Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.29 KB, 29 trang )

Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
A- KHÁI NIỆM VỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH
I – KHÁI NIỆM NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC & THÂM HỤT NGÂN SÁCH
1. Ngân sách nhà nước:
a) Khái niệm:
Chính phủ sử dụng ngân sách để lập kế hoạch và kiểm soát các hoạt
động tài khóa của mình. Một ngân sách, trong một năm nhất định, cho
biết các khoản chi theo kế hoạch của các chương trình chính phủ và thu
dự kiến từ hệ thống thuế. Ngân sách thường bao gồm một danh mục các
chương trình cụ thể (giáo dục, phúc lợi, quốc phòng…) cũng như các
nguồn thuế (thuế thu nhập cá nhân, thuế bảo hiểm xã hỗi…).
b) Chức năng:
Ngân sách của chính phủ phục vụ 3 chức năng kinh tế chính:
Thứ nhất, nó là một cơng cụ mà theo đó sản lượng quốc gia được
phân chia giữa tiêu dùng, đầu tư tư nhân và công cộng.
Thứ hai, thông qua chi tiêu trực tiếp và các khuyến khích gián tiếp
về thuế, ngân sách của chính phủ tác động đến cung các đầu vào như
lao động, vốn và tác động đến đầu ra của các khu vực từ ô tô cho
đến đàn vĩ cầm.
Thứ ba, chính sách tài khóa của chính phủ hay ngân sách có vai trị
trong việc tác động đến những mục tiêu vĩ mơ then chốt.
Chính xác hơn, nói đến chính sách tài khóa có nghĩa là chúng ta nói
đến quá trình xây dựng thuế khóa và chi tiêu cơng cộng nhằm hạn chế
những dao động của chu kỳ kinh doanh và góp phần duy trì một nền
kinh tế tăng trưởng, có mức hữu nghiệp cao, tránh được lạm phát lớn
hay lạm phát không ổn định.
2. Thâm hụt ngân sách nhà nước:
Thâm hụt ngân sách xảy ra khi chi vượt quá nguồn thu từ thuế.
Khi lâm vào thâm hụt ngân sách, chính phủ phải đi vay cơng chúng để trả
cho những khoản nợ của mình. Để vay, chính phủ phát hành trái phiếu, đó
là hình thức ghi nợ (IOU) cam kết trả lại tiền tại một thời điểm trong


tương lai.
3. Phân loại thâm hụt ngân sách nhà nước:
Tài chính cơng hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai
loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.
1


a) Thâm hụt cơ cấu:
Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những
chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp
bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu chogiáo dục, quốc phòng,...
b) Thâm hụt chu kỳ:
Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng
của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản
lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất
nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi
chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính tốn như
sau:
Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng
tiền trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
Ngân sách cơ cấu: tính tốn thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là
bao nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và
ngân sách cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác
nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn
định tự động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc
đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách

tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế
nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong
từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế.
II – NGUYÊN NHÂN GÂY THÂM HỤT NGÂN SÁCH
Thâm hụt ngân sách do rất nhiều nguyên nhân, và có sự ảnh hưởng khác
nhau đến sự cân đối vĩ mô của nền kinh tế. Về cơ bản, tình trạng thâm hụt
ngân sách nhà nước gồm các nguyên nhân chính sau:
1. Thất thu thuế nhà nước


Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước bên
cạnh các nguồn thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà nướcvay, nhận
viện trợ…tuy nhiên, do hệ thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí
chưa chặt chẽ đã tạo kẻ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế,
gây thất thu một lượng đáng kể cho ngân sách nhà nước…điển hình, trong
năm 2008 lượng thuốc lá nhập lậu vào nước ta đã làm thất thu thuế, lấy đi
của ngân sách nhà nước 2.500- 3000 tỉ đồng. Ngoài ra, lượng thuốc lá nhập
lậu còn làm chảy máu ngoại tệ của đất nước khoảng 200 triệu USD/năm, làm
gia tăng thất nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các
doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy
nhiên,việc miễn thuế, giảm thuế hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản
chi ngân sách khác gây thâm hụt ngân sách nhà nước.
2. Đầu tư công kém hiệu quả
Trong 2 năm 2007 và 2008, nước ta đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ
bên ngoài. Nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các cơng
trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Tuy nhiên,
trên thực tế, tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn
chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc
gia còn chậm và thiếu hiệu quả, đã gây lãng phí nguồn ngân sách nhà nước

và kiềm hãm sự phát triển của các vùng miền, là nguyên nhân chính dẫn đến
thâm hụt ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, nền hành chính cơng - dịch vụ cơng của chúng ta quá kém
hiệu quả. Chính sự kém hiệu quả này làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách
càng trở nên trầm trọng.
3. Nhà nước huy động vốn để kích cầu
Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái phiếu
Chính phủ, miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước. Sử dụng gói giải
pháp kích cầu một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, sẽ làm mức thâm hụt ngân sách tăng rất cao khoảng 8-12%GDP
4. Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và
chi thường xuyên
Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực
bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy,
thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân
sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân
sách


địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và
được xác định cụ thể trong dự tốn ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa
phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố
trí cho việc vận hành các cơng trình khi hồn thành và đi vào hoạt động cũng
như chi phí duy tu, bảo dưỡng các cơng trình, làm giảm hiệu quả đầu tư.
Chính điều đó ln tạo sự căng thẳng về ngân sách.Để có nguồn kinh phí
hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân
sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.
5. Quy mơ chi tiêu của chính phủ q lớn.
Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời
trong ngắn hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát

và rủi ro tài chính do sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu
cơ chế giám sát đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính. Lý
thuyết kinh tế khơng chỉ ra một cách rõ ràng về hướng tác động chi tiêu của
chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên đa số các nhà kinh tế
thường thống nhất rằng chi tiêu của chính phủ một khi vượt q một ngưỡng
nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế do gây ra phân bổ nguồn lực một
cách không hiệu quả dẫn tới thâm hụt ngân sách nhà nước và cuối cùng là
gây ra lạm phát.
6.

Bên cạnh đó, sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua cịn
được sử dụng như một cơng cụ trong chính sách tài khóa để
kích thích sự tăng trưởng kinh tế

Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng
năm. Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác
định được số thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi
cân đối ngân sách chúng ta thường xác định số bội chi trước (thông thường
tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc hội
cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận
trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó khơng gây
xáo trộn trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra
xem tồn bộ số bội chi có được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các dự
án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo thêm cơng ăn việc làm, tạo đà cho nền
kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không.
III- Ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước đối với nền kinh tế:
1. Thâm hụt ngân sách và vấn đề thoái lui đầu tư:


Các biện pháp của chính sách tài khố chủ động gây nên thâm hụt cơ

cấu và kéo theo hiện tượng tháo lui đầu tư.
* Thoái lui đầu tư và thị trường tiền tệ
Cơ chế thối giảm là: Khi Chính phủ tăng chi tiêu cho các dự án của
mình trong ngắn hạn, theo mơ hình số nhân, nếu khơng có thay đổi nào
trong thị trường tài chính thì GDP sẽ tăng lên ΔG x Số nhân của nền kinh
tế.
Nhưng khi GDP tăng lên, nhu cầu về tiền giao dịch cũng tăng lên. Mức GDP
cao hơn có chiều hướng đi đến thắt chặt tiền tệ (đặc biệt là trong trường hợp
NHTW quan tâm đến lạm phát). Lãi suất tăng và thắt chặt tín dụng sẽ có chiều
hướng bóp nghẹt hay “thối lui” đầu tư và những chi tiêu có nhạy cảm với lãi
suất. Kết quả là dẫn đến tổng cầu giảm, sản lượng và công ăn việc làm giảm
xuống.
Tuy nhiên, cơ chế thoái giảm này chỉ áp dụng cho thâm hụt cơ cấu. Không
áp dụng cho thâm hụt chu kỳ (thâm hụt tăng do suy thối) vì suy thối gây ra
giảm cầu tiền và dẫn đến lãi suất giảm. Thối lui khơng được áp dụng trong các
cuộc đại suy thoái là một nhắc nhở: khơng có liên hệ nghiễm nhiên nào giữa
thâm hụt và đầu tư.
* Tác động của thâm hụt cơ cấu
Hầu hết các nhà kinh tế học vĩ mô đều đồng ý rằng: Thoái lui thực sự chỉ là
một hiệu ứng phụ của chi tiêu Chính phủ. Tuy nhiên, vẫn có tranh luận trong
vấn đề đầu tư bị giảm đi bao nhiêu và những khu vực nào chịu tác động
nhiều nhất.
Thối lui hồn tồn, đây là trường hợp cực đoan nhất của thoái lui khi
mà phản ứng tiền tệ là quá mạnh.


Giả sử rằng, khi mà NHTW xác định bất kỳ sự tăng lên nào trong sản lượng
cũng đều có nguy cơ gây ra lạm phát. Bởi vậy, NHTW sẽ tăng lãi suất lên đủ
để bù lại mọi tác động mở rộng của các chương trình Chính phủ.
Tuy nhiên, do có phản ứng tiền tệ, nên lãi suất tăng lên, làm giảm đầu tư và

xuất khẩu ròng. Vậy, trong trường hợp cực đoan thoái lui 100%, phản ứng này
mạnh đến nỗi đường chi tiêu (tổng cầu) mới dịch chuyển xuống quay trở lại vị
trí của đường tổng cầu ban đầu. Nói cách khác là thắt chặt tiền tệ đã làm triệt
tiêu tồn bộ sự mở rộng tài khóa.


