Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT MÁC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CHO SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.59 KB, 122 trang )








TIỂU LUẬN:



VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT
MÁC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CHO SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY







Trong bài viết này, học thuyết Mác về con người đã được tác giả luận giải trên cơ sở
làm rõ quan niệm của ông về “cơ sở hiện thực” cho sự tồn tại của con người với tư
cách thực thể sinh học – xã hội, về lao động với tư cách điều kiện quyết định của sự
hình thành con người, về sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã
hội trong con người, về mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội và về sự giải phóng con
người, giải phóng xã hội. Trên cơ sở này, khi luận giải vấn đề xây dựng con người
Việt Nam theo học thuyết Mác, tác giả đã phân tích và làm rõ phương hướng chung
về phát triển con người mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định trong công cuộc


đổi mới đất nước và đề xuất một số giải pháp để thực hiện phương hướng đó.

Trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau về con người, bản chất con
người. Tư tưởng triết học Cổ đại chủ yếu coi con người là một bộ phận của vũ trụ, là
một thứ tiểu vũ trụ nào đó luôn phục tùng một khởi nguyên tối cao là số phận. Kitô
giáo, ngay từ đầu, đã coi con người là một thực thể có hai bản nguyên gắn liền và
mâu thuẫn nhau là tinh thần và thể xác. Trong thời Cận đại, triết học duy tâm (tiếp
theo Kitô giáo) đã nhìn nhận con người trước hết ở bản chất tinh thần của nó, nghiên
cứu bản tính con người theo chủ nghĩa tự nhiên và thừa nhận quyền tự trị của lý
tính con người trong việc nhận thức bản chất của mình. Triết học duy tâm thế
kỷ XIX đã tuyệt đối hoá yếu tố tinh thần trong con người, quy bản chất con người về
cơ sở lý tính. Quan điểm này được thể hiện rõ nét trong triết học Hêghen.
Khác với Hêghen - đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm khách quan, C.Mác cho
rằng, “cơ sở hiện thực” của con người là “tổng số những lực lượng sản xuất, những
tư bản và những hình thức xã hội của sự giao tiếp mà mỗi cá nhân và mỗi thế hệ thấy
hiện có” (Chúng tôi nhấn mạnh – H.Đ.C)(1). Do vậy, theo ông, muốn nhận thức con
người phải hiểu “những cá nhân con người sống”, phương thức sinh sống của họ với
tư cách hoạt động và hành vi hoạt động đầu tiên của họ là sản xuất vật chất – phương
diện cơ bản của đời sống xã hội(2). Và, chỉ bằng cách ấy, những cá nhân con người
mới trở thành con người hiện thực. Tính hiện thực của con người thể hiện ở sự tồn
tại khách quan trong hoạt động thực tiễn của nó.“Con người không phải là một sinh
vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con
người, là nhà nước, là xã hội”(3). Xuất phát từ cơ sở hiện thực của con người, C.Mác


đã tạo nên bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người, về bản chất con
người, về con người với tư cách một thực thể sinh học – xã hội, với tư cách nhân
cách và về vị trí, vai trò của con người trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Điều kiện quyết định của sự hình thành con người, theo các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác là lao động. Lao động xuất hiện đánh dấu sự chuyển biến từ tổ tiên động vật

thành con người. Trong lao động, con người thường xuyên biến đổi những điều kiện
tồn tại của mình, cải tạo chúng cho phù hợp với những nhu cầu thường xuyên phát
triển của mình, xây dựng nên thế giới văn hoá vật chất và tinh thần của mình. Nền
văn hoá do con người sáng tạo ra như thế nào thì nền văn hoá ấy lại tạo ra con người
như vậy. Hoạt động lao động phát triển làm biến đổi toàn bộ bản chất tự nhiên của tổ
tiên con người. Về mặt xã hội, lao động đưa đến sự hình thành những chất mới - chất
xã hội của con người, như ngôn ngữ, tư duy, giao tiếp, quan niệm, định hướng giá trị,
thế giới quan… Không chỉ thế, lao động còn đưa đến sự cải tạo bản năng con người
trên hai bình diện là bắt bản năng phục tùng sự kiểm soát của lý trí và cải tạo bản
năng thành trạng thái mới về chất của hoạt động nhận thức. Tất cả những điều ấy làm
xuất hiện một loài sinh vật mới - Homo sapiens (người khôn) mà ngay từ đầu, nó đã
thể hiện tính xã hội và lý trí. Nhấn mạnh tính phổ biến của yếu tố xã hội trong con
người, C.Mác đã khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà những quan hệ xã hội” (Chúng tôi nhấn mạnh – H.Đ.C)(4). Bản chất con
người không phải là “cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt” như người ta
nghĩ, mà có tính lịch sử – cụ thể. Nghĩa là, nội dung của bản chất ấy, tuy về căn bản
là có tính xã hội, song tính xã hội ấy lại có sự biến đổi tuỳ theo nội dung cụ thể của
thời đại, của hoàn cảnh xã hội – văn hoá,… Tổng hợp những nét bản chất của con
người, có thể nói, con người là một thực thể có lý tính, là chủ thể của lao động, của
những quan hệ xã hội và giao tiếp.
Trên cơ sở quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh
về con người với tư cách thực thể sinh học – xã hội. Thông qua cấu trúc này, C.Mác
đã làm sáng tỏ mối quan hệ con người – tự nhiên – xã hội. C.Mác không phủ nhận
mặt sinh học khi xem xét con người với tư cách “những cá nhân sống”. Ông cho
rằng, “điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy”
và mọi khoa học “đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy”(5). Mặt sinh


học của con người thể hiện ra trong các hiện tượng hình thái – sinh lý học, di truyền
học, các quá trình thần kinh – não và một số quá trình khác của cơ thể con người.

