Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

TRƯỜNG PHÁI PHẬT GIÁO docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.29 KB, 2 trang )

TRƯỜNG PHÁI PHẬT GIÁO
Trường phái Phật giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ V TCN, do Siddhartha Gautama
1
() sáng
lập. Sau khi Ngài mất, đạo Phật được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc Aán Độ. Để chấn chỉnh giáo
lý, giáo luật và tổ chức, từ thế kỷ V - III TCN, đạo Phật đã triệu tập 3 cuộc đại hội ở nước Magađa. Từ
nửa sau thế kỷ III TCN, đạo Phật truyền sang Xri Lanca, rồi sau đó truyền đến Myanma, Thái Lan,
Inđônêxia… Đầu thế kỷ I, đạo Phật triệu tập đại hội 4 ở nước Cusan để thông qua giáo lý của đạo Phật
cải cách gọi là Đại thừa, còn giáo lý của đạo Phật cũ gọi là Tiểu thừa. Kinh điển của Phật giáo có
khoảng 5000 quyển, chia thành Tam tạng (Kinh, Luật, Luận)
2
. Tam tạng lại chia làm hai loại là Đại thừa
và Tiểu thừa
3
. Sau đại hội lần thứ 4, các nhà sư được khuyến khích ra nước ngoài truyền đạo. Từ Ấn
Độ, Phật giáo đại thừa lan truyền vào các nước Trung Á và Đông Á như Tây Tạng, Trung Hoa, Mông
Cổ, Nhật Bản (cả Bắc Việt Nam)… Trong khi đó, Phật giáo nguyên thủy - Phật giáo tiểu thừa vẫn tồn
tại phổ biến ở các nước Đông Nam Á như Xri Lanca, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Nam Việt
Nam Ngày nay, sự chia rẽ giáo lý tiểu thừa và đại thừa đã được Phật giáo thống nhất ra sức khắc
phục. Tư tưởng triết học phật giáo phát triển mạnh mẽ, chuyển từ những vấn đề nhân sinh sang
những vấn đề bản thể từ những vấn đề đời sống hiện thực sang những vấn đề siêu hình rất phức
tạp… Chúng ta chỉ tìm hiểu tư tưởng triết học của Đức Phật Thích Ca, được thể hiện trong bộ Kinh –
cơ sở lý luận của Phật giáo tiểu thừa.
 Tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy được trình bày trong bộ Kinh, chủ yếu
nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca.
- Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần, nhị nguyên luận ngả về phía duy
tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng biện chứng chất phác, được trình bày trong thuyết duyên
khởi thông qua phạm trù vô ngã và vô thường.
+ Duyên khởi là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi” có nghĩa là các pháp đều do nhân
duyên mà có. Pháp là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý. Còn nhân
duyên là nguyên nhân và điều kiện. Duyên giúp cho nhân biến thành quả. Phật giáo cho rằng mọi sự