Chi tiêu Chính phủ làm tăng tổng cầu, nhưng lãi suất cao hơn dẫn đến sự
giảm sút của đầu tư và xuất khẩu ròng (do việc tăng tỷ giá hối đoái của đồng
nội tệ). Cuối cùng lãi suất phải tăng đủ mạnh để giảm đầu tư và xuất khẩu ròng
đúng bằng lượng G đã tăng lên.
Tóm lại, trong trường hợp cực đoan của phản ứng tiền tệ mạnh, đầu tư bị
thoái lui 100% do sự tăng lên trong chi tiêu của Chính phủ. Thối lui có thể


xảy ra khi NHTW có hành động nhằm triệt tiêu tác động mở rộng tài khóa
thơng qua thắt chặt tiền tệ. Từ đồ thị trên ta có thể thấy 2 bước:
Bước 1: Tăng chi tiêu bằng tiền cho hàng hóa và dịch vụ làm dịc chuyể đường
tổng cầu (C+I+G+NX) lên đến đường tổng mới (C+I+G’+NX).
Bước 2: Phản ứng của tiền tệ làm tăng lãi suất và làm giảm những bộ phận
nhạy cảm với lãi suất, dẫn đến tổng cầu giảm xuống đường (C+I”+G’+NX”) và
điểm cân bằng mới là điểm E”, đúng với điểm cân bằng lúc ban đầu tại điểm E.
Trong trường hợp này đầu tư và xuất khẩu ròng bị chi tieeucuar Chính phủ
làm thối lui hồn tồn.
Mục đích của việc nghiên cứu cơ chế này là giúp ta có giải pháp để phối hợp
giữa các chính sách kinh tế trong việc ổn định hóa nền kinh tế.
Nghịch lý của khuyến khích đầu tư: Một trường hợp ực đoan lien quan đến
nghịch lý của tiết kiệm, xảy ra khi đầu tư trên thực tế được khuyến khích bằng
những thâm hụt lớn. Lập luận này có cơ sỏ như sau: Lãi suất cao khơng
khuyến khích đầu tư. Mặt khác sản lượng cao hơn kích thích đầu tư (theo
nguyên tắc gia tốc) do các doanh nghiệp mua nhiều vốn hơn và nhà xưởng

hiện tại được tận dụng nhiều hơn. Từ đó đầu tư có thể được chính sách tài khóa
kích thích khi năng lực sản xuất còn chua được sử dụng hết.


Đầu tư có thể được khuyến khích bằng thâm hụt cao hơn khi còn các nguồn
lực chưa được sử dụng hết và khi đầu tư phản ứng lại với mức sản lượng tăng
cao hơn.
Khi thực hiện chính sách tài khóa mở rộng (tăng mua sắm hàng hóa và dịch
vụ), chi tiêu của Chính phủ tăng từ G lên G’ thì tổng cầu dịch chuyển lên trên
tới đường tổng cầu mới là AD’= C+I+G’+NX, sản lượng cân bằng tăng lên. Mức
sản lượng cao hơn lại kích đầu tư cao hơn, đầu tư tăng từ I lên I’. Điểm cân bằng
cuối cùng được kết thúc ở E’, chính là giao điểm của đường tổng cầu
AD”=C+I’+G’+NX với đường 450.
Nghịch lý này có thể xuất hiện khi nguồn lực chưa được sử dụng hết và sản
lượng được quyết định bởi tổng cầu chứ không phải bởi phía cung.


2. Thâm hụt ngân sách-Một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát:
Giả định rằng, chia chi tiêu Chính phủ làm hai phần:
- Chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ (G)
- Chi

trả

lãi

(i.B) Trong đó:
i: lãi suất danh nghĩa về trái phiếu của Chính phủ.
B: giá trị danh nghĩa của các trái phiếu mà chính phủ chưa thanh tốn.
Những nguồn thu nhập chính của Chính phủ gồm:

- Thuế thu nhập (T) chưa khấu trừ các khoản thanh toán chuyển nhượng.
- ΔB là lượng trái phiếu phát hành thêm.
- Phát hành thêm cơng nợ bằng tiền của Chính phủ (ΔH)-bộ phận này gọi là
cơ sở; ký hiệu là H gồm:
+ Tiền mặt do Chính phủ nắm giữ.
+ Tiền dự trữ trong các ngân hàng.
Như vậy cả B và H đều là cơng nợ của Chính phủ. nhưng khác biệt duy nhất
giữa B và H là các trái phiếu (B) thì được trả lãi, cịn lượng tiền cơ sở (H) thì
khơng. Từ đây ta có thiết lập một phương trình như sau:

