ động cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn để đảm bảo thanh khoản, đáp ứng kịp
thời nhu cầu tín dụng đối với nền kinh tế; (2) Theo dõi chặt chẽ thị trường tiền tệ, tình
hình thanh khoản, tăng trưởng tín dụng và hoạt động của các TCTD để có các giải pháp
điều hành CSTT đảm bảo khả năng thanh khoản cho các TCTD; (3) Điều hành lượng tiền
cung ứng một cách chủ động, linh hoạt, phối hợp hài hòa giữa các kênh, mua được một
lượng lớn dự trữ ngoại hối Nhà nước nhưng đã linh hoạt hút tiền về để điều tiết tiền tệ

một cách hợp lý, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở

mức hợp lý và đảm bảo an toàn hệ thống; (4) Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa,
tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc,
giúp ngân sách nhà nước huy động vốn kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã
hội.
- Tiếp tục điều hành chính sách lãi suất theo hướng giảm dần phù hợp với diễn biến
kinh tế vĩ mô, điều kiện thị trường tiền tệ để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tháo gỡ khó
khăn chi phí vay vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế:
- Điều hành các giải pháp tín dụng linh hoạt theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi
với an toàn hoạt động của TCTD, cơ cấu tín dụng chuyển hướng tích cực phù hợp với
chủ trương chống đô la hóa và tập trung vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là
các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ. Triển khai đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp nhằm
tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân vay vốn ngân hàng một
cách hiệu quả.
Năm 2013, trên cơ sở định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14-
16%, tín dụng tăng khoảng 12%, NHNN giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2013 cho
các nhóm TCTD trên cơ sở tình hình hoạt động và khả năng mở rộng tín dụng của các
TCTD và yêu cầu các TCTD thực hiện kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo chỉ
tiêu tăng trưởng tín dụng do NHNN giao. Cho phép các TCTD tiếp tục xem xét quyết định
cho vay bằng ngoại tệ đối với một số đối tượng đến hết ngày 31/12/2013 nhằm góp phần
giảm chi phí vay vốn của doanh nghiệp trong điều kiện lãi suất cho vay bằng USD thấp
hơn lãi suất cho vay bằng VND.
Đồng thời, NHNN đã phối hợp với một số Bộ, ngành nắm bắt khó khăn, vướng
mắc và đề xuất các giải pháp tháo gỡ, hỗ trợ phù hợp; Tổ chức các Đoàn công tác của
Ban lãnh đạo NHNN đến làm việc với Chính quyền và doanh nghiệp các tỉnh, thành phố
để xử lý các khó khăn, vướng mắc giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Phối hợp với Bộ
Xây dựng ban hành Thông tư quy định chi tiết gói hỗ trợ cho người có thu nhập thấp,

người có thu nhập trung bình vay mua nhà ở xã hội theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của
Chính phủ, góp phần giải quyết tồn kho cho thị trường bất động sản. Phối hợp với các
Bộ, ngành và chính quyền địa phương tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư tại khu vực Tây

Bắc, Tây Nguyên nhằm thu hút các doanh nghiệp tập trung đầu tư vào những địa bàn còn
gặp nhiều khó khăn này. Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đưa ra
nhiều gói cho vay hỗ trợ khác và gần đây nhất là gói hỗ trợ trồng cây cà phê ở khu vực
Tây Nguyên với tổng giá trị khoảng 12.000 tỷ đồng.
Riêng đối với việc tháo gỡ khó khăn trong việc thực hiện chính sách đối với chăn
nuôi và thủy sản, NHNN đã hướng dẫn 5 NHTM nhà nước triển khai ngay chính sách hỗ
trợ đối với mặt hàng tôm. Đồng thời, NHNN đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn thành lập đoàn khảo sát tình hình cho vay đối với lĩnh vực nuôi trồng,
chế biến cá tra tại một số địa phương để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tìm ra lợi ích
chung giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn, đồng thời đưa những giải pháp tích cực để
tháo gỡ khó khăn cho ngành cá tra hiện nay.
2.2. Về xử lý nợ xấu:
Nợ xấu đang là một trong những nguyên nhân hạn chế khả năng mở rộng tín dụng,
gây mất an toàn hoạt động ngân hàng, hạn chế quá trình giảm lãi suất và ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh. Xử lý nợ xấu đã thực sự trở thành vấn đề cấp bách, lâu
dài và không chỉ của riêng ngành Ngân hàng mà là vấn đề kinh tế vĩ mô phức tạp, đòi hỏi
phải có thời gian đủ dài, nguồn tài chính cần thiết, giải pháp tổng thể, căn cơ và sự hậu
thuẫn mạnh mẽ của hệ thống chính trị, sự tham gia của các ngành, các cấp, tổ chức, cá
nhân có liên quan. Để xử lý nợ xấu một cách hiệu quả và bền vững, bên cạnh việc triển
khai quyết liệt các giải pháp của bản thân hệ thống ngân hàng trong phạm vi cho phép,
NHNN đã khẩn trương hoàn thành, trình Bộ Chính trị và Chính phủ thông qua Đề án tổng
thể xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD. Cho phép các tổ chức tín dụng được cơ cấu lại
nợ, ban hành chế tài xử lý nghiêm đối với tổ chức tín dụng không trích lập đầy đủ dự
phòng rủi ro theo quy định và yêu cầu các tổ chức tín dụng tích cực sử dụng nguồn dự
phòng rủi ro để xử lý nợ xấu

