Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.97 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN
CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ LỮ HÀNH

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: Hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu
trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.

Họ và tên sinh viên: Lê Việt Hà
MSV: 12001168
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh_01
Giảng viên: Nguyễn Chí Thiện

HÀ NỘI - 2022

0


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 2
PHẦN 1: TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ
CẤU KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM.................................................................................................................................. 3
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin...................................................................3
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.............................................................................................................. 4
PHẦN 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÊU TRÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY................7


1. Đề cập thông qua các kì Đại hội Đảng....................................................................7
2. Liên hệ thực tiễn hiện nay......................................................................................10
2.1. Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế..................................................10
2.2. Đột phá ở từng địa phương.................................................................................11
2.3. Việt Nam trở thành một trong các quốc gia thu hút FDI thành công nhất trong
khu vực..................................................................................................................... 12
2.3. Trách nhiệm xã hội là thước đo của thành công.................................................13
KẾT LUẬN.....................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................15

1


MỞ ĐẦU
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Theo Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản nên xã hội
xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của chủ nghĩa tư
bản, đấy là một nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu tư
liệu sản xuất
tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao động,
phương tiện lao động trong quá trình sản xuất "đã phát triển dần đến máy móc, sức
điện, sức nguyên tử". Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí
Minh diễn đạt là: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung; là tư liệu sản
xuất thuộc về nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu tư liệu sản
xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam đã đề cập đến nhiều mặt, ảnh hưởng và góp phần khơng nhỏ
đường lối xây dựng nên Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa vững mạnh. Liên hệ từ thực tiễn

đó, Đảng ta đã vận dụng những quan điểm tiến bộ Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
phát triển nền kinh tế nước ta. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam trở thành
quốc gia đang phát triển mới nổi trong phạm vi ASEAN và toàn thế giới giúp cho đời
sống của nhân dân ngày càng tiến bộ và văn minh hơn.
Chính vì những lí do đó việc nghiên cứu và làm rõ đề tài: Quan điểm của Hồ
Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và
sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển
nền kinh tế nước ta hiện nay trở nên có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Mặc dù đã cố gắng hết sức song với thời gian và trình độ học vấn cịn hạn chế, kính
mong thầy cơ thơng cảm trước những thiếu sót của bài tập lớn này!

2


PHẦN 1: TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ CƠ CẤU KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
C.Mác khẳng định: "Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa
là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ
ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác
hơn là nền chun chính cách mạng của giai cấp vô sản".
Vận dụng và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện
mới, sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin khẳng định: "Với sự giúp đỡ của giai cấp vô
sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xơ - viết, và qua những
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Quán triệt và vận dụng, phát triển và sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế thời đại, trong
bối cảnh tồn cầu hố và cách mạng công nghiệp 4.0, các nước lạc hậu, sau khi giành

được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, Hồ
Chí Minh xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo nền
kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại. Đây
là quá trình xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Giữa cải tạo
và xây dựng thì xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với
thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

3


Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hồn cảnh cụ thể
của nước ta. Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có
tính ngun tắc về phát triển kinh tế ở Việt Nam.
2.1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,…
có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong
quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây
dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
2.2. Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý.
Người khẳng định: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công
nghiệp và nông nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”.
Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung

cấp đủ nguyên liệu….Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp hàng tiêu
dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước,
phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nơng nghiệp và cung cấp dần máy cày,
máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp
phải giúp đỡ lẫn nhau và cũng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì
tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh
công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng
cho nhân dân.
2.3. Tất yếu khách quan phải tiến hành cơng nghiệp hóa.
Cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường
no ấm thực sự của nhân dân ta. Trong bài con đường phía trước (ngày 20-011960), Người viết: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng
máy móc để sản xuất thật rộng rãi; dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong
4


nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp
trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì
phải mở mang các ngành cơng nghiệp làm ra máy, ra gang, ra thép, than, dầu… Đó
là con đường phải đi của chúng ta: Con đường cơng nghiệp hóa nước nhà”.
2.4. Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cịn nhiều hình thức
sở hữu và nhiều thành phần kinh tế.
Người chỉ ra rằng, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó cịn các hình thức sở hữu
chính: “Sở hữu của nhà nước, tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã, tức là sở
hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ. Tư liệu
sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là các thành
phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “Trong chế độ dân chủ mới, có 5 loại kinh tế
khác nhau…trong 5 loại ấy, loại A (kinh tế quốc doanh) là kinh tế lãnh đạo và phát
triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ

không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí
Minh đưa ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
Một là, công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là cơng. Nó là nền tảng và sức
lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và
nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của cơng,
khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá
nhân của nơng dân và thủ cơng nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây
dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải
phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân
dân.
Hai là, chủ thợ đều lợi. Nhà nước tư bản khơng khỏi bóc lột. Nhưng Chính
phủ ngăn cấm họ bóc lột nhân dân q tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi cho
cơng nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số
5


lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản
xuất lợi cả đôi bên.
Ba là, công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ
cần dùng khác, để cũng cấp cho nơng dân. Nơng dân thì ra sức tăng gia sản xuất,
để cung cấp lương thực và các thứ ngun liệu cho cơng nhân. Do đó mà càng thắt
chặt liên minh giữa công nông.
Bốn là, lưu thơng trong ngồi. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán cho
các nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các bạn mua những thứ ta đưa ra
và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch,
giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
2.5. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ơ, lãng phí,
quan liêu.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường

đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”, “Sản xuất
mà khơng tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”. Theo quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, sản xuất và tiết kiệm gắn với nhau như một phương châm. Phải luôn
thực hành trong một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu lại phải chịu nhiều bom đạn
chiến tranh, chịu nhiều thiên tai bất thường. Phát triển sản xuất để tăng sản phẩm
xã hội và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là hai mặt biện chứng trong các
chặng đường phát triển của đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.
Đồng thời, Người căn dặn trong phát triển kinh tế phải chống tham ô, lãng
phí, quan liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, ba căn bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu “là kẻ thù của nhân
dân, của bộ đội và của Chính phủ”. Loại kẻ thù này “khá nguy hiểm, vì nó khơng
mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công
việc của ta”. Dù có cố ý hay khơng, tham ơ, lãng phí, quan liêu “cũng là bạn đồng
minh của thực dân và phong kiến”. “nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí
khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm,
6


chính”. Nó “phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ
và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”.
PHẦN 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÊU TRÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN
NAY
1. Đề cập thơng qua các kì Đại hội Đảng
Những quan điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa là cơ sở lý luận nền tảng
trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng và phát triển vào thực tiễn xây
dựng chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam:

Đại hội ĐBTQ lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã hoạch định và thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác sức mạnh toàn dân trong các
thành phần kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đại hội lần thứ VII của
Đảng (năm 1991) tiếp tục chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế gia đình tuy khơng phải là một
thành phần kinh tế độc lập nhưng được khuyến khích phát triển. Đại hội lần thứ
VIII của Đảng (năm 1996) xác định nền kinh tế nước ta gồm các thành phần: kinh
tế nhà nước; kinh tế hợp tác; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh
tế tư bản tư nhân.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) chỉ rõ: “Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, với các thành phần: kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước

7


ngoài là sự bổ sung mới, thể hiện rõ tầm quan trọng của sự thu hút các nguồn lực
bên ngoài cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Đây là sự vận dụng quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngun tắc "lưu thơng trong - ngồi".
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), Nghị quyết Đại hội
lần thứ X của Đảng (năm 2006) chỉ ra các thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân); kinh tế tư
bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; và khẳng định: “Các thành phần
kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Nhấn mạnh vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước, song Đảng cũng chỉ rõ “Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là

một trong những động lực của nền kinh tế”. Quan điểm này thể hiện sự đổi mới,
kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong tư duy kinh tế của Đảng ta, tạo
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân trong chiến lược phát
triển chung của nền kinh tế nước nhà.
Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục chủ trương phát triển
nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế. Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn
mạnh: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh”.
Đại hội XI, Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng đều thống nhất hoạch
định phương hướng phát triển nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng, Đảng ta đã có những khái quát mới về lý luận: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần

8


kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp
tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp với
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng làm rõ hơn vị trí, vai trị và chính
sách phát triển đối với các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực
lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định
hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà
nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an
ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá

chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế là sự vận dụng
sáng tạo và phát triển những quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, góp phần quan trọng trong việc huy động
sức mạnh của các thành phần kinh tế vào chiến lược phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Liên hệ thực tiễn hiện nay
2.1. Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế
Từ chỗ chỉ thừa nhận, cho phép tồn tại, phát triển hai hình thức sở hữu là
toàn dân (Nhà nước) và tập thể, hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể, đến nay, đã thừa nhận sự tồn tại khách quan nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế.
Đây là một bước đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế, giúp giải phóng sức
sản xuất vốn bị kìm hãm trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước kia, từ đó
huy động được tổng hợp các nguồn lực để xây dựng đất nước.