C.Mác không thừa nhận quan điểm coi cái duy nhất tạo nên bản chất con người là
đặc tính sinh học. Mặt xã hội là nói về thế giới tinh thần bên trong của con người - đó
là những quá trình ý thức và vô thức, ý chí, ấn tượng, trí nhớ, tính cách, tính khí,…
Mỗi mặt riêng rẽ trên không làm rõ được hiện tượng con người trong tính chỉnh thể
của nó. Khi chúng ta tiếp cận con người với tư cách một thực thể có lý tính, thì lý
tính (tư duy) của con người là một hiện tượng sinh học – tâm lý – xã hội, được tổ
chức một cách phức tạp. Cơ chất vật chất của tư duy tuân theo mặt sinh học, còn nội
dung của tư duy là sự đan xen lẫn nhau giữa cái tâm lý và cái xã hội.
Mặt sinh học và mặt xã hội tồn tại một cách thống nhất, không tách rời trong con
người. Ở cấp độ sinh học, con người nằm trong mối liên hệ tự nhiên của các hiện
tượng và phục tùng tính tất yếu tự nhiên. Ở bản tính xã hội, con người hướng về tồn
tại xã hội, về xã hội, về lịch sử loài người và văn hoá. Như vậy, con người là thể
thống nhất hoàn chỉnh, là thực thể sinh học - xã hội, hình thành nên từ hai mặt: tự
nhiên và xã hội. Yếu tố sinh học trong con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố
xã hội, mà hoà quyện vào và tồn tại trong yếu tố xã hội. Bản tính tự nhiên được
chuyển vào bản tính xã hội và được cải biến ở trong đó. Tự nhiên và xã hội thống
nhất với nhau trong bản chất con người.
Con người là một thực thể sinh học – xã hội được cụ thể hoá trong những cá nhân
hiện thực. Cá nhân với nghĩa là một cá thể riêng rẽ, đại biểu cho loài sinh vật cao
nhất – Homo sapiens - không phải là tổng số giản đơn cái sinh học và cái xã hội, mà
là thể thống nhất dẫn đến hình thành một bậc thang mới về chất – nhân cách con
người. Bản chất của nhân cách là sự kết tinh tiềm năng điều chỉnh – tinh thần, là
trung tâm của tự ý thức, là nguồn gốc của ý chí và hạt nhân của tính cách, là chủ thể
của hành động tự do và quyền lực tối cao trong đời sống nội tâm của con người.
Trong nhân cách, điều quan trọng không chỉ là thấy cái chung, mà phải còn phải thấy
cái đơn nhất là cá tính. Tính đa dạng và phong phú của cá tính con người là điều kiện
chủ yếu tạo nên sự đa dạng của các cá nhân, là hình thức biểu hiện sự phát triển cao
đẹp của xã hội, là nhu cầu thực sự của sự phát triển xã hội lành mạnh, được tổ chức
một cách hợp lý. Mối liên hệ giữa cá nhân với xã hội trước hết được biểu hiện thông



qua tập thể ban đầu (tập thể gia đình, tập thể lớp học, tập thể lao động) để gia nhập
vào xã hội. Tập thể ban đầu là xã hội ở quy mô nhỏ của xã hội loài người – trình độ
tổ chức cao nhất của các hệ thống sống. Chính ở đây, cá nhân và xã hội trực tiếp tác
động lẫn nhau. Ở tập thể ban đầu này, cá nhân được hình thành về mặt tinh thần, thể
xác và hấp thụ được ở mức độ này hay mức độ khác cái đã được tạo ra bằng lao động
của những thế hệ trước. Những hình thức giao tiếp trong tập thể tạo thành những mối
liên hệ xã hội, làm hình thành diện mạo của mỗi con người. Thông qua tập thể ban
đầu, “sự hoàn trả” cái cá nhân cho xã hội và những thành tựu của xã hội cho cá nhân
đã diễn ra. Mỗi cá nhân mang trong mình dấu ấn của tập thể và mỗi tập thể cũng
mang trong mình dấu ấn của các thành viên. Tập thể không phải là cái gì phi nhân
cách, mà là sự liên hiệp những cá tính khác nhau, không lặp lại. Trong tập thể, cá
nhân không chìm đi, không tan ra, mà nổi lên và tự khẳng định mình. C.Mác đã chỉ
rõ vai trò của xã hội đối với sự hình thành cá nhân và vai trò của cá nhân đối với sự
hình thành xã hội: “Bản thân xã hội sản xuất ra con ngườivới tính cách là con
người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”(6). Trình độ giải phóng xã
hội luôn được thể hiện ra ở sự tự do của cá nhân con người. Cá nhân được giải phóng
sẽ tạo ra động lực cho giải phóng xã hội và đến lượt mình, giải phóng xã hội lại trở
thành điều kiện thiết yếu cho sự giải phóng cá nhân. Con người tự giải phóng cho
mình và qua đó, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Cùng với việc xem xét con người với tư cách một thực thể sinh học – xã hội, con
người với tư cách nhân cách, C.Mác còn làm sáng tỏ vị thế và vai trò của con người
trong lịch sử. Theo C.Mác, khuynh hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử
được quy định bởi lực lượng sản xuất xã hội; trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là thước đo năng lực thực tiễn của con người và xã hội. Sự vận động và phát
triển của lịch sử là sự vận động chuyển giao lực lượng sản xuất giữa các thế hệ con
người. Mỗi thế hệ con người luôn nhận được những lực lượng sản xuất do thế hệ
trước tạo ra và sử dụng chúng làm phương tiện cho hoạt động sản xuất mới. Nhờ sự
chuyển giao ấy mà con người “hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người,
hình thành lịch sử loài người”. Lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất càng phát

triển thì lịch sử càng trở thành lịch sử loài người. Với quan niệm ấy, C.Mác khẳng
định: “Lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của


những con người”(7). Thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã để lại những dấu
ấn sáng tạo của bản thân mình vào giới tự nhiên, vào xã hội và qua đó, phát triển bản
thân mình. Khả năng và năng lực sáng tạo tiềm tàng của con người thông qua hoạt
động thực tiễn đã làm nên các cuộc cách mạng trong những thời đại văn minh của
nó, từ nền văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp đến nền văn minh tin học
hiện nay. Với khả năng và năng lực đó, con người chính là động lực cho sự phát triển
kinh tế – xã hội, là chủ thể sáng tạo nên những nền văn minh trong lịch sử nhân loại.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của C.Mác, con người không chỉ là chủ thể của
lao động sản xuất, mà còn là chủ thể của hoạt động lịch sử, là kẻ sáng tạo ra lịch sử.
Khi xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã giải đáp một cách duy vật vấn
đề con người, bản chất con người, con người với tư cách thực thể sinh học – xã hội,
với tư cách nhân cách, vị trí và vai trò của con người trong tiến trình phát triển lịch
sử nhân loại. Những quan niệm duy vật ấy không chỉ nhằm mục đích xây dựng lý
luận về con người, mà hơn thế nữa, còn nhằm mục đích giải phóng con người, giải
phóng xã hội. Xã hội tư bản, theo C.Mác, là một bước tiến trong lịch sử phát triển
của nhân loại. Nội dung bước tiến ấy là cơ sở cho sự phát triển của bản chất con
người, là điều kiện cho sự giải phóng xã hội, giải phóng nhân loại. Nhưng, trong
khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, khi mà tư liệu sản xuất chủ yếu còn nằm trong tay
giai cấp tư sản thì con người chưa thực sự được giải phóng về chính trị, cũng chưa
được giải phóng về kinh tế và văn hoá. Sự nghiệp giải phóng ấy, theo C.Mác, chỉ có
thể thực hiện được khi chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
chủ yếu được xoá bỏ; và lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử thực hiện thành công
sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản(8).
Mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải
phóng con người, giải phóng xã hội. Do vậy, có thể nói, chủ nghĩa xã hội mang tính
nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu

hiệu giải phóng con người, mà từng bước thực hiện việc giải phóng con người trên
thực tế, biến con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc tự do, tạo nên
một thể liên hiệp, “trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (Chúng tôi nhấn mạnh – H.Đ.C)(9). Sự tự
do đem lại cho con người quyền được lao động, được phân phối công bằng của cải


