Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.66 KB, 13 trang )

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị Hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ
cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự vận
dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu
thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.

HÀ NỘI - 2022
MỤC LỤC
Ví dụ:
Lời mở đầu …………………………………………………………………. ..…tr.
I. Nội dung quan điểm…….………………………………………….tr.
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng của Hồ Chí Minh:
…………………………………………..tr.
2. Cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam


II. VẬN DỤNG VÀO SỰ PHÁT TRIỂN CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM
NGÀY NAY
Kết luận: ……………………………………………………………………….tr.


LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính
yêu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, là một chiến sĩ cách mạng xuất
sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải
phóng dân tộc. Dưới sự chỉ đường của tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo tài tình của
Đảng, với đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân tộc Việt Nam đã
giành được độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội với những thắng lợi to lớn căn bản,
có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa


chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và nhân dân ta, phù hợp với xu thế
vận động tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Nhờ đó, đất nước
ta đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước, đặc biệt là những thành tựu to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln vận
dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù
hợp với đặc điểm, bối cảnh, tình hình cách mạng nước ta. Đây là khoảng thời gian lâu dài
đối với một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, nhưng đối với thời kỳ quá độ - một giai
đoạn chuyển tiếp từ một hình thái kinh tế xã hội cũ sang một hình thái kinh tế xã hội mới
thì chỉ là một chặng đường của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Những kết quả, thành tựu phát triển khả quan của những năm đổi mới vừa qua cũng đã
chứng minh tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang tiếp
tục soi sáng con đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Để thực hiện thành
công thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội phải giải quyết những nhiệm vụ về kinh tế,
chính trị… Trong đó trọng tâm là những nhiệm vụ về kinh tế, nhiệm vụ này được Lênin
phân tích rất rõ trong chính sách kinh tế mới và được Bác kế thừa và chỉ đạo đưa Việt
Nam “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Bài tiểu luận của em dưới đây trình bày những khía cạnh xung quanh làm rõ quan điểm
của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Đồng thời chỉ ra sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc phát triển cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.
Chắc chắn trong quá trình thực hiện bài sẽ có những sai sót khơng tránh khỏi. Bài tập lớn
đã được kế thừa nội dung của cuốn “Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh” do Bộ Giáo dục
và Đào tạo xuất bản cũng như những tư liệu được thu thập và tổng hợp thông qua các
trang báo, mạng uy tín.
Em xin chân thành cảm ơn thầy đã hướng dẫn cho em hoàn thành bài tập lớn này!


I. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng của Hồ Chí Minh:


a. Tính chất: Đây là thời kỳ cải biến sâu sắc nhất nhưng phức tạp, lâu dài, khó khăn, gian
khổ.
=> Quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan
niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Một trong những vấn đề lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh là giải quyết mối
quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, với xã hội
Việt Nam thuộc địa, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện tiên quyết
để phát triển đất nước. Nhưng nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc, tự do
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì, tức là độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.
=> Trong thời đại hiện nay, các dân tộc chỉ có hai lựa chọn là, theo con đường phát triển
tư bản chủ nghĩa, hay cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Sự lựa
chọn con đường nào phụ thuộc vào nhận thức và hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của mỗi dân
tộc. Nhưng, xu hướng phát triển chung là các dân tộc đều đi lên chủ nghĩa xã hội, dù cho
con đường đó diễn ra lâu dài, gian khổ và cách thức tiến hành sẽ không giống nhau. Điều
ấy được kiểm chứng rõ trong tính đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, là từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, sau khi giành được độc lập đã bỏ qua sự
phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội. Nước ta phải trải qua một
quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh với quyết tâm
chống lại ách đô hộ và xâm lược của đế quốc, thực dân, để bảo vệ nền độc lập dân tộc và
chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong thời kỳ q
độ, chúng ta dễ có những nhận thức khơng tồn diện, lệch lạc: Một là, xem nhẹ, khơng
tính đến đầy đủ chiều hướng suy tàn, tiêu vong của hình thái kinh tế - xã hội cũ, từ đó
khơng thấy hết tính chất khó khăn, phức tạp của sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ, lỗi
thời, lạc hậu với những cái mới đang hình thành, có xu hướng tiến bộ và phải trải qua một
quá trình lâu dài, cái mới tiến bộ khẳng định xu hướng phát triển hợp với điều kiện mới.
Hai là, ngộ nhận về thắng lợi, chỉ có phát triển đi lên của những nhân tố mới, nhất là khi
nó đang trong giai đoạn hình thành, đang phải trải qua những bước “quá độ”, không thấy