9


Trong đó, vai trị kiến tạo của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, vai
trò của kinh tế tư nhân được nhìn nhận sẽ là những trụ cột để tạo nên sức mạnh
kinh tế cho quốc gia.
- Đối với thành phần kinh tế nhà nước trong đó có doanh nghiệp Nhà nước,
sau 35 năm phát triển nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. Hệ
thống doanh nghiệp Nhà nước qua nhiều lần sắp xếp, chuyển đổi từng bước được
củng cố và đóng góp vào thành tựu của quá trình đổi mới. Nhiều doanh nghiệp
Nhà nước đứng vững trên thị trường, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nắm các
ngành kinh tế then chốt, đóng góp lớn cho ngân sách.
Hiện doanh nghiệp Nhà nước số lượng không lớn, chỉ chiếm khoảng 0,07% số

doanh nghiệp cả nước, nhưng đóng góp tới 7% tổng tài sản, 10% tổng vốn các
doanh nghiệp trên thị trường và 30% GDP, chưa kể tới đóng góp về lao động, việc
làm và vai trị điều tiết, ổn định thị trường khi có bất ổn, góp phần bảo đảm an sinh
xã hội, quốc phòng - an ninh…Những cái tên như: Viettel, EVN, PVN; Tập đồn
Dệt may Việt Nam...đang phát triển lớn mạnh khơng chỉ ở Việt Nam mà đã vươn
ra thế giới.
- Đối với khu vực kinh tế tư nhân, thực tiễn 35 năm Đổi mới đất nước, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước; đóng
góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất,
kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà
nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an sinh xã hội của đất nước.
Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 39-40%
GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan
trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, tạo
việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội,...
Đặc biệt lực lượng doanh nghiệp tư nhân đã góp phần thực hiện mục tiêu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi diện mạo đất nước, tạo dấu ấn, nâng

10


cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; hình thành nhiều thương hiệu
có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Thực tế những tên tuổi của các thương hiệu như Sungroup, Vingroup,
Macsan, TH True Milk, Thaco, Vinfast... đã khẳng định được vị thế của sản phẩm
Việt Nam, mang tầm quốc tế và có ảnh hưởng lớn trong chuỗi cung ứng tồn cầu.
Ngồi các mặt hàng nơng sản như gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều... thì nhiều sản
phẩm thuộc nhóm hàng cơng nghiệp của Việt Nam đã được thế giới biết tên, trong
đó, ơtơ Vinfast là một minh chứng.

2.2. Đột phá ở từng địa phương
Quảng Ninh, địa phương điển hình với sự tham gia của khu vực tư nhân
trong việc thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn lớn đã giúp Quảng Ninh
tạo đột phát kinh tế. Trong đó phải kể đến Tập đoàn Sun Group tham gia xây dựng
sân bay Vân Đồn - sân bay tư nhân đầu tiên ở Việt Nam, với tốc độ "thần tốc" khi
chỉ mất gần 2 năm xây dựng với số vồn đầu tư khủng lên tới 7.463 tỷ đồng.
Sân bay Vân Đồn không những vượt mặt nhiều sân bay khác về tốc độ thi
công nhanh chóng, hiệu quả và chun nghiệp mà cịn xuất sắc trở thành một trong
chín sân bay quốc tế hiện đại nhất Việt Nam. Sân bay Vân Đồn đã hiện thực hóa ý
chí, quyết tâm của Quảng Ninh trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, trong đó
ưu tiên hạ tầng đi trước một bước.
Ở địa phương khác, Hải Phòng đang có những bứt phá mạnh về mọi mặt
khiến đất cảng "lột xác" thần kỳ, trong đó khơng thể khơng kể đến sự hiện diện
của những dự án bất động sản đình đám, nhà máy sản xuất hiện đại thuộc Tập
đồn Vingroup.
Vùng đất Cát Hải của Hải Phịng, vốn là vùng nước lợ ven biển, người dân
sống chủ yếu với nghề nuôi trồng hải sản. Tuy nhiên, Cát Hải đã thay đổi hoàn
toàn khi trở thành một trong những "cứ điểm" sản xuất công nghiệp lớn nhất cả
nước sau chưa đầy 2 năm. Cát Hải là nơi đặt nhà máy sản xuất ôtô thương hiệu
Việt đầu tiên - VinFast với vốn đầu tư 4,2 tỷ USD.

11


Rất nhiều người Hải Phịng ngày nay, thay vì lao động trong những cơng
trường khói bụi thì làm việc trong những cao ốc văn phòng sang trọng hay những
nhà máy công nghệ cao vươn tầm thế giới như VinFast, hay tiếp đến là Vinsmart.
Khơng chỉ riêng Quảng Ninh, Hải Phịng, trên cả nước, rất nhiều dự án lớn
và khó, mang dấu ấn các doanh nghiệp tư nhân đã được hình thành nhiều năm qua.
Có thể kể đến một số dự án hạ tầng như hầm đường bộ Đèo Cả (26.000 tỷ đồng),