vật chất và tinh thần, được tham gia vào các công việc xã hội, được phát triển và vận
dụng các năng lực của mình với tư cách sự thực hiện những nhu cầu cơ bản, quyền
được nghỉ ngơi. Tự do cá nhân trong chủ nghĩa xã hội không chỉ biểu hiện trong các
quyền cá nhân được hưởng, mà còn được biểu hiện trong nghĩa vụ, trong trách nhiệm
cá nhân. Rõ ràng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là giải pháp tối ưu cho các vấn đề xã
hội liên quan tới sự phát triển xã hội và con người.
Quan điểm của C.Mác về con người, về giải phóng con người có giá trị to lớn về lý
luận và thực tiễn, trở thành cơ sở lý luận cho nhiều ngành khoa học, cho Đảng ta
trong việc giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội và con người.
Kế thừa tư tưởng về con người của học thuyết Mác, trong suốt chặng đường cách
mạng Việt Nam, Đảng ta luôn lấy việc chăm lo cho hạnh phúc của con người làm
mục tiêu phấn đấu cao nhất. Tư tưởng Hồ Chí Minh “Vì lợi ích mười năm trồng cây,
vì lợi ích trăm năm trồng người” đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp
hoạt động cách mạng của Đảng. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ta
đều quán triệt, đều hướng tới mục tiêu giải phóng con người, phát triển toàn diện con
người Việt Nam.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng được thông qua tại Đại hội VII (năm 1991) đã khẳng
định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân
làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát
triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo”(10). Trong hơn 20 năm
đổi mới, vấn đề xây dựng con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được

Đảng ta quán triệt, vận dụng và phát triển. Phương hướng, mục tiêu, điều kiện và giải
pháp liên quan trực tiếp đến vấn đề xây dựng con người cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đã được Đảng ta chỉ rõ trong nhiều nghị quyết. Đại hội lần thứ X
của Đảng đã chỉ rõ phương hướng chung là: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân
cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn
hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực
trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”(11). Xây dựng con người Việt


Nam hiện nay theo tư tưởng của C.Mác và của Hồ Chí Minh là sự chuẩn bị tích cực, chủ
độngnguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cho
tương lai và triển vọng của đất nước trên con đường phát triển theo lý tưởng, mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội. Nói một cách cụ thể:
- Xây dựng con người Việt Nam là xây dựng nhân cách của con người Việt Nam với
một nội dung toàn diện, từ bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực trí tuệ với
phương pháp tư duy khoa học sáng tạo, không ngừng nâng cao học vấn và văn hoá
trên cơ sở nâng cao cả mặt bằng lẫn đỉnh cao dân trí của xã hội đến trình độ tư tưởng,
thế giới quan, đạo đức cách mạng, biểu hiện rõ ở lao động và lối sống, kế thừa được
những tinh hoa của truyền thống dân tộc, đáp ứng được những yêu cầu của con người
mới trong xã hội công nghiệp, văn minh hiện đại.
- Xây dựng con người Việt Nam hướng tới sự phát triển không chỉ chất lượng cá thể
con người, mà còn là sự phát triển của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, trước hết là
chất lượng phát triển của giai cấp công nhân với vai trò, sứ mệnh dẫn dắt xã hội, của
khối liên minh công – nông – trí thức – lực lượng cơ bản nhất của xã hội.
- Xây dựng con người Việt Nam theo quan điểm phát triển nguồn nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hướng tới tương lai, cần tập trung đầu tư của
toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam, chuẩn bị đầy đủ
cho họ lập thân, lập nghiệp: có đủ sức khoẻ, tài năng, đạo đức, ý thức và bản lĩnh
chính trị (theo tư tưởng của C.Mác là con người với tư cách thực thể lý tính, với tư

cách nhân cách), xứng đáng là thế hệ kế tục sự nghiệp của cha anh.
- Để xây dựng con người Việt Nam theo phương hướng mà Đại hội X Đảng Cộng
sản Việt Nam đưa ra, chúng ta cần tập trung giải quyết các vấn đề đang được đặt ra
sau đây:
+ Vấn đề thiết yếu, bức xúc của xã hội ta hiện nay là phải tạo việc làm cho người lao
động, nâng cao mức sống, đảm bảo an ninh an toàn công dântrong một môi trường
ổn định, lành mạnh với các chuẩn mực về kỷ luật, trật tự, kỷ cương, luật pháp. Theo
tư tưởng của C.Mác, đây là tiền đề cho sự tồn tại hiện thực của con người. Trong
suốt chặng đường của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn chăm lo
cho dân có ăn, có mặc, có học hành, được chăm sóc sức khoẻ, được tự do, được
hưởng các quyền của dân một nước tự do, độc lập. Sau hơn 20 năm đổi mới, đời


sống nhân dân đã được cải thiện một bước, song số người thất nghiệp, mù chữ, sự
chênh lệch giàu nghèo, tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em, căn bệnh AIDS, tệ nạn
mại dâm, ma tuý… phát triển đã và đang làm cho xã hội không bình yên. Đảng phải
có biện pháp đồng bộ, đủ mạnh mới tạo được tiền đề để xây dựng con người Việt
Nam.
+ Nhu cầu phổ biến của xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ và giới trí thức Việt Nam hiện
nay, là thực hiện công bằng xã hội trong sự phát triển của con người và xã hội, thực
hiện và phát huy dân chủ, đặc biệt là dân chủ cơ sở để tạo môi trường xã hội tích cực
nhằm đào tạo, giáo dục con người. Gắn liền với thực hiện nhu cầu trên là cuộc đấu
tranh nhằm đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng đang gây tổn hại nghiêm trọng về thể
chất, tinh thần cho xã hội, làm suy yếu chế độ ta.
+ Khâu cơ bản nhất để thực hiện quan điểm của Đảng ta về giáo dục - đào tạo với tư
cách “quốc sách hàng đầu” là xúc tiến cải cách giáo dục trong nền giáo dục quốc
dân, từ giáo dục mầm non, phổ thông, đến đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề. Đồng thời với giải pháp này, đạo lý trong gia đình, nhà trường, xã hội mới lập
lại được.
+ Một vấn đề quan trọng, đặt cơ sở bền vững cho việc xây dựng các thế hệ con người

Việt Nam trong quá trình hình thành nhân cách con người là cần phải coi trọng xây
dựng đời sống mới, mà nền tảng là đời sống gia đình, giáo dục văn hoá gia
đình. Đời sống gia đình ở nước ta, cho đến nay, chưa được coi trọng đúng mức, là trở
ngại cho quá trình hình thành cách và phát triển xã hội.
+ Con người không chỉ là chủ thể của lao động sản xuất, mà còn là chủ thể của lịch
sử, là kẻ sáng tạo ra lịch sử. Lịch sử dân tộc Việt Nam chứa đựng nhiều truyền thống
quý báu. Giáo dục truyền thống đạo đức, văn hoá, cách mạng của dân tộc, của Đảng
cho thế hệ trẻ là rất quan trọng. Đây là vấn đề cốt yếu để xây dựng con người, bởi sự
vận động và phát triển của lịch sử là sự chuyển giao mọi lĩnh vực giữa các thế hệ con
người. Xem nhẹ, phủ nhận truyền thống của dân tộc thì không thể đạt tới sự hiện đại
đích thực.
Cách mạng Việt Nam cho thấy, muốn đi đến thắng lợi, trước hết phải có những con
người tiên tiến đi đầu, lôi cuốn quần chúng vào con đường cách mạng, tạo thành
phong trào cách mạng rộng lớn. Người đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam là


những gương mặt tiêu biểu cho lớp người tiên tiến ấy. Do vậy, giáo dục và rèn luyện
đảng viên để họ xứng đáng là những gương mặt tiêu biểu cho con người Việt Nam
hiện nay là nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Trung tâm của hoạt
động này là giáo dục động cơ chính trị vào Đảng. Đồng thời, cần phải giáo dục, rèn
luyện đảng viên để họ xứng đáng là tấm gương của quần chúng về năng lực trí tuệ,
trách nhiệm chính trị, có dũng khí đấu tranh để bảo vệ chân lý, lối sống, đạo đức. Đó
là những vấn đề thực tiễn đang đặt ra cần phải giải quyết để xây dựng con người Việt
Nam cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.r

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện
Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.55.
(2) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.28-29.