những khó khăn, thối trào, thậm chí có thể thụt lùi tạm thời để củng cố và phát triển các
lĩnh vực đời sống xã hội.
- Đặc điểm: Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta
có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không
phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
=> Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Ở đây có hai điểm cần lưu ý:
Thứ nhất, cần phải bỏ qua chế độ TBCN vì đó là một chế độ áp bức bóc lột, nô dịch con
người. CNTB đã ra đời như một kiểu chế độ xã hội tất yếu từ cuộc đấu tranh giai cấp
giữa giai cấp tư sản với giai cấp phong kiến. Do đó, CNTB đương nhiên cũng sẽ bị


CNXH phủ định về nguyên tắc trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai
cấp tư sản. Tiến lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN vì thế là phù hợp với xu thế vận động
khách quan của lịch sử.
Thứ hai, “tiến thẳng” lên CNXH chỉ với nghĩa là bỏ qua tất cả những gì là mặt trái, là tiêu
cực của chế độ TBCN. Giai cấp vô sản nhất thiết phải tận dụng, phát huy những ưu việt,
tích cực đã có sẵn của CNTB. Với hồn cảnh, điều kiện và trình độ phát triển của Việt
Nam, “tiến thẳng” lên CNXH đòi hỏi phải tiến dần từng bước, từ từ từng bước một,
không thể làm bừa, làm ẩu theo lối chủ quan, duy ý chí. Tại Đại hội II(1951) của Đảng,
Người đã xác định: phải chuẩn bị những điều kiện để hoàn thành Cách mạng dân tộc dân
chủ sau đó tiến dần lên CNXH.
=> Người hình dung tính chất phức tạp, lâu dài của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước
ta: xây dựng CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ, lâu dài. Một
chế độ này biến đổi thành chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu
dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới. Trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý
đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao
của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước
ta. Quá trình đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, trải
qua một thời kỳ quá độ, nhiều bước trung gian, quá độ nhỏ. Đối với cuộc cách mạng xã

hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cho rằng: "Chúng ta phải xây dựng một xã hội hồn tồn
mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những
nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải
thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới
khơng có bóc lột áp bức. Muốn thế, chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông
nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực
khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc"
- Nhiệm vụ: Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực
chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai
cấp gay go phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách
mạng dân tộc dân chủ so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi.
Điều này địi hỏi phải áp dụng tồn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là một q trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài.
Chúng ta phải xây dựng một xã hội hồn tồn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân
tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có
gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp
bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới khơng có bóc lột áp bức. Muốn thế chúng ta phải
dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp.
Chúng ta phải dần dần tập thể hóa nơng nghiệp. Chúng ta phải tiến hành cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải
biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh


phúc. Chúng ta lại phải tiến hành những nhiệm vụ đó trong những điều kiện đặc biệt của
nước ta, nghĩa là trên cơ sở của một xã hội vừa mới thoát khỏi ách thực dân, phong kiến,
hết sức lạc hậu và trong hoàn cảnh nước ta đang bị chia cắt làm hai miền. Trong những
điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ

nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề đặt ra trước mắt Đảng ta hiện
nay. Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mị mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm,
thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm
ấy một cách sáng tạo.
2. Cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hồn cảnh cụ thể của nước ta.
Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có tính ngun tắc về
phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém,
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng
ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ
chốt và lâu dài”.
Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý
Người khẳng định: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông
nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”. Nông nghiệp phải phát
triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu….Công
nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết
là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh
nơng nghiệp và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên
công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cũng nhau phát triển, như hai chân
đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực
hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung
sướng cho nhân dân.
Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội trong thời
kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn nhiều hình thức sở hữu và

nhiều thành phần kinh tế.
Người chỉ ra rằng, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó cịn các hình thức sở hữu chính: “Sở
hữu của nhà nước, tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã, tức là sở hữu tập thể của
nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ. Tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của
nhà tư bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là các thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác


định: “Trong chế độ dân chủ mới, có 5 loại kinh tế khác nhau…trong 5 loại ấy, loại A
(kinh tế quốc doanh) là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ
phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa ra
chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
Một là, Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là cơng. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của
kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng
hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của cơng, khai gian lậu thuế thì phải
trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ cơng
nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính
phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia,
phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
Hai là, Chủ thợ đều lợi. Nhà nước tư bản không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm
họ bóc lột nhân dân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi cho cơng nhân. Đồng thời,
vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá
mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.
Ba là, Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng
khác, để cũng cấp cho nơng dân. Nơng dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp
lương thực và các thứ ngun liệu cho cơng nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh
giữa công nông.
Bốn là, Lưu thơng trong ngồi. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán cho các nước bạn
và để mua những thứ ta cần dùng. Các bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta những
hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi

cho kinh tế ta.
các thành phần kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất đều
bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Giữa các thành phần kinh tế có quan hệ
tương hỗ với nhau, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau. Các thành phần kinh tế đều
vận động, phát triển trên nền tảng chung là các nguồn lực (đất đai, vùng biển, đảo, vùng
trời và các tài nguyên gắn với chúng; ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác mà Nhà
nước huy động được, các quỹ dự trữ; các nguồn lực trí tuệ...) thuộc sở hữu toàn dân mà
Nhà nước được Nhân dân ủy quyền đại diện chủ sở hữu, quản lý, sử dụng hiệu quả vì
mục tiêu phát triển đất nước. Muốn sử dụng các nguồn lực chung đó các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế phải thông qua đấu giá công khai, minh bạch, hoặc thông
qua các hợp đồng kinh tế với Nhà nước theo cơ chế thị trường. Đồng thời, các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cũng được sử dụng các cơ sở kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội do Nhà nước sử dụng nguồn lực chung thuộc sở hữu toàn dân, xây dựng để phục
vụ chung cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế được sử dụng thị trường chung, đồng tiền chung, các dịch vụ công... của
Nhà nước. Nhà nước tạo lập mơi trường bình đẳng, minh bạch, thơng thống, theo cơ chế
thị trường để các thành phần kinh tế cùng huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực của xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và vì vậy, mà các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho các chủ sở hữu của


mình, mà cịn phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước và thực hiện trách nhiệm xã
hội.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây
dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải
của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”, “Sản xuất mà không tiết kiệm thì
khác nào gió vào nhà trống”. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sản xuất và tiết
kiệm gắn với nhau như một phương châm. Phải luôn thực hành trong một nền kinh tế
nghèo nàn lạc hậu lại phải chịu nhiều bom đạn chiến tranh, chịu nhiều thiên tai bất

thường. Phát triển sản xuất để tăng sản phẩm xã hội và thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí là hai mặt biện chứng trong các chặng đường phát triển của đất nước, nâng cao đời
sống nhân dân.
Đồng thời, Người căn dặn trong phát triển kinh tế phải chống tham ô, lãng phí, quan liêu
là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, ba căn bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu “là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của
Chính phủ”. Loại kẻ thù này “khá nguy hiểm, vì nó khơng mang gươm mang súng, mà nó
nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta”. Dù có cố ý hay khơng, tham
ơ, lãng phí, quan liêu “cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến”. “nó làm hỏng
tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của
ta là cần, kiệm, liêm, chính”. Nó “phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải
của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”.
Việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và
tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói
giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải
quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội
nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.
II. VẬN DỤNG VÀO SỰ PHÁT TRIỂN CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM NGÀY
NAY
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu, làm sáng tỏ về cả
lý luận và thực tiễn vấn đề về các thành phần kinh tế và khẳng định, đặc điểm kinh tế cơ
bản có tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tồn tại khách
quan của nhiều thành phần kinh tế dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Đây là đặc
trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng xây dựng đường lối cách mạng
đúng đắn, tổ chức lực lượng và lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu vĩ đại của dân tộc