Trong điều kiện nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, khả năng trả nợ của khách hàng
vay bị suy giảm nghiêm trọng và nguồn tài chính bên ngoài để xử lý nợ xấu không có thì
đây là các giải pháp quan trọng góp phần kiềm chế nợ xấu gia tăng và xử lý được một
khối lượng nợ xấu rất lớn, trong khi vẫn không làm hạn chế khả năng tiếp cận vay vốn

của doanh nghiệp. Thông qua biện pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng có
triển vọng tốt, một khối lượng lớn dư nợ tín dụng được giữ nguyên nhóm đã góp phần hỗ
trợ giảm bớt khó khăn tài chính cho doanh nghiệp do không phải trả lãi phạt và tạo điều
kiện cho doanh nghiệp tiếp tục có thể vay vốn ngân hàng.
Mặc dù, các giải pháp xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã đạt được kết quả
bước đầu quan trọng, nhưng việc xử lý nợ xấu cũng bộc lộ một số khó khăn, hạn chế
sau đây:
Thứ nhất, các giải pháp được triển khai trong thời gian qua chủ yếu là TCTD tự xử
lý nợ xấu đã làm giảm mức độ lành mạnh tài chính, hiệu quả kinh doanh của TCTD trong
ngắn hạn. Nếu các biện pháp tự xử lý nợ xấu của TCTD và cơ cấu lại nợ không được hỗ
trợ tích cực bởi sự phục hồi kinh tế, thực thi có hiệu quả các giải pháp điều hành kinh tế
vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường bất động sản và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế thì nợ xấu tiềm ẩn rất lớn, xử lý khó khăn hơn và có nguy cơ tăng
mạnh.
Thứ hai, việc xử lý nợ xấu phụ thuộc nhiều vào các điều kiện kinh tế vĩ mô và thị
trường, song thị trường bất động sản chưa phục hồi, sản xuất kinh doanh còn nhiều khó
khăn, tiêu thụ hàng hoá chậm, năng lực tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp
còn rất thấp. Các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, hỗ trợ thị trường bất động sản cần phải có thời gian phát huy tác dụng. Thị trường
bất động sản chậm phục hồi, thị trường tài chính trì trệ gây khó khăn cho việc bán, xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay. Các giải pháp xử lý nợ xấu mang tính vĩ mô, căn cơ, bền vững
chưa được triển khai như chuẩn mực phân loại nợ xấu mới chưa được áp dụng, cơ chế hỗ
trợ TCTD xử lý nợ xấu,…

Thứ ba, thiếu sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ cho việc xử lý nợ xấu; môi trường
kinh doanh không thuận lợi khó thu hút các nguồn vốn đầu tư tài chính cho việc xử lý nợ
xấu và tài sản bảo đảm.
Thứ tư, cơ chế, chính sách xử lý nợ, tài sản bảo đảm tiền vay còn nhiều vướng
mắc, phức tạp, chậm được khắc phục, hoàn thiện để tạo điều kiện thuận lợi cho xử lý nợ
xấu.

2.3 Về tăng cường thanh tra, kiểm tra và phối hợp với các cơ quan chức năng làm
tốt công tác quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân hàng, xử lý nghiêm những tiêu cực
trong hoạt động ngân hàng:
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, NHNN tiếp tục quan tâm chỉ đạo
công tác đổi mới, nâng cao năng lực và phương pháp thanh tra, giám sát ngân hàng. Theo
đó, công tác thanh tra, giám sát đã tập trung làm rõ những vấn đề nổi cộm, rủi ro, yếu
kém và những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của hệ thống ngân hàng như thực
trạng tài chính, kết quả kinh doanh, chất lượng tài sản có, nợ xấu, phân loại nợ, trích lập
dự phòng rủi ro, thanh khoản, cấp tín dụng, hoạt động đầu tư, hoạt động ngoại hối, vàng,
quản trị, điều hành, cổ đông, cổ phần, cổ phiếu, vốn tự có, mức độ an toàn của các
TCTD.
Với sự đổi mới về phương thức tổ chức và chỉ đạo thực hiện, công tác thanh tra,
giám sát đã mang lại sự cải thiện rõ rệt về chất lượng và hiệu quả góp phần nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước, từng bước lập lại kỷ cương trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, đồng
thời hỗ trợ tích cực cho quá trình cơ cấu lại các TCTD. Những phát hiện và kiến nghị của
Thanh tra, giám sát ngân hàng góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện các quy định,
chính sách quản lý đối với lĩnh vực ngân hàng.
Bên cạnh việc nâng cao năng lực thanh tra, giám sát, NHNN đã tích cực sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra, giám sát và
an toàn hoạt động ngân hàng nhằm nâng cao mức độ an toàn hoạt động của TCTD và hỗ
trợ hiệu quả cho quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD, tạo điều kiện cho các TCTD sau
cơ cấu lại hoạt động an toàn, lành mạnh và bền vững hơn. Tăng cường công tác quản lý
cấp phép thành lập, mở rộng mạng lưới TCTD để kiểm soát chặt chẽ quy mô hoạt động,

hạn chế rủi ro đối với TCTD, hỗ trợ tích cực cho quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD.
Theo đó, từ năm 2012 đến nay, NHNN không cấp phép thành lập mới NHTM, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Việc mở chi nhánh
của các ngân hàng chủ yếu phục vụ cho mục đích phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Chế độ tài chính cùa NHNN Việt Nam theo quyết định 07/2013/ QĐ-TTg

2/ Thông tư 195/2013/TT-BTC
3/ www.sbv.gov.vn

×