(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.569.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd., t.3, tr.11.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd, t.3, tr. 29.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.169.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.27, tr.658.
(8) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.19, tr.333.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.4, tr.628.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.Nxb Sự thật, Hà Nội,1991, tr.8-9.

(11) Đảng Cộng sản Việt Nam . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.106.



LUẬN ĐIỂM KHOA HỌC TRỞ THÀNH LỰC LƯ
ỢNG SẢN XUẤT TRỰC
TIẾP CỦA C.MÁC VÀ VẤN Đ
Ề PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY



PHẠM THỊ NGỌC TRẦM (*)
Về luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác, tác giả đã
đưa ra và luận giải những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
và những biểu hiện của quá trình này. Vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
hiện nay đã được tác giả luận giải trên cơ sở làm rõ nội dung khái niệm, bản chất và
những đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức; đồng thời, chỉ ra những điều kiện thiết
yếu cho việc hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.


Cách đây hơn 100 năm, C.Mác đã dự đoán: “Đến một trình độ phát triển nào đó thì
“tri thức xã hội phổ biến” (khoa học) biến thành “lực lượng sản xuất trực tiếp””(1).
Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, luận điểm đó của C.Mác
đang dần trở thành hiện thực một cách đầy thuyết phục.
Nhân kỷ niệm 190 năm Ngày sinh C.Mác, trong bài viết này, chúng tôi muốn nói về
luận điểm đó của ông và vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
1- Những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Khoa học và cùng với khoa học là công nghệ là những thành tố cơ bản của lực lượng
sản xuất. Tri thức khoa học được vật hóa thành công cụ sản xuất (công cụ lao động),
như máy móc, trang thiết bị kỹ thuật…, đó là yếu tố động nhất và có vai trò quyết
định đối với phương thức sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, tri thức khoa học có mặt
trong khoa học quản lý, tổ chức và phân phối. Cùng với quá trình phát triển của lịch
sử xã hội nói chung, của phương thức sản xuất nói riêng, vai trò của khoa học và
công nghệ cũng ngày càng được nâng cao, ngày càng thể hiện rõ ràng dưới dạng một
thực tiễn xã hội trực tiếp nhờ vào quá trình không ngừng biến đổi và hoàn thiện dần
của chúng. Từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng, ngày nay, khoa học và công nghệ
đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Bước chuyển này không phải là ngẫu
nhiên, mà chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện nhất định hay “một trình độ phát
triển nào đó” như C.Mác đã dự đoán. Vậy, những điều kiện đó là gì?
Điều kiện đầu tiên phải thuộc về sản xuất: nền sản xuất xã hội phải đạt đến một trình
độ phát triển cao, tạo cơ hội và địa bàn để khoa học và công nghệ phát huy vai trò là
lực lượng sản xuất trực tiếp của mình.


Trong những nền sản xuất xã hội còn ở trình độ phát triển thấp trước đây, khoa học
không thể trực tiếp đi vào sản xuất, mà phải trải qua khâu trung gian thực nghiệm
khoa học, nhiều khi kéo dài hàng trăm năm. Tri thức khoa học phải thông qua một quá
trình thực nghiệm khoa học lâu dài, phức tạp, con người mới tìm ra cách vận dụng những
thành tựu thu được qua thực nghiệm đó vào sản xuất. Quá trình này thường diễn ra rất

chậm chạp. Trong điều kiện như vậy, khoa học chỉ có thể biểu thị như một lực lượng sản
xuất tiềm năng, chứ chưa thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Ngày nay, khi sản xuất xã hội đã đạt đến trình độ phát triển cao, nhất là ở các nước
công nghiệp phát triển, chính sản xuất lại đặt ra những vấn đề mới, phức tạp, đòi hỏi
khoa học phải có phương thức giải quyết phù hợp, kịp thời nhằm thúc đẩy sản xuất
tiếp tục phát triển và qua đó, khoa học cũng phát triển theo. Như vậy, trong điều kiện
xã hội ngày nay, sản xuất đã tạo ra những cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng, những
nhu cầu cấp thiết cho sự xuất hiện những tri thức khoa học mới, những ngành khoa
học mới. Đến lượt mình, những tri thức khoa học mới lại được nhanh chóng vật hóa
để trở thành công cụ sản xuất mới và trực tiếp tham gia vào các quá trình sản xuất. Ở
đây, khoa học không phục vụ sản xuất một cách thụ động, mà tham gia một cách tích
cực, chủ động và trở thành một yếu tố không thể thiếu được của lực lượng sản xuất
nói riêng, của quá trình sản xuất xã hội nói chung. Do vậy, chỉ có đến lúc này, khoa
học mới có đầy đủ điều kiện để trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều kiện thứ hai thuộc về sự phát triển của bản thân khoa học: khoa học phải đạt
đến một trình độ phát triển cao đến mức đủ sức giải quyết những vấn đề cấp thiết do
thực tiễn xã hội, đặc biệt là những vấn đề do thực tiễn sản xuất trực tiếp đặt ra.
Trong nền khoa học hiện đại, không một vấn đề nào do sản xuất đặt ra mà tri thức
của một ngành khoa học, thậm chí là của vài ngành khoa học cụ thể, có thể tự thân
giải quyết được hoàn toàn. Bởi vậy, ngày nay, sự thống hợp khoa học, tổng hợp tri
thức khoa học là xu hướng phát triển tất yếu của khoa học và điều này cũng hoàn
toàn phù hợp với nhu cầu của thực tiễn sản xuất hiện đại. Trong thời đại ngày nay,
trong khoa học đang diễn ra quá trình tương tác mạnh mẽ giữa các khoa học, quá
trình liên kết khoa học theo hướng tổng hợp tri thức của các khoa học hiện đại nhằm
giải quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn sản xuất và thực tiễn xã hội đặt ra, như
vấn đề khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi


trường sống, vấn đề phát triển bền vững, vấn đề hội nhập toàn cầu mà trước hết, là
hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là những vấn đề về con người (tăng cường sức