(G – T) + (i*B)/P = ΔB/P + ΔH/P


Trong phương trình trên, (G – T) được gọi là số thâm hụt cơ bản tức là
thâm hụt mà Chính phủ phải trang trải, không kể những khoản lãi phải trả
cho những trái phiếu chưa đến hạn thanh toán. Do G và T được biểu hiện
bằng số tiền thực tế vì vậy để đảm bảo tính thống nhất thì ta chia các số hạng
còn lại cho mức giá chung (P).
Qua đây, ta cũng có thể thấy 2 phương pháp có thể dùng để tài trợ thâm
hụt ngân sách của Chính phủ đó là: Phát hành thêm trái phiếu của Chính
phủ, được biểu thị bằng ΔB và phát hành thêm khối lượng tiền cơ sở, được
biểu thị bằng ΔH. Vì vậy, phương trình trên cịn được gọi là phương trình
biểu thị tài trợ thâm hụt ngân sách của Chính phủ.
Ta sẽ xem xét tác động của lạm phát đến thâm hụt ngân sách Nhà nước.
Lạm phát làm tăng lãi suất danh nghĩa (i), như vậy các nhân tố trong
phương trình trên sẽ có sự biến động. Tuy nhiên, với tác động phân phối
lại của cải một cách ngẫu nhiên, thì lạm phát cũng làm dễ dàng hơn cho
Chính phủ. Để làm rõ vấn đề này ta sẽ đi từ phương trình biểu thị tài trợ
thâm hụt ngân sách ở trên:
(G – T) + (i*B)/P =


ΔB/P

+

ΔH/P

o

(G – T) + (i*B)/P = (ΔB/P)*(B/B) + (ΔH/P)*(H/H)

o

(G – T) + (i*B)/P = (ΔB/B)*(B/P) + (ΔH/H)*(H/P)

Ở đây, trong phương trình này ta có:
• (ΔB/B)*(B/P): là tích số giữa tỷ lệ % thay đổi trong trái phiếu (ΔB/B)
với giá trị thực tế của những trái phiếu chưa đến hạn thanh tốn
(B/P).
• (ΔH/H)*(H/P): là tích số giữa tỷ lệ % thay đổi trong lượng tiền cơ sở


(ΔH/H) với giá trị thực tế của lượng tiền cơ sở (H/P).


Nếu ta giả định (B/P) và (H/P) là ổn định và tuân theo quy luật về trạng
thái đều đều của mơ hình cơ bản Solow về tăng trưởng, thì mức % tăng của
trái phiếu (B) giả sử biểu thị bằng chữ (b) và mức % tăng của H biểu thị bằng
chữ (h) sẽ phải bằng mức tỉ lệ lạm phát (gp). Nói cách khác, ta sẽ biểu thị các
ký hiệu như sau:

ΔB/B = b
ΔH/H = h
ΔP/P = gp
Trong đó thì: b = h = gp
Thay (gp) vào phương trình và chuyển (i*B)/P sang vế phải ta được:
G – T = (gp) * (H/P) – (i – gp) * (B/P)
(gp) * (H/P) biểu thị tích số của mức lạm phát với lượng tiền cơ sở thực tế.
Số thu nhập mà Chính phủ thu được từ lạm phát gọi là thuế lạm phát. Nhưng
lạm phát khơng thể xóa bỏ trách nhiệm mà Chính phủ là phải trả lãi cho
những trái phiếu chưa đến hạn thanh tốn cịn đang nằm trong tay cơng
chúng.
Trong phương trình vừa biến đổi trên thì Chính phủ chỉ phải lo chi trả tiền
lãi thực tế của dịch vụ trái phiếu. Biểu thức (i*B/P – gp*B/P) cho biết khi
Chính phủ chi trả cho những người có trái phiếu với lãi danh nghĩa (i) – đồng
thời người có trái phiếu lại giao lại cho Chính phủ một phần của (i) để mua
những trái phiếu bổ xung đủ để giữ cho những tài sản trái phiếu thực tế
(B/P) của họ không thay đổi (vì chúng ta đã giả định ở trên là B/P ổn định).
Kết luận:
Khi nền kinh tế có lạm phát, Chính phủ được hai cái lợi:


Một là: Chính phủ có thêm một nguồn thu nhập đó là thuế lạm phát.
Hai là: Chính Phủ có thể được lợi nếu lạm phát làm cho lãi suất danh nghĩa
tăng ít hơn bản thân mức tăng của lạm phát.
Bội chi ngân sách nhà nước (hay còn gọi là thâm hụt ngân sách nhà
nước) có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy
theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng bội chi
ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng
tiêu cực.
1.1 Tích cực

Sự thâm hụt ngân sách trong những năm qua được sử dụng như là một
công cụ của chính sách tài khóa để tăng trưởng kinh tế.
1.2 Tiêu cực

Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm
nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng
lai, giảm tăng trưởng trong dài hạn.

Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài cịn làm xói mịn niềm tin đối với
năng lực điều hành vĩ mơ của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát kỳ
vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước
sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt.

Thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn tới việc nhà nước buộc
phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều này đến lượt nó dẫn
tới lạm phát.

Gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ làm tăng nợ quốc gia, khiến sự
tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại.

Thâm hụt cịn làm cho các nhà hoạt động chính sách khơng thể
hoặc khơng sẵn sàng sử dụng các gói kích thích tài chính đúng thời điểm.

Để bù lại các khoản thâm hụt chính phủ buộc phải tăng thuế hoặc vay
nợ thông qua phát hành trái phiếu. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn
thất vơ ích về phúc lợi xã hội và các doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn hơn,
làm giảm động lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Đồng thời mức tiêu
dùng cũng giảm->giảm tổng cầu.

Tóm lại: Thâm hụt ngân sách cao, kéo dài đe dọa sự ổn định vĩ mô.



B- THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH VIỆT NAM
I – THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH Ở NƯỚC TA
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2000 – 2010)
Đặc điểm căn bản của ngân sách nhà nước là sự thâm hụt triền miên ở
mức cao. Đồng thời, nợ cơng có khuynh hướng tăng liên tục trong 10 năm qua.
Năm 2009 có thâm hụt đặc biệt cao vì đây là năm thực hiện gói kích thích kinh
tế lớn để chống suy thối kinh tế.
Trong những năm gần đây, ngân sách nhà nước cũng đã có chuyển biến
đáng kể. Tốc độ tăng thu hàng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình
quân hàng năm đạt 18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc
cân đối ở mức 5% GDP.
Đơn vị tính: Tỷ Đồng

m

Số Bội chi

Bội chi so với GDP

200
1

25.885

4,67%

200
2


25.597

4,96%

200
3

29.936

4,9%

200
4

34.703

4,85%

200
5

40.746

4,86%

200
6

48.500


5%

200
7

56.500

5%

200
8

66.200

4,95%


200
9

142.355

6,9%

201
0

119.700


6,2%

Giảm một cách đáng kế thâm hụt ngân sách Nhà nước được coi là thành
tựu đáng kể của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Thành tựu này đă góp phần
to lớn vào q trình đẩy lùi lạm phát ở nước ta cuối những năm 80. Giảm thâm
hụt ngân sách đạt được là do kết quả của những biện pháp cứng rắn như cắt
giảm chi tiêu chính phủ, xóa bỏ dần các loại trợ cấp qua giá, lương, trợ cấp cho
xí nghiệp quốc doanh… Nhiều năm thâm hụt giảm xuống dưới 5% so với GDP
– một kết quả đáng khích lệ.

Tình hình thâm hụt ngân sách của Việt Nam từ 2000 đến 2008
2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

200

TỔNG THU 90749


10388
8

12386
0

15227
4

19092
8

22828
7

27947
2

31591
5

416
3

TỔNG CHI

10896
1


12977
3

14820
8

18118
3

21417
6

26269
7

30805
8

39940
2

494
0

THÂM
HỤT

-18212 -25885 -24348 -28909 -23248 -34410 -28586 -83487 -77



NHẬN XÉT:
+trong giai đoạn 2000-2008, tổng chi luôn lớn hơn tổng thu, khoảng
chênh lệch thu – chi ngày càng tăng.
+ tốc độ tăng thâm hụt diễn ra liên tục và ngày càng nhanh, đặc biệt là
giai đoạn 2007 – 2008.
+ tỷ trọng tăng thâm hụt trong GDP cao, hầu hết trên 5%.
+tốc độ tăng thâm hụt chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như: thiên tai,
suy giảm kinh tế, kích cầu dẫn tới tốc độ tăng thâm hụt đột biến năm
2007- 2008; tình hình thế giới ( giá dầu, suy thoái).
Năm 2007: tổng cục Thống kê cho biết, tổng thiệt hại do thiên tai, chủ yếu là do
sạt lở đất, mưa to và bão lũ gây ra ở 50 tỉnh, thành phố trên cả nước trong năm
2007 ước tính lên tới trên 11.600 tỷ đồng, bằng khoảng 1% GDP; giá dầu thô
trên thị trường thế giới năm 2007 giảm->giảm thu ngân sách,giảm thếu nhập
khẩu xăng dầu, trợ giá cho xăng dầu_>tăng mức thâm hụt
Năm 2008: chính phủ kích cầu nền kinh tế, trị giá gói kích thích lên tới … tỷ
USD->tăng thâm hụt 8-12%GDP, giảm thu từ thuế
Năm 2009:
Riêng IMF đã yêu cầu Chính phủ Việt Nam giám sát chặt chẽ các khoản chi tiêu
công. Theo đại diện của IMF, thì thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong năm
2009 đã lên tới 9% GDP, theo cách tính của IMF. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so
với mức Việt Nam công bố chỉ là 6,9% GDP.


Năm 2010:
Bội chi ngân sách năm 2010 ở mức 6.2% GDP, giảm đáng kể so với năm
2009(6,9% GDP).
II – BỘI CHI NGÂN SÁCH VÀ MỐI LIÊN HỆ ĐẾN LẠM PHÁT VÀ
MẤT CÂN ĐỐI VĨ MÔ
Bội chi ngân sách nhà nước (hay cịn gọi là thâm hụt ngân sách nhà nước)
có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ

thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng bội chi ngân sách nhà
nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực.
Nhìn vào những nước đã từng trải qua lạm phát cao sẽ thấy rằng, lạm
phát ở những nước này thường là hệ quả của việc in tiền nhằm tài trợ cho thâm
hụt ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn tới việc
nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều này đến
lượt nó dẫn tới lạm phát.
Từ góc độ này nhìn lại nền kinh tế Việt Nam, mặc dù Luật Ngân sách
1993 không cho phép nhà nước in tiền để tài trợ thâm hụt ngân sách, nhưng với
lượng tiền đồng trong lưu thông lớn như hiện nay (khoảng 16% GDP) thì chỉ
cần duy trì tốc độ in thêm tiền đúng bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế (giả sử là
8%) thì nhà nước cũng đã có thêm được 1,3% GDP để tài trợ cho thâm hụt ngân
sách (chưa kể đến “thuế lạm phát” cao ở Việt Nam trong mấy năm qua).
Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan khác, thì lạm phát ở Việt Nam
cịn do đầu tư cơng và nền hành chính cơng - dịch vụ cơng của chúng ta quá
kém hiệu quả. Chính sự kém hiệu quả này, đến lượt mình, lại làm cho tình trạng


thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng, và “vịng xốy đi xuống” của kinh
tế vĩ mơ sẽ lại tiếp diễn. Cũng cần nhấn mạnh thêm là “dịng xốy đi xuống”
này một khi đã được khởi động thì rất khó dừng lại chứ đừng nói tới khả năng
đổi chiều. Vì vậy, nhóm giải pháp thứ hai của Thủ tướng u cầu “cắt giảm đầu
tư cơng và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát
chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt
ngân sách” cần phải được thực hiện một cách triệt để và nhất quán. Nếu khơng
giảm được thâm hụt ngân sách thì nhóm giải pháp thứ nhất - thắt chặt tiền tệ - sẽ
bị vơ hiệu hóa đáng kể, và vì vậy khơng thể đạt được mục tiêu mong muốn là
kiềm chế lạm phát.
❖ Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội
địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng

lai, giảm tăng trưởng trong dài hạn.
❖ Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài cịn làm xói mịn niềm tin đối với
năng lực điều hành vĩ mơ của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát
kỳ vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ
trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt.
❖ Thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn tới việc nhà nước buộc
phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều này đến lượt nó dẫn
tới lạm phát.
❖ Gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ làm tăng nợ quốc gia, khiến sự tăng
trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại.
❖ Thâm hụt còn làm cho các nhà hoạt động chính sách khơng thể hoặc
khơng sẵn sàng sử dụng các gói kích thích tài chính đúng thời điểm.
❖ Để bù lại các khoản thâm hụt chính phủ buộc phải tăng thuế hoặc vay nợ
thông qua phát hành trái phiếu. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn
thất vơ ích về phúc lợi xã hội và các doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn
hơn, làm giảm động lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Đồng thời mức
tiêu dùng cũng giảm->giảm tổng cầu.
Tóm lại: Thâm hụt ngân sách cao, kéo dài đe dọa sự ổn định vĩ mô.


C- GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH VIỆT NAM
I – CÁC BIỆN PHÁP GIẢM THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Vì được đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách ngân sách (hay
chính sách tài khóa) của Chính phủ trong thời gian qua chỉ hướng đến mục đích
giảm chi tiêu cơng (gồm đầu tư cơng và chi thường xuyên) và qua đó giảm tổng
cầu. Cụ thể là Chính phủ chỉ thị: (i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín
dụng nhà nước; (ii) Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của
doanh nghiệp nhà nước(Doanh nghiệp nhà nước); (iii) Cắt giảm chi thường
xuyên của bộ máy nhà nước các cấp.
Tổng đầu tư của Nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông qua

Doanh nghiệp nhà nước) luôn chiếm trên dưới 50% tổng đầu tư của toàn xã
hội. Vì vậy, khơng nghi ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một số khoản
đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc
chắn sẽ nhẹ đi. Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt
nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt giảm chi thường xuyên (chiếm 56% tổng
chi ngân sách năm 2007)
Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu cơng là hồn toàn đúng đắn, song hiệu lực
của những biện pháp cụ thể đến đâu thì cịn chưa chắc chắn vì ít nhất có bốn lý
do. Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư cơng khơng hề dễ
dàng, nhất là khi những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết
định; đã được đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành, địa phương; đã được triển
khai; và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết thân của những cơ quan liên
quan đến dự án.
Thứ hai, Nhà nước hầu như khơng thể kiểm sốt các khoản đầu tư của các
Doanh nghiệp nhà nướcmột mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư,
và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã tự thành lập ngân hàng riêng. Thứ ba,


với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức đầu tư công
theo đúng dự tốn cũng đã được coi là một thành tích đáng kể.
Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường xuyên rất
khó khăn nên đây thường là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm.
Hơn thế, với thực tế ở Việt Nam thì phạm vi chi thường xun có thể cắt giảm
khơng nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi quỹ lương (chiếm khoảng 2/3 tổng chi
thường xuyên), sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi
chính sách chế độ, tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc tế, các khoản chi
thường xuyên đã được thực hiện…
Theo ước lượng của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì nếu làm thật
quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3.000 tỉ đồng chi hội họp và mua sắm xe tức là giảm được khoảng 0,8% tổng chi ngân sách.
Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư cơng