hầm Hải Vân 2 (7.200 tỷ đồng), cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (45.000 tỷ đồng), cầu
Bạch Đằng (7.200 tỷ đồng)…
2.3. Việt Nam trở thành một trong các quốc gia thu hút FDI thành công nhất trong
khu vực
Trong hơn 30 năm thu hút vốn FDI, Việt Nam đã thu hút trung bình hơn 7
tỷ USD/năm. Nghiên cứu về hiệu quả khu vực FDI trong giai đoạn 2011-2019 thấy
rằng, khu vực FDI đóng góp khoảng 25,7% cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
chiếm khoảng 13% GDP năm 2010 và 19,6% GDP năm 2019.
Ngay trong bối cảnh dịch COVID-19, vẫn có hàng loạt "đại bàng" cơng
nghệ trên thế giới như Foxcon, Luxshare, Pegatron..., những nhà sản xuất cung
ứng linh kiện, sản phẩm hàng đầu cho các "ông lớn" công nghệ toàn cầu Apple,
Sony, Microsoft đã đến đầu tư tại Bắc Giang, Hải Phòng gần đây. Nhiều chuyên
gia nhận định những tên tuổi lớn này có thể tạo ra làn sóng đầu tư mới vào Việt
Nam thời gian tới.
2.3. Trách nhiệm xã hội là thước đo của thành cơng
Vai trị của các thành phần kinh tế đã được thể hiện rõ nhưng trách nhiệm xã
hội của các thành phần kinh tế vì mục tiêu cơng bằng và tiến bộ xã hội cũng được
quan tâm hơn bao giờ hết.
Hiệu quả, thành công của các thành phần kinh tế không chỉ được đo bằng
hiệu quả kinh tế, mà còn được đo đếm bằng trách nhiệm xã hội cao cả, bằng tiềm
năng và cơ hội cho tương lai dài rộng.

12


Các doanh nghiệp nước ngoài cũng ngày càng phát huy trách nhiệm với
người tiêu dùng, môi trường, xã hội hay các nhân viên tham gia lao động trong các
doanh nghiệp của mình.
Minh chứng rõ nét nhất cho việc sẵn sàng gánh vác trách nhiệm xã hội phải
kể đến là đóng góp của khối nền kinh tế tư nhân. Trách nhiệm xã hội của khu vực

tư nhân thể hiện rõ nét trong trường hợp Sân bay Vân Đồn trong mùa dịch
COVID-19.
Khi dịch bệnh nguy hiểm bùng phát tại Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam
bằng rất nhiều nỗ lực đã quyết định thực hiện những chuyến bay “giải cứu” đồng
bào về nước. Khi ấy, sân bay Vân Đồn là một trong những cái tên “tiên phong” sẵn
sàng nhận nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm chưa từng có tiền lệ này.

13


KẾT LUẬN
Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu nêu ra các quan niệm về thời kỳ quá
độ lên CNXH theo cách tiếp cận khác nhau, song đều có chung một cách hiểu là
thời kỳ độc lập tương đối, một xã hội mà ở đó các lĩnh vực cơ bản chưa hồn tồn
là xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, trong xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, cái cũ và cái mới còn tồn tại đan xen, vừa chi phối ảnh hưởng lẫn nhau,
vừa đấu tranh với nhau để từng bước cho ra đời một thực thể xã hội mới, đúng
nghĩa là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Viê –t Nam đã thể hiện những nội dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng
tạo những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm, tình hình xã hội Viê t–
Nam. Thực tiễn ln vận động biến đổi và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, những
nội dung tư tưởng về thời kỳ quá độ của Người vẫn giữ nguyên giá trị, cần tiếp tục
bổ sung, phát triển trong điều kiện mới. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, việc phát
triển kinh tế luôn được đặt lên hàng đầu và là yếu tố cực kỳ quan trọng để đưa Việt
Nam trở thành một quốc gia sở hữu nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới.
Nước ta không chỉ thành công về kinh tế mà cịn đạt nhiều tiến bộ nhanh
chóng về mặt xã hội. Cả nước trong những năm gần đây (2020-2021) đã tạo ra hơn
8 triệu việc làm, thu nhập và mức sống của người dân ngày càng tăng lên. Đó
chính là những dấu ấn và thành tựu tích cực sau một khoảng thời gian dài Đảng và

Nhà nước đã học hỏi, phát huy và rút ra bài học kinh nghiệm từ những lý tưởng vĩ
đại của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb CTQG - ST, H.2001, tr.86.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG - ST, H.2006, tr.83.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.73.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.128-129; tr.139-141.
6. Học viện Chính trị Bộ Quốc phịng, Bài đăng trên tạp chí Tun giáo số
8/ 2019, Đại tá PGS. TS. Lê Xuân Thuỷ.
7. Báo Lao động, Thủ tướng: Việt Nam lọt top 16 nền kinh tế mới nổi thành
công nhất thế giới, số ra ngày 28/12/20210.
8. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (2019),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15




×