khỏe, phòng, chống bệnh tật, nâng cao tuổi thọ, và sự phát triển toàn diện cả về thể
chất lẫn tinh thần của con người…). Bởi thế, sự phát triển của khoa học nói riêng, xã
hội nói chung đều nhằm mục đích thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao của con
người, phục vụ cho sự phát triển toàn diện của con người với tư cách một thực thể
sinh học - xã hội, một thực thể sống hài hòa giữa môi trường tự nhiên và môi trường
xã hội. Những khám phá mới của khoa học về con người, như làm rõ nguồn gốc và
bản chất của con người, lập và giải mã bản đồ gien người, nhân bản vô tính người,
làm rõ vai trò và chức năng của tế bào gốc ở người, trí tuệ nhân tạo, những khả năng
còn tiềm ẩn ở con người, v.v. đang chứng tỏ rằng, con người không chỉ là chủ thể
sáng tạo khoa học, chủ thể của quá trình sản xuất xã hội, của lịch sử, mà còn là đối
tượng khai thác của khoa học và công nghệ hiện đại.
Rõ ràng là, ngày nay, khoa học đang tiến rất gần đến mục tiêu như C.Mác đã tiên
đoán: “Khoa học tự nhiên bao hàm trong nó khoa học về con người cũng như khoa
học về con người bao hàm trong nó khoa học tự nhiên: đó sẽ là một khoa học”(2).
Với trình độ phát triển cao như hiện nay, khoa học hoàn toàn có thể trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
Điều kiện thứ ba để khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp là sự phát triển
kinh tế - xã hội ở mỗi nước, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển; là xu thế toàn
cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa kinh tế trên cái nền của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, đặc biệt là cách mạng công nghệ thông tin. Nhờ sự phát triển
của công nghệ hiện đại, mà chủ đạo là công nghệ thông tin, những phát minh, những
thành tựu mới của khoa học không còn là sở hữu riêng, độc quyền của các nhà khoa
học hay của các nước có những phát minh đó; chúng đã nhanh chóng lan tỏa đi khắp
thế giới và được ứng dụng kịp thời vào quá trình sản xuất xã hội ở nhiều nước khác
nhau, bằng nhiều cách thức khác nhau, như chuyển giao công nghệ, nhượng quyền
sử dụng, mua bán phát minh, sáng chế, thông qua các công ty liên quốc gia, v.v
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, WTO (Tổ chức Thương mại thế
giới) đang giữ vai trò rất quan trọng. Chính sự liên minh, liên kết toàn cầu về kinh tế
này đã tạo địa bàn, tạo cơ hội thuận lợi thúc đẩy khoa học nhanh chóng đi vào sản



xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều kiện thứ tư để khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp đó chính là sự
thấm nhuần sâu sắc, dù dưới hình thức tự giác hay tự phát,nguyên lý triết học mácxít
về sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, mà nếu ứng dụng vào quá
trình sản xuất vật chất thì đó là sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất vật chất và
hoạt động khoa học. Theo nguyên lý về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, thực
tiễn sản xuất xã hội vừa là nguồn gốc, động lực, mục tiêu của nhận thức khoa học,
vừa là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn sản xuất xã hội kiểm nghiệm tính đúng đắn
của tri thức khoa học. Do vậy, việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là
con đường ngắn nhất, đáng tin cậy nhất để xác định độ chính xác, tính khoa học, tính
chân lý của tri thức khoa học. Sự thống nhất giữa thực tiễn (hoạt động sản xuất xã
hội) và lý luận (tri thức khoa học) là đặc trưng cơ bản của xã hội hiện đại, được xây
dựng trên cơ sở của nền sản xuất hiện đại và nền khoa học tiên tiến.
Như vậy, cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của khoa học ngày càng được tăng
cường, nhất là trong thời đại ngày nay, khi khoa học đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Tri thức khoa học vừa là sự biến đổi, là quyền lực, là sự giàu có, thịnh
vượng, vừa là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển, sự
thịnh suy của một công ty, một dân tộc, một đất nước, một khu vực trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt về kinh tế của thế giới hiện đại.
2 - Các hình thức biểu hiện của quá trình khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp
Quá trình khoa học trở thành lực lượng sản xuất có nhiều biểu hiện khác nhau, song,
ở đây, chúng tôi chỉ có thể nêu lên một số biểu hiện chủ yếu.
Trước hết, tri thức khoa học được vật hóa thành các công cụ sản xuất ngày càng tinh
xảo hơn, càng hoàn thiện hơn và nhanh hơn. Đó là các loại máy móc, trang thiết bị
dùng trong công nghệ thông tin, như máy vi tính, máy siêu tính, mạng Internet; trong
công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng mới, công nghệ
nguyên tử, công nghệ vật liệu mới, công nghệ nano, v.v Các thế hệ người máy
(robot) ngày càng hoàn thiện, có thể đảm nhiệm không chỉ các chức năng về trí tuệ,

mà cả cảm xúc. Ngày nay, các máy móc, trang thiết bị được vật hóa từ tri thức của
khoa học hiện đại được sử dụng trong các công nghệ hiện đại không chỉ mang lại


hiệu quả và năng suất lao động cao hơn, chất lượng tốt hơn, mà còn góp phần quan
trọng vào việc tiết kiệm nguyên vật liệu; tạo ra các loại vật liệu mới vốn không có
sẵn trong tự nhiên; giảm thời gian lao động phải chi phí cho một đơn vị sản phẩm.
Thực tế sản xuất ở các nước công nghiệp phát triển đã cho thấy rằng, tri thức khoa
học ngày càng chiếm hàm lượng cao hơn trong giá trị các sản phẩm làm ra, nguồn lợi
do khoa học mang lại cũng ngày càng lớn hơn. Điều đó được thể hiện ở chỗ, nếu như
trong những năm đầu của thế kỷ XX, khi chỉ có một bộ phận nhỏ của thế giới, chủ
yếu là các nước tư bản phát triển ở phương Tây bước vào công nghiệp hóa, khi sự
phát triển của khoa học chưa sự gắn kết chặt chẽ với kỹ thuật và sản xuất, thì lao
động cơ bắp của con người, tính trung bình, chiếm một tỷ lệ rất cao, lên đến 9/10
trong giá trị sản phẩm. Đến những năm 90 của thế kỷ trước, khi hầu hết các nước
trên thế giới đã và đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và ở nhiều nước đã
và đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng khoa học - công
nghệ, tỉ lệ đó đã giảm xuống còn khoảng 1/5 hoặc thấp hơn, trong khi đó, số lượng
sản phẩm tăng khoảng hơn 10 lần. Với đà phát triển tiếp tục của khoa học và công
nghệ hiện đại, tỉ lệ trên còn tiếp tục giảm mạnh. Theo một số dự đoán, đến năm 2010
có thể chỉ còn 1/10. Trong thời đại thống trị của công nghệ thông tin, trí năng hóa
sản xuất đang là xu hướng tất yếu và cũng là động lực mạnh mẽ của sự phát triển sản
xuất nói riêng, sự phát triển của xã hội nói chung.
Một biểu hiện quan trọng khác là ở chỗ, khoa học, công nghệ cùng với quá trình giáo
dục - đào tạo đã và đang tạo ra những con người lao động mới.Đó là những người
lao động chất xám vừa có trí tuệ sáng tạo, có tri thức chuyên môn sâu một hoặc một
vài ngành nghề, vừa có hiểu biết rộng, có tầm nhìn xa, bao quát nhiều lĩnh vực khác
nhau. Họ là những người rất năng động, nhạy bén, tinh thông một nghề và vững vàng
trong nghề nghiệp được đào tạo, nhưng cũng có thể làm được nhiều nghề khác nhau
để khi cần phải chuyển đổi thì sẵn sàng chuyển đổi. Người lao động với sức lao