Chính sách giảm tổng cầu thơng qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần
thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm chi tiêu cơng của Chính phủ chỉ thực sự có
hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế để đảm bảo những khoản đầu
tư còn lại có hiệu quả. Đầu tiên là phải có cơ chế quản lý đầu tư công sao cho
những dự án kém hiệu quả (như chương trình 5 triệu tấn đường hay đánh bắt xa
bờ) bị loại bỏ ngay từ đầu. Sau đó, phải đảm bảo dự án được tiến hành đúng
tiến độ và khơng bị thất thốt, lãng phí (như dự án 112 và các dự án đầu tư xây
dựng cơ bản - được ước lượng là thất thốt trung bình 30%).
Một trong những biện pháp có thể được sử dụng để cải thiện cơ chế quản lý đầu
tư công là thành lập một hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập. Một nguyên
nhân quan trọng của tình trạng thất thốt, lãng phí trong đầu tư cơng là do q
trình ra quyết định đầu tư của chính quyền địa phương và các bộ ngành chủ
quản chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích và do vậy thiếu khách quan. Vì vậy,
nhiệm vụ của ủy ban độc lập này là đánh giá, thẩm định một cách toàn diện và
khách quan các dự án có quy mơ vượt q một quy mơ đầu tư nhất định nào đó.
Kết luận của Hội đồng thẩm định này sau đó được cơng bố rộng rãi. Tương tự
như vậy, báo cáo kiểm toán các doanh nghiệp nhà nướcvà dự án đầu tư công
lớn cũng phải được cơng khai.
Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ
cũng cần cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ
thuộc quá nhiều (tới hơn 40%) vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và
thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân
(hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con số này ở các nền
kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Thật bất công và kém
hiệu quả khi nhiều người sau một đêm trở thành triệu phú nhờ vào việc Nhà
nước đầu tư cơ sở hạ tầng (Cơ sở hạ tầng) tại nơi họ có bất động sản, trong khi


lại khơng phải đóng góp gì cho ngân sách nhà nước. Áp dụng thuế bất động sản
đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền vững cho ngân sách nhà nước, đồng thời

giúp Nhà nước thực hiện được các chương trình đầu tư Cơ sở hạ tầngvì quốc
kế dân sinh.
Những khó khăn hiện tại của nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn từ những bất cập
trong chính sách phát triển dài hạn. Chủ trương tăng trưởng nhờ vào số lượng
thông qua đầu tư ồ ạt, dựa vào khu vực nhà nước vốn kém hiệu quả, đồng thời
thiếu sự phối hợp đồng bộ trong điều hành vĩ mô đã đưa nền kinh tế Việt Nam
từ bối cảnh sau khi gia nhập WTO vơ cùng thuận lợi đến tình trạng lạm phát và
bất ổn vĩ mơ như hiện nay.
Vẫn cịn may là những khó khăn của Việt Nam hiện nay hồn tồn có thể giải
quyết được nếu Chính phủ có quyết tâm mạnh mẽ và chính sách đúng đắn,
trong đó kỷ luật tài khóa là điều kiện quan trọng nhất. Thắt chặt và nâng cao
hiệu quả của chi tiêu công, đặc biệt là áp đặt kỷ luật nghiêm ngặt đối với hoạt
động đầu tư của các tập đoàn nhà nước là điều kiện tiên quyết để có thể khơi
phục lại cân bằng vĩ mơ và gia tăng hiệu quả, tính ổn định và đà tăng trưởng cho
nền kinh tế.

II – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC XỬ LÝ THÂM HỤT
NSNN Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ
1. Những vấn đề đặt ra trong việc xử lý thâm hụt ngân sách NSNN ở
Việt Nam:
* Để giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách, Nhà nước sẽ phải tăng thuế
hoặc vay nợ thông qua phát hành trái phiếu. Cả hai hành động này đều tác
động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Với việc tăng thuế, các doanh nghiệp sẽ phải chịu gánh nặng chi phí
nhiều hơn, làm giảm động lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Nếu tăng thuế
thu nhập thì mức tiêu dùng cũng giảm, làm giảm một phần tổng cầu. Trong bối
cảnh hiện nay, khi Việt Nam cần cải thiện môi trường kinh doanh và cạnh tranh
với các nước trong khu vực để tạo mơi trường kinh doanh hấp dẫn thì khả năng
tăng thuế thu nhập doanh nghiệp là không nhiều. Thêm vào đó, việc cam kết các
điều khoản của WTO và tham gia vào các hiệp định thương mại song phương

cùng các khu vực tự do kinh tế cũng dẫn tới cắt giảm thuế quan chứ không phải
ngược lại. Do đó, cơ hội tăng thuế đối với Chính phủ chủ yếu đến từ việc tăng


thuế thu nhập cá nhân. Đây là đối tượng còn dư địa cho chính sách thuế, nhưng
cũng chưa cải thiện được về quy mơ trong ngắn và trung hạn vì đối tượng thu