vật, hiện tượng đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Duyên khởi từ tâm mà ra. Tâm là cội nguồn của
vạn vật. Từ đây, Phật giáo nguyên thủy chủ trương vô tạo giả tức không có vị thần linh tối cao nào tạo
ra thế giới. Quan niệm vô tạo giả gắn liền với quan niệm vô ngã, vô thường.
+ Vô ngã là không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào cả. Trong thế giới, vạn vật và
con người được cấu tạo từ các yếu tố sắc, tức vật chất như đất, nước, lửa, gió và danh, tức tinh thần
như thụ, tưởng, hành, thức mà không có đại ngã hay tiểu ngã gì cả.
+ Vô thường là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Trong thế giới, sự xuất hiện của vạn
vật, kể cả con người cũng chỉ là kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc và danh; khi sắc và danh tan ra,
1
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Xítđácta Gôtama (Siddhartha Gautama, 563 - 483 TCN), con vua Sutđôđana (Suddhodana), thuộc bộ
tộc Thích ca (Shakya) của nước Catìlavệ (Capilavaxtu) - một nước nhỏ ở miền Đông - Bắc Ấn Độ, nằm dưới chân dãy Himalaia, nay thuộc đất Nêpan.
Năm 29 tuổi, Thái tử Xítđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Nhưng qua 7 năm, theo các bậc chân tu khổ
hạnh của truyền thống tu luyện Ấn Độ mà Ngài vẫn chưa tìm ra chân lý. Cuối cùng, Ngài lang thang đến cánh rừng thiêng Uravela (Gaya, thuộc tỉnh Bihar,
miền Bắc Ấn Độ) và ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề. Sau 3 ngày đêm suy ngẫm, Ngài phát hiện ra bản tính vô ngã, vô thường của thế giới. Ngài tiếp tục
ngồi dưới gốc cây bồ đề thêm 49 ngày nữa để chiêm nghiệm tâm linh và giải thích thấu đáo bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau. Ngài cho
rằng mình đã tìm được con đường cứu vớt chúng sinh. Từ đó trở đi, người ta gọi Ngài là Phật (Buddha), nghĩa là người đã giác ngộ - thấu hiểu chân lý.
Sau khi thành Phật, Ngài xây dựng Giáo đoàn Phật giáo để rao giảng giáo lý của mình và được đệ tử tôn xưng là Thích Ca Mâuni, nghĩa là bậc hiền triết
của dòng tộc Thích Ca.
2
Tạng Kinh ghi lại những lời giảng của Phật Thích ca, giúp chúng sinh loại trừ phiền não và đạt đến niết bàn. Tạng Luật ghi lại những giới luật mà giáo
đoàn Phật đề ra đòi hỏi các đệ tử phải tuân theo để cho thân - tâm thanh tịnh. Tạng Luận ghi lại những lời luận bàn của các bậc cao tăng, trưởng lão
nhằm làm sáng rõ ý nghĩa của những lời kinh, để giúp người đời phân biệt được phải - trái, chính - tà.
3
Chữ “thừa” có nghĩa là giáo lý của Phật có công năng như một chiếc xe đưa chúng sinh từ cõi trần đầy đau khổ, luân hồi đến cõi Niết bàn. Tiểu thừa ví
như cỗ xe nhỏ, con đường cứu vớt hẹp; đại thừa ví như cỗ xe lớn, con đường cứu vớt rộng. Phái tiểu thừa cho rằng: Chỉ có một Phật duy nhất là Phật
Thích Ca, và chỉ có Phật Thích Ca mới cứu độ chúng sinh được; chỉ có những người xuất gia đi tu mới được Phật Thích Ca cứu vớt đưa đến Niết bàn -
cảnh giới yên tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt, không có phiền não khổ đau. Phái đại thừa cho rằng: Phật Thích Ca là Phật cao nhất, ngoài ra còn có
các Phật khác như Phật A Di Đà – vị Phật hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Tây, Phật Di Lặc - vị Phật tương lai sẽ nối nghiệp Phật Thích Ca để
giáo hóa cõi đời này (cõi Tabà), Phật Đại Dược Sư - vị Phật hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Đông (cõi Tĩnh lưu li); Không chỉ có những người tu
hành mà cả những người trần tục quy y Phật pháp cũng đều có thể được cứu vớt đưa đến niết bàn, nghĩa là có thể thành Phật - đó là các vị Bồ tát như:

Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Aâm, Địa Tạng…, dù đã thành Phật nhưng họ tự nguyện ở lại cõi trần để cứu độ chúng sinh. Phái đại thừa đề cao tầng lớp tăng
ni – người trung gian giữa tín đồ và Bồ tát, coi trọng nghi thức cúng bái và chủ trương thờ tượng Phật.
chúng sẽ mất đi. Điều này có nghĩa là, vạn vật luôn nằm trong chu trình sinh – trụ – dị – diệt; chúng
luôn bị cuốn vào dòng biến hóa hư ảo vô cùng theo luật nhân quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả,
quả nhờ duyên mà thành nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên mà thành quả mới ; cứ như thế, vạn vật
biến đổi, hợp – tan, tan – hợp mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.
- Nhân sinh quan là nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thủy, nó mang tính nhân bản
sâu sắc nhưng cũng chứa đầy tính chất duy tâm chủ quan, bi quan yếm thế, không tưởng về đời sống
xã hội và thần bí về đời sống con người, được thể hiện cô đọng trong câu nói của Phật Thích Ca: “Hỡi
chúng sinh, ta chỉ dạy cho các người chỉ có một điều, đó là điều khổ và diệt khổ; Nếu nước biển có một
vị là vị mặn thì học thuyết của ta cũng có một vị là vị giải thoát”. Nhân sinh quan của Phật giáo nguyên
thủy được trình bày trong thuyết Tứ diệu đế
4
với bốn bộ phận là: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế,
+ Khổ đế là lý luận về những nỗi khổ rõ ràng ở thế gian. Theo Phật có 8 nỗi khổ (bát khổ) trầm
luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ
(yêu thương mà phải chia ly), sở cầu bất đắc khổ (muốn mà không được), oán tăng hội khổ (ghét nhau
mà phải sống với nhau), ngũ uẩn khổ (sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn - sắc, thụ, tưởng, hành,
thức).
+ Nhân đế là lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống con người. Phật giáo
cho rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không thoát ra khỏi dòng sông luân hồi. Mà luân
hồi là do nghiệp tạo ra. Sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn, tham lam (ham sống, ham lạc thú, ham
giàu sang…), do sự ngu dốt và si mê, nói ngắn gọn là do Tam độc (tham, sân, si) gây ra. Ngoài ra,
nhân đế được diễn giải một cách logic và cụ thể trong thuyết Thập nhị nhân duyên (12 nguyên nhân
dẫn đến bể khổ): vô minh, hành, thức, danh – sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão - tử. Trong
12 nguyên nhân ấy thì vô minh là nguyên nhân thâu tóm tất cả, vì vậy, diệt trừ vô minh là diệt trừ tận
gốc sự đau khổ nhân sinh.
+ Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian để đạt tới niết bàn.
Khi vô minh được khắc phục thì tam độc sẽ biến mất, luân hồi sẽ chấm dứt…, tâm sẽ thanh thản, thần
sẽ minh mẫn, niết bàn sẽ xuất hiện… Diệt đế bộc lộ tinh thần lạc quan của Phật giáo ở chỗ nó vạch ra

cho mọi người thấy cái hiện tại đen tối, xấu xa của mình, để cải đổi, kiến tạo lại nó thành một cuộc
sống xán lạn, tốt đẹp hơn. Phật giáo thể hiện khát vọng nhân bản, muốn hướng con người đến cõi
hạnh phúc "tuyệt đối", muốn hướng khát vọng chân chính của con người tới chân – thiện - mỹ.
+ Đạo đế là lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát. Nội dung cơ bản của nó thể hiện trong thuyết
Bát chính đạo (tám con đường đúng đắn) đưa chúng sinh đến niết bàn, đó là: chính kiến (hiểu biết
đúng), chính tư duy (suy nghĩ đúng), chính ngữ (lời nói chân thật), chính nghiệp (hành động đúng đắn),
chính mệnh (sống một cách chân chính), chính tinh tấn (thẳng tiến mục đích đã chọn), chính niệm (ghi
nhớ những điều hay lẽ phải), chính định (tập trung tư tưởng vào một điều chính đáng). Chung quy, bát
chính đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn… ; nhưng về thực chất, thực hành bát chính đạo
là khắc phục tam độc bằng cách thực hiện tam học (giới, định, tuệ). Trong đó, tham được khắc phục
bằng giới (chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh); sân được khắc phục bằng định (chính tinh tấn, chính
niệm, chính định); si được khắc phục bằng tuệ (chính kiến, chính tư duy).
- Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, không ẩm tửu), Lục độ (bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí
tuệ); rèn luyện Tứ đẳng (từ, bi, hỉ, xả)… Phật giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất công,
đòi bình đẳng công bằng xã hội, khuyên chúng sinh luôn suy nghĩ về điều thiện và làm điều thiện…
 Là một trường phái triết học - tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn Độ cổ đại, Phật giáo đã ảnh
hưởng rộng rãi và lâu dài đến đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
4
Bốn chân lý kỳ diệu về đời sống nhân sinh của con người, không phân biệt đẳng cấp.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×