động, với thói quen và kinh nghiệm nghề nghiệp, với tri thức khoa học - kỹ thuật đã
được trang bị chính là lực lượng sản xuất mạnh mẽ nhất, to lớn nhất, là nguồn lực
của mọi nguồn lực, là động lực to lớn và quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển của
xã hội.
Ngoài việc đào tạo ra nguồn nhân lực mới với đầy đủ những phẩm chất cần thiết, đáp


ứng được nhu cầu của sản xuất hiện đại, khoa học còn trực tiếp tham gia vào quá
trình tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất và phân phối sản phẩm. Với chức năng
này, khoa học không chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mà còn là yếu tố
không thể thiếu trong quan hệ sản xuất. Ngày nay, việc tổ chức, quản lý, điều hành
sản xuất ở bất kỳ cấp độ nào: trong một dây chuyền sản xuất, trong một phân xưởng,
một xí nghiệp, một liên hợp các xí nghiệp, v.v. đều rất cần đến tri thức khoa học,
nhất là tri thức của khoa học quản lý. Cùng một thế hệ máy móc như nhau, cùng sản
xuất ra một loại sản phẩm như nhau, nếu biết tổ chức, quản lý, điều hành công việc
một cách hợp lý, sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
Không chỉ thế, việc quản lý, điều hành trong sản xuất cũng như trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội đã có những biến đổi về chất so với trước đây, như
nhanh nhạy, chính xác, kịp thời nhờ có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin. Xã hội
ngày nay là xã hội đang được tin học hóa. Trong xã hội thông tin, kẻ giàu, kẻ mạnh,
kẻ chiến thắng không phải là kẻ trường vốn, kẻ giàu về vật chất cụ thể, mà chính là
kẻ biết nắm bắt một cách nhanh nhạy các thông tin, đặc biệt là các thông tin khoa
học - công nghệ và thông tin về thị trường. Bởi vì, nhờ nắm bắt được thông tin mà
thay đổi công nghệ để có thể kịp thời sản xuất ra những sản phẩm mới phù hợp với
nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, giúp cho việc lưu thông hàng hóa nhanh
hơn. Việc nắm bắt thông tin kịp thời, nhanh chóng, chính xác còn giúp cho người sản
xuất, kinh doanh mở rộng thị trường, dự báo và đón đầu nhu cầu, thị hiếu của người
tiêu dùng và xã hội, nhờ đó, có thể giành được chiến thắng trong cuộc cạnh tranh gay
gắt trên thương trường.
Việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong thời đại phát triển rực rỡ

của công nghệ thông tin tất yếu dẫn đến một hệ quả mới về chất với nền kinh tế - đó
là sự xuất hiện kinh tế tri thức.

3 - Kinh tế tri thức: khái niệm, bản chất và những đặc trưng cơ bản.
“Kinh tế tri thức” là một thuật ngữ mới, được sử dụng từ đầu những năm 90 của thế
kỷ XX và ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn. Về kinh tế tri thức, cho đến nay, đã
có nhiều quan niệm khác nhau và do vậy, cũng có nhiều tên gọi khác nhau, phụ thuộc
vào cách giải thích, như nền kinh tế số hoặc nền kinh tế mạng; nền kinh tế thông tin;
nền kinh tế học hỏi; nền kinh tế mới… Năm 1995, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh


tế (OECD) đã đưa ra một quan niệm tổng hợp về kinh tế tri thức mà theo đó, cái cốt
lõi của kinh tế tri thức là “nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri
thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao
chất lượng cuộc sống”(3).
Tuy có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng các cách tiếp cận đó đều thống nhất với
nhau về bản chất của kinh tế tri thức chính là sự khẳng định vai trò quyết định hàng
đầu của tri thức và công nghệ thông tin đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Kinh tế tri thức có những đặc trưng chủ yếu, như:
Một là, trong kinh tế tri thức, tri thức khoa học và công nghệ, kỹ năng của con người
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và quan trọng nhất. Ngày nay, tri thức khoa học
và công nghệ của con người đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp,
thành nguồn lực chủ yếu thúc đẩy mọi sự biến đổi trong sản xuất cũng như trong đời
sống kinh tế - xã hội. Điều đóđược biểu hiện thông qua việc tạo ra những ngành sản
xuất mới giữ vai trò đầu tàu trong cơ cấu kinh tế, những phương pháp sản xuất mới,
những vật liệu và năng lượng mới, những công cụ sản xuất mới với những ưu thế vượt
trội so với các thế kỷ trước.
Trong kinh tế tri thức, con người vẫn giữ vai trò là chủ thể, nhưng lao động của họ đã
có sự đổi mới về chất, từ lao động cơ bắp là chủ yếu chuyển sang lao động trí tuệ. Do
vậy, tri thức khoa học và công nghệ là yêu cầu quan trọng nhất đối với kinh tế tri thức.

Hai là, trong kinh tế tri thức, tri thức và những phát minh khoa học, công nghệ là yếu
tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh của sản phẩm, của các doanh nghiệp và các quốc
gia trên thương trường, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Bởi
vậy, trong kinh tế tri thức, ai chiếm hữu được nhiều tài sản trí tuệ hơn, người ấy sẽ chiến
thắng không chỉ trong cạnh tranh kinh tế, mà thậm chí cả chính trị. Các cường quốc trên
thế giới hiện nay đều là những cường quốc về khoa học và công nghệ.
Ba là, trong kinh tế tri thức, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ và được ứng
dụng rộng rãi vào sản xuất và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội với hiệu quả cao. Một
trong những biểu hiện rõ nhất của sự phát triển trí tuệ con người (tri thức khoa học) là
ở sự phát triển của công nghệ thông tin. Thêm vào đó, công nghệ thông tin cũng là
phương tiện quan trọng nhất cho sự phát triển của trí tuệ con người. Công nghệ thông
tin đã, đang và sẽ mang lại những biến đổi kỳ diệu trong cả đời sống kinh tế lẫn đời


sống xã hội. Thực tế cho thấy rằng, công nghệ thông tin đã trực tiếp và nhanh chóng
làm thay đổi cơ cấu sản xuất, tạo ra ngành nghề mới, sản phẩm hàng hóa mới, thúc
đẩy tiến bộ khoa học - công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cũng không nên
tuyệt đối hóa vai trò tích cực của công nghệ thông tin đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội, mà cần phải nhận thức được cả mặt trái của nó, nhất là đối với những vấn đề về
an ninh quốc phòng, an ninh kinh tế, đạo đức, lối sống, v.v Cần hiểu vai trò của công
nghệ thông tin chủ yếu với tư cách công cụ hữu hiệu làm giảm chi phí tài chính và
thời gian trong việc tìm kiếm thông tin mới; là công cụ kích thích và tạo điều kiện cho
các phát minh khoa học - công nghệ mới, từ đấy thúc đẩy việc tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Bốn là, kinh tế tri thức vừa đòi hỏi và thúc đẩy, vừa tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho mọi thành viên trong xã hội đối với việc học tập, nâng cao trình độ hiểu biết và
tay nghề chuyên môn. Ngày nay, tất cả các nước, các quốc gia dân tộc đều nhận thức
được rằng, con người là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển, do vậy, “đầu tư
cho giáo dục và đào tạo chính là đầu tư cho phát triển”. Trong điều kiện của kinh tế tri
thức, muốn thực hiện mục tiêu đó, đòi hỏi phải có những con người có tri thức khoa