cho thấy, cơng tác lý luận ln đóng vai trị định hướng sự phát triển của cách mạng nước


ta trong cả hiện tại lẫn tương lai. Chỉ bằng cách khơng ngừng nghiên cứu, phát triển lý
luận mới có thể làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục là nền
tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng, tiếp tục phát huy
vai trò tiên phong của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại đang tiếp tục phát triển nhanh
chóng, q trình tồn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ. Ở trong nước, nguy cơ
chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn; tệ quan liêu, nạn tham nhũng và nguy cơ
tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu; các thế lực thù địch không ngừng chống phá với âm mưu
“diễn biến hịa bình”... Hàng loạt vấn đề đặt ra đòi hỏi Đảng ta phải nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn, xây dựng cho được một nền tảng lý luận phù hợp, với ba yêu cầu cơ
bản, đó là: Đáp ứng nhu cầu phát triển của quảng đại quần chúng nhân dân; tạo động lực
phát triển xã hội; gắn kết với thực tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Thực tế cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng và không ngừng vận dụng, bổ
sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở cho
việc hoạch định các chủ trương, đường lối, tổ chức lực lượng cách mạng, chỉ đạo các hoạt
động thực tiễn, thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Tại Đại hội VI của Đảng (tháng 121986), Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới, bắt đầu bằng đổi mới tư duy với quan
điểm: Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trải qua gần 35 năm đổi mới, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan,
phương pháp luận của Đảng; bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức của toàn Đảng để
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng.
Đảng đã vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc nghiên cứu, phát
triển lý luận, thấm nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể để làm rõ hơn lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với quyết tâm khắc
phục cách nghĩ, cách làm giản đơn, giáo điều, duy ý chí, xóa bỏ cơ chế tập trung, bao
cấp, tôn trọng quy luật khách quan, Đảng cũng xác định rõ mơ hình chủ nghĩa xã hội ở

nước ta với 8 đặc trưng cơ bản, trong đó nhấn mạnh nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, nhằm thực hiện thành
công mục tiêu xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến
trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành trong thời kỳ đổi mới và được Đảng ta nhận
thức ngày càng đầy đủ hơn. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát triển, cạnh tranh bình
đẳng, hợp tác cùng phát triển, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đó là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nhận thức lý luận về thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự phát triển đầy sáng tạo, một
thành tựu lý luận có ý nghĩa to lớn làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế nước ta.


Trong quá trình phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế Đại hội XI của Đảng tiếp tục
khẳng định: “Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã. Hồn thiện cơ chế, chính
sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh
tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch”. Đại hội
cũng chỉ rõ 4 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh
tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các
nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ

chế thị trường”.
Kết quả của 35 năm đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao,
trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế không thuận lợi); Tiềm
lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ USD (đứng thứ 4
Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng
6%/năm, năm 2020 đạt 2,91% ; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD năm 2020.
(xếp thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131 quốc gia và
nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng tạo. Những kết quả nêu trên, một lần nữa khẳng
định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Các thành
phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và tính đặc thù và
phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành phần
kinh tế tồn tại có ví trí, vai trị riêng để thực hiện các nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh
thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối
đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các
vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh
tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 và suy thối kinh tế tồn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè
quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.


Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng cịn khơng ít khuyết
điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển

đất nước. Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững;
kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có
doanh nghiệp nhà nước cịn hạn chế; mơi trường bị ơ nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản
lý, điều tiết thị trường cịn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày
càng quyết liệt trong q trình tồn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta
đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng
chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng
bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây
dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập
2, trang 337 - 338).
Trong tất cả các nguồn lực để phát triển thì nguồn lực con người Việt Nam là quan trọng
nhất. Hệ giá trị con người Việt Nam cần xây dựng trong sự nghiệp cách mạng nói chung
và trong cơng cuộc đổi mới giai đoạn hiện nay chính là những nội dung trên cơ sở bắt
nguồn từ tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đất nước đang cần có những con
người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc, để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và
bền vững. Đó là những người yêu nước nhiệt thành, có đủ phẩm chất đạo đức cách mạng,
có tầm cao trí tuệ trong một đất nước đổi mới, hội nhập quốc tế. Giá trị con người đó có
trong di sản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà tồn Đảng, toàn dân cần
học tập và làm theo. Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
hiện nay cũng là xuất phát từ sự nghiệp giải phóng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và mục tiêu cuối cùng là giải phóng
con người. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là xây
dựng hệ giá trị con người Việt Nam theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sự phát triển trên thế giới cho thấy, CNXH không phải là sự đối lập với CNTB, mà là sự
kế thừa phát triển theo hình vịng xốy ốc ở nấc thang cao hơn. Chính quan niệm đối lập
giữa CNXH với CNTB trong thời gian những năm tháng chiến tranh lạnh, đã đẩy đến
việc xác định mơ hình CNXH khơng phù hợp với thực tiễn. Hơn nữa sự phát triển của
khoa học và cơng nghệ, của tồn cầu hóa đã góp phần hình thành nền kinh tế tri thức,
được các học giả xem như là cơ sở kinh tế của xã hội tương lai. Bản thân thực tiễn phát

triển cũng chỉ rõ mô hình kinh tế thị trường khơng phải là riêng có với CNTB, mà kinh tế
thị trường - một phương thức phát triển phù hợp, cho phép phát huy sức mạnh tổng hợp
các nguồn lực - là thành tựu phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Và cũng vì vậy
CNXH khơng phải đối lập với thị trường, mà chính thông qua nền kinh tế thị trường là
phương thức phù hợp cho phép chúng ta huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất
của xã hội mới - xã hội XHCN. Như vậy các xu hướng phát triển thế giới đã tạo ra cơ hội
cho các quốc gia xác lập mơ hình xã hội mới phù hợp. Đối với Việt Nam đó chính là nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây chính là con đường phù hợp để Việt Nam thực
hiện: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


KẾT LUẬN
Như vậy, trong các chặng đường phát triển kinh tế khác nhau thì nhận thức về thành phần
kinh tế cũng có sự thay đổi, đó là q trình khách quan phù hợp với quy luật nhận thức.
Mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí, vai trị nhất định vào sự phát triển của đất nước
trong thời kì quá độ lên CNXH. Cho nên,quá trình đổi mới tư duy về các thành phần kinh
tế ở nước ta qua các kỳ Đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.Các thành
phần kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất đều bình đẳng
với nhau và bình đẳng trước pháp luật, cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi
nguồn lực xã hội đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục
tiêu chung "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Tóm lại, tư tưởng Hồ
Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam đã thể hiện những nội dung đặc sắc,
trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc
điểm, tình hình kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ. Tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền
vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ cịn tiếp tục
phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển
của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê
phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học
thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi

thở của thời đại, khơng rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống. Thực tiễn luôn
vận động biến đổi và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, những nội dung tư tưởng về thời kỳ
quá độ của Người vẫn giữ nguyên giá trị, cần tiếp tục bổ sung, phát triển trong điều kiện
mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Trang thơng tin điện tử - Hội đồng lí luận trung ương


3. Tạp chí cộng sản – Cơ quan lí luận chính trị của ban chấp hành trung
ương đảng cộng sản
4. Báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam – Hệ thống tư liệu văn kiện đảng
5. Trang thông tin điện tử - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
6. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam – Hệ thống tư liệu, văn kiện đảng



×