thuế và số thu thuế hiện không đáng kể (chỉ khoảng 8.000 – 10.000 tỷ
đồng/năm). Do đó, việc tăng thuế để cải thiện nguồn thu có tính khả thi thấp
trong điều kiện hiện nay.
Vì thế, Chính phủ sẽ buộc phải tài trợ cho ngân sách bị thâm hụt trong
thời gian tới chủ yếu thơng qua vay nợ. Có 2 nguồn vay nợ: trong nước và nước
ngoài.
Đối với nguồn thứ nhất thì hậu quả là khiến lãi suất chung bị ghìm giữ ở
mức cao. Do đó, việc vay nợ nội địa quy mô lớn khiến cho mặt bằng lãi suất cao
hoặc khơng duy trì được mức thấp để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi kinh tế.
Đối với nguồn thứ hai thì việc vay nợ thành cơng từ nước ngồi đồng thời
có thể tài trợ cho thâm hụt trên cán cân thanh tốn. Tuy nhiên, việc vay nợ nước
ngồi thường xun và quy mơ ngày càng tăng có thể dẫn tới những rủi ro rất
cao như từng thấy ở các nước Mỹ La tinh những năm 1980 – 1990.
* Đến nay Việt Nam vẫn chưa có chiến lược thực hiện giảm thâm hụt
ngân sách trung và dài hạn, việc dự toán ngân sách hàng năm vẫn mang tính
đối phó cấp thời, khơng có lộ trình thực hiện giảm thâm hụt ngân sách.
Các mục tiêu chính sách của các bộ ngành, địa phương bị đẩy vào ngân
sách một cách ồ ạt, thiếu sự lựa chọn hợp lý. Ngành nào, địa phương nào cũng
kêu ngân sách chưa đáp ứng nhu cầu nhưng đầu tư, phát triển thì phân tán, chỗ
nào cũng đầu tư nhưng khơng đủ vốn nên hiệu quả rất thấp, lãng phí diễn ra
khắp nơi.
* Cắt giảm chi tiêu nhằm giảm thâm hụt ngân sách.

Cụ thể là Chính phủ chỉ thị: (i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín
dụng nhà nước; (ii) Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của
doanh nghiệp nhà nước; (iii) Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước
các cấp.
Tổng đầu tư của Nhà nước luôn chiếm trên dưới 50% tổng đầu tư của
tồn xã hội. Vì vậy, khơng nghi ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một số
khoản đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát
chắc chắn sẽ nhẹ đi. Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế
bớt nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt giảm chi thường xun
Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu cơng là hoàn toàn đúng đắn, song
hiệu lực của những biện pháp cụ thể đến đâu thì cịn chưa chắc chắn vì ít nhất
có bốn lý do.


Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ
dàng, nhất là khi những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết
định; đã được đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành, địa phương; đã được triển
khai; và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết thân của những cơ quan liên quan
đến dự án.
Thứ hai, Nhà nước hầu như khơng thể kiểm sốt các khoản đầu tư của
các doanh nghiệp nhà nướcmột mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu
tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã tự thành lập ngân hàng riêng.
Thứ ba, với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức
đầu tư cơng theo đúng dự tốn cũng đã được coi là một thành tích đáng kể.
Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường xun
rất khó khăn nên đây thường là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt
giảm. Hơn thế, với thực tế ở Việt Nam thì phạm vi chi thường xun có thể cắt
giảm không nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi quỹ lương (chiếm khoảng 2/3 tổng chi
thường xuyên), sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi
chính sách chế độ, tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc tế, các khoản chi

thường xuyên đã được thực hiện…
*Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư cơng
Chính sách giảm tổng cầu thơng qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn,
cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm chi tiêu cơng của Chính phủ chỉ thực sự
có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế để đảm bảo những khoản
đầu tư cịn lại có hiệu quả. Đầu tiên là phải có cơ chế quản lý đầu tư cơng sao
cho những dự án kém hiệu quả (như chương trình 5 triệu tấn đường hay đánh
bắt xa bờ) bị loại bỏ ngay từ đầu. Sau đó, phải đảm bảo dự án được tiến hành
đúng tiến độ và khơng bị thất thốt, lãng phí (như dự án 112 và các dự án đầu tư
xây dựng cơ bản - được ước lượng là thất thốt trung bình 30%).
Một trong những biện pháp có thể được sử dụng để cải thiện cơ chế quản
lý đầu tư công là thành lập một hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập. Một
nguyên nhân quan trọng của tình trạng thất thốt, lãng phí trong đầu tư cơng là
do q trình ra quyết định đầu tư của chính quyền địa phương và các bộ ngành
chủ quản chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích và do vậy thiếu khách quan. Vì
vậy, nhiệm vụ của ủy ban độc lập này là đánh giá, thẩm định một cách toàn diện
và khách quan các dự án có quy mơ vượt q một quy mơ đầu tư nhất định nào
đó. Kết luận của Hội đồng thẩm định này sau đó được cơng bố rộng rãi. Tương
tự như vậy, báo cáo kiểm toán các Doanh nghiệp nhà nướcvà dự án đầu tư công
lớn cũng phải được công khai.
Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu,
Chính phủ cũng cần cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân
sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn 40%) vào các nguồn thu không bền vững từ


×