học và có năng lực sáng tạo. Từ đó đã cho thấy rõ vai trò vô cùng quan trọng của giáo
dục và đào tạo: học tập trở thành nghĩa vụ của mỗi người dân và giáo dục - đào tạo trở
thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước và xã hội đối với sự phát triển của
đất nước.
4 - Vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Với bản chất và những đặc trưng vừa nêu trên đây của kinh tế tri thức, Việt Nam
chúng ta, tuy là một nước đang phát triển, cơ sở vật chất của nền kinh tế nói chung,
sản xuất nói riêng còn kém phát triển và nhiều hạn chế, nhưng một khi đã tham gia
vào quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, nhất là khi đã gia nhập WTO thì không thể
không phát triển kinh tế tri thức. Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã chỉ rõ: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế
của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố
quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(4) (tác giả nhấn mạnh).


Vậy, cần phải có những điều kiện cơ bản nào để Việt Nam có thể phát triển kinh tế tri
thức?
Thứ nhất, cần phải đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, coi đó là
điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế tri thức. Chìa khóa của kinh tế tri thức là tri
thức khoa học của con người. Để trang bị tri thức khoa học cho con người, xây dựng
nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với kinh tế tri thức, cần phải đổi mới toàn
diện và sâu sắc nền giáo dục và đào tạo của nước nhà. Tuy nhiên, cho đến nay, nguồn
nhân lực ở nước ta tuy đã có những biến đổi theo chiều hướng tích cực, nhưng nhìn
chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
cả việc phát triển kinh tế tri thức. Để có thể từng bước phát triển kinh tế tri thức,
chúng ta cần phải tiếp tục “nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ
chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”(5) nhằm tạo ra một đội ngũ
lao động mới có chất lượng cao, vừa giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, giàu sức sáng tạo,

năng động, luôn có tinh thần trách nhiệm cao, tự tin, dũng cảm, vừa giàu lòng yêu
nước, nhân ái, bao dung, có đầy đủ trình độ và bản lĩnh để hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu.
Thứ hai, xây dựng một nền khoa học và công nghệ tiên tiến trên cơ sở đẩy mạnh phát
triển nghiên cứu khoa học và công nghệ, tạo động lực để phát triển khoa học và công
nghệ. “Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ”, “phấn
đấu đến 2010, năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên
tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng”(6).
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định và cũng là điều kiện tiên quyết trong
phát triển nền kinh tế tri thức. Vậy, những điều kiện quan trọng đầu tiên để từng bước
phát triển kinh tế tri thức là gì?
Một là, phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công nghệ, nhưng phảitập trung
chủ yếu vào những ngành khoa học và công nghệ có liên quan trực tiếp đến phát triển
kinh tế tri thức, như công nghệ thông tin, công nghệ chế tạo vật liệu mới, công nghệ
năng lượng mới và công nghệ sinh học – những ngành công nghệ trụ cột của công
nghệ cao, giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế tri thức.


Hai là, do năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ của ta hiện nay đang còn thấp,
vì vậy, để có thể phát triển kinh tế tri thức cần có sự kết hợp hợp lý giữa việc tiếp nhận
chuyển giao khoa học và công nghệ từ bên ngoài, cải biến cho phù hợp với thực tiễn
nước ta với nghiên cứu sáng tạo ở trong nước với trình độ có thể có nhằm góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa trên thị trường trong nước
và thế giới, điều này càng quan trọng hơn khi chúng ta đã gia nhập WTO.
Ba là, đặc biệt chú ý đến các nghiên cứu triển khai và nghiên cứu ứng dụng khoa học
và công nghệ ở trong nước để có thể tự tạo ra những yếu tố khoa học và công nghệ ở
trình độ trung bình của thế giới, chỉ nên nhập những trang thiết bị, máy móc hiện đại,
tiên tiến, hết sức tránh nhập những công nghệ đã quá lạc hậu mà những nước khác đã
loại bỏ từ lâu.
Thứ ba, cần phải định hướng đầu tư và huy động nguồn lực tài chính vào phát triển

khoa học và công nghệ. Đây là vấn đề rất quan trọng, vì nếu không có sự định hướng
đầu tư và huy động nguồn lực tài chính ngay từ những bước đi đầu tiên trong việc
phát triển khoa học và công nghệ – nền tảng cho phát triển kinh tế tri thức thì rất dễ
dẫn đến thất bại.
Ngày nay, sự phát triển khoa học và công nghệ đòi hỏi nguồn vốn tài chính rất lớn mà
lại dễ gặp rủi ro. Vì vậy, trước hết cần phải biết dự đoán rủi ro, phân tích rủi ro và chia
sẻ rủi ro; biết lựa chọn đầu tư cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta; sử dụng
hợp lý, có hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước; tăng cường các chính sách khuyến
khích đầu tư cho các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao.
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học và công nghệ để phát
triển kinh tế tri thức, bao gồm hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao; trong nghiên cứu khoa học và công nghệ; trong lĩnh vực thương mại quốc
tế về khoa học và công nghệ; trong thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài vào phát triển các ngành công nghệ cao và đẩy
mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ.
*
* *
Ngày nay, luận điểm của C.Mác về khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đã
dần trở thành hiện thực. Điều đó có được, một mặt, nhờ lôgíc phát triển nội tại của tri


thức khoa học trải qua hàng chục thế kỷ và mặt khác, nhờ những điều kiện kinh tế - xã
hội đã phát triển đến độ chín muồi. Đến lượt mình, việc khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp đã có tác động mạnh mẽ và có hiệu quả cao không chỉ đối với lĩnh
vực sản xuất, mà đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện của công
nghệ thông tin và kinh tế tri thức là những biểu hiện rõ ràng nhất, toàn diện và sâu sắc
nhất của quá trình khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đồng thời cũng
khẳng định tính đúng đắn, khoa học trong luận điểm này của C.Mác.
Việt Nam đang từng bước phát triển kinh tế tri thức; song, do xuất phát từ một trình
độ khoa học và công nghệ còn thấp, nên để phát triển kinh tế tri thức, chúng ta cần

phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết về con người, về khoa học và công nghệ, về
định hướng đầu tư và huy động nguồn lực tài chính vào phát triển khoa học và công
nghệ, về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.r

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, t.46, phần II. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội ,
2000, tr.372-373.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.179.
(3) Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác-Lênin. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.290.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.87.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.95.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.98.


GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA HỌC THUYẾT MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ -

XÃ HỘI


NGUYỄN DUY QUÝ(*)


Luận chứng cho giá trị bền vững của học thuyết Mác về hình thái kinh tế –xã hội,
trong bài viết này tác giả đã đưa ra và phân tích cơ sở khoa học đúng đắn trong
quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác, nội dung khái niệm hình thái kinh tế – xã
hội, ý nghĩa khoa học và cách mạng của học thuyết này, quan niệm của C.Mác về
sự phát triển của các hình thái kinh tế– xã hội với tư cách một quá trình lịch sử – tự
nhiên và khả năng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

của Việt Nam.

Từ khi chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch của chủ nghĩa Mác -Lênin, của chủ
nghĩa xã hội càng có dịp vu cáo, xuyên tạc hòng bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin,
trong đó học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội là một trọng điểm lý luận bị công
kích từ nhiều phía. Hơn lúc nào hết, những người cách mạng phải đấu tranh với các
quan điểm thù địch nhằm bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung,
học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội nói riêng.
1. Quan điểm duy vật về lịch sử và khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Trước C.Mác, các nhà xã hội học, triết học đã không thể giải thích một cách khoa
học sự vận động theo quy luật khách quan của lịch sử hay vấn đề phân kỳ lịch sử xã
hội. Chẳng hạn, nhà xã hội học Italia là Vicô (1668 - 1744) đã phân chia các thời kỳ
lịch sử như phân chia các giai đoạn của một vòng đời: thơ ấu, thanh niên, thành
niên và tuổi già. Nhà triết học duy tâm Đức - Hêghen (1770 - 1831) lại phân chia
lịch sử loài người thành ba thời kỳ chủ yếu - phương Đông, Cổ đại và Giécmani.
Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp - Phuriê (1771 - 1837) đã chia tiến trình
lịch sử thành bốn thời kỳ - mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Nhà nhân
chủng học Henry Moócgan (1818 - 1881) thì phân chia lịch sử thành ba thời kỳ
chính - mông muội, dã man và văn minh.
Những cách phân kỳ như vậy không đem lại cách nhìn khoa học về một xã hội cụ
thể. Đến C.Mác, khi dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết quá
trình lịch sử, ông đã đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và hình thành học thuyết
về hình thái kinh tế - xã hội với những nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, thừa nhận sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.


Sản xuất xã hội là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người,
đó là cái phân biệt "sự khác nhau cơ bản giữa xã hội loài người và loài súc vật". Sản
xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân

con người. Trong hiện thực, ba quá trình này của sản xuất không tách biệt nhau,
trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng, là cơ sở cho sự tồn tại, phát triển xã
hội và xét đến cùng, nó là cái quy định và quyết định toàn bộ đời sống xã hội.
Thứ hai, khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất.
C.Mác viết: "Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản
xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức
sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình,
loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay
đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư
bản công nghiệp"(1).
Như vậy, theo C.Mác, lực lượng sản xuất, xét đến cùng, là cái đóng vai trò quyết
định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các
quan hệ xã hội.
Thứ ba, khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng
Trong quan niệm của C.Mác, quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, mặc
dù kiến trúc thượng tầng có khả năng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. C.Mác
viết: "Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái
nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải
thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và
hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất Nếu ta không thể
nhận định về con người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì
ta cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của
thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống
vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những
quan hệ sản xuất xã hội"(2).



Từ những quan điểm cơ bản này, C.Mác đi đến một kết luận hết sức kháiquát là:
"Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất
định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất,
những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản
xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở
hiện thực đó"(3).
Từ đó, có thể đi tới định nghĩa hình thái kinh tế - xã hội là một khái niệm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử "dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với
một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy"(4).
2. Ý nghĩa khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã
hội
Xét trong bối cảnh lịch sử của khoa học xã hội nói chung và triết học nói riêng, có
thể nói, học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác ra đời là một cuộc cách
mạng thực sự. Khác với tất cả các lý luận duy tâm, thần bí hay siêu hình trước đó,
nó đã chỉ ra rằng, động lực của lịch sử không phải là một thứ tinh thần thần bí nào,
mà chính là hoạt động thực tiễn của con người, mà hoạt động đó lại xuất phát từ
"cái sự thật hiển nhiên là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa
là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có
thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học, v.v."(5).
Khác với các lý luận trước đó – những lý luận đã không thấy được tính quy luật,
những biểu hiện phổ biến tồn tại trong tất cả các chế độ xã hội, lý luận của C.Mác
đã làm nổi bật những quan hệ xã hội vật chất, tức là những quan hệ sản xuất, những
quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định đối với tất cả mọi quan hệ khác và bằng cách
này, đã cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan để thấy
được các quy luật xã hội.
Đánh giá ý nghĩa khoa học và cách mạng trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế

– xã hội, V.I.Lênin đã khẳng định: " Có thể đem những chế độ của các nước khác


nhau khái quát lại thành một khái niệm cơ bản duy nhất là:hình thái xã hội. Chỉ có
sự khái quát đó mới cho phép chuyển từ việc mô tả (và từ việc đánh giá theo quan
điểm lý tưởng) những hiện tượng xã hội sang việc phân tích hiện tượng đó một cách
hết sức khoa học"(6).
Tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội còn là
ở chỗ, khi phân tích quy luật vận động của một hình thái nhất định, học thuyết này
chỉ ra những mâu thuẫn bên trong và khẳng định chính sự vận động của mâu
thuẫn này, cuối cùng, sẽ dẫn đến sự chuyển hóa từ một hình thái kinh tế - xã hội này
sang một hình thái kinh tế - xã hội khác. Do đó,một mặt, khẳng định tính tất yếu của
trật tự hiện thời (trật tự của chế độ tư bản chủ nghĩa), mặt khác, C.Mác cũng chứng
minh luôn cả tính tất yếu của một trật tự cao hơn mà hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa nhất thiết phải chuyển sang.
Trong những năm gần đây, những người muốn phủ định học thuyết Mác về hình
thái kinh tế - xã hội đã đưa ra một nhận định là cách tiếp cận hình thái đã lạc hậu so
với thời cuộc và họ muốn thay vào đó cách tiếp cận bằng các nền văn minh. Họ cho
rằng, dường như cách tiếp cận hình thái chỉ nhấn mạnh yếu tố quan hệ sản xuất và
vấn đề giai cấp, mà không thấy biểu hiện phổ biến hơn, khái quát hơn, là nền văn
minh.
Sự phê phán ấy có đúng không?
Có thể nói một cách khách quan rằng, phương pháp tiếp cận bằng các nền văn minh
(văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp) cũng
có những giá trị nhất định, nhưng cách tiếp cận này đã phạm sai lầm căn bản là chỉ
coi trình độ phát triển khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định
duy nhất, bỏ qua vai trò của quan hệ sản xuất, các mối quan hệ giai cấp và đấu tranh
giai cấp và do đó, không thấy được một cách đầy đủ, nhất quán các mặt phức tạp
của mỗi xã hội, từ các vấn đề của hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc, từ vấn đề
kinh tế đến vấn đề tinh thần, chính trị, tôn giáo, v.v Vì vậy, xét theo góc độ khoa

học, không thể đem phương pháp tiếp cận theo các nền văn minh thay thế học
thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội để phân tích lịch sử và nhận thức các vấn
đề xã hội.
Hiểu thế nào về sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch

×