Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Văn 12 5 đề bài dàn ý về rừng xà nu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.4 KB, 18 trang )

5 ĐỀ VĂN & DÀN Ý VỀ
“RỪNG XÀ NU”
ĐỀ 1:
Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp của thanh niên Việt Nam trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ cứu nước qua hai đoạn trích sau:
“… Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra sau
lưng. Nó lại đánh sau lưng, chị lật đứa bé ra trước ngực. Trận mưa cây
sắt mỗi lúc một dồn dập, không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa. Chỉ
nghe đứa bé khóc ré lên một tiếng rồi im bặt. Chỉ còn tiếng cây sắt nện
xuống hừ hự.
Tnú bỏ gốc cây của anh. Đó là một cây vả. Anh đã bứt đứt hàng chục
trái vả mà không hay. Anh chồm dậy. Một bàn tay níu anh lại. Tiếng cụ
Mết nặng trịch:
– Không được. Tnú! Để tau!
Tnú gạt tay ông cụ ra. Ông cụ nhắc lại:
– Tnú!
Tnú quay lại. Ông cụ không nhìn ra Tnú nữa. Ở chỗ hai con mắt anh
bây giờ là hai cục lửa lớn. Ơng cụ bng vai Tnú ra.
Một tiếng thét dữ dội. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa
sân, thằng Dục tháo chạy vào nhà ưng. Tiếng lên đạn lách cách quanh
anh. Rồi Mai ôm đứa con chúi vào ngực anh. Hai cánh tay rộng lớn như
hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.
– Đồ ăn thịt người, tau đây. Tnú đây…
Tnú không cứu sống được Mai…
… Thằng Dục khơng giết Tnú ngay. Nó đốt một đống lửa lớn ở nhà ưng,
lùa tất cả dân làng tới, cởi trói cho Tnú, rồi nói với mọi người:


– Nghe nói chúng mày đã mài rựa, mài giáo cả rồi phải không? Được,
đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây.
Nó hất hàm ra hiệu cho thằng lính to béo nhất. Chúng nó đã chuẩn bị


sẵn cả. Thằng lính mở tút-se, lấy ra một chùm giẻ. Giẻ đã tẩm dầu xà-nu.
Nó quấn lên mười đầu ngón tay Tnú. Rồi nó cầm lấy một cây nứa.
Nhưng thằng Dục bảo:
– Để nó cho tau!
Nó giật lấy cây nứa.
Tnú không kêu lên một tiếng nào. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục. Nó cười
sằng sặc. Nó dí cây lửa lại sát mặt anh:
– Coi kỹ cái mặt thằng cộng sản muốn cầm vũ khí này xem sao nào. Số
kiếp chúng mày không phải số kiếp giáo mác. Bỏ cái mộng cầm giáo
mác đi, nghe khơng?
Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Khơng có gì đượm bằng
nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh khơng cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa.
Anh nghe lửa cháy ở trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở
đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát mơi anh rồi. Anh khơng kêu rên. Anh
Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…” Tnú không thèm,
không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh
Quyết ơi! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!…”
( Trích Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12,Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2015)
“…Việt tỉnh dậy lần thứ tư, trong đầu cịn thống qua hình ảnh của
người mẹ. Đêm nữa lại đến. Đêm sâu thăm thẳm, bắt đầu từ tiếng dế gáy
u u cao vút mãi lên. Người Việt như đang tan ra nhè nhẹ. Ước gì bây giờ
lại được gặp má. Phải, ví như lúc má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa


đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới
xuồng lên cho Việt ăn…
… Việt vẫn cịn đây, ngun tại vị trí này, đạn đã lên nịng, ngón cái cịn

lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn
gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của
chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nở rộ…
Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người
theo. Việt cũng khơng biết rằng mình đang bị đi nữa, chính trận đánh
đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống
cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang nổ lên
đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lê nhọn hoắt trong
đêm đang bắt đầu xung phong…”
( Trích Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi, Ngữ văn 12,Tập
hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2015)
Dàn bài
I. Mở bài
+ Giới thiệu khái quát về 2 tác giả, 2 tác phẩm và vấn đề cần nghị luận
+Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: vẻ đẹp của thanh niên Việt Nam
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước qua các đoạn trích trong
hai tác phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành|) và Những đứa con
trong gia đình (Nguyễn Thi)
II. Thân bài
+ Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Tnú qua đoạn trích trong tác
phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành|), Việt qua đoạn trích trong tác


phẩm Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) để làm rõ vẻ đẹp
của thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước:
++ Vẻ đẹp của nhân vật Tnú:
– Tnú là người có trái tim yêu thương (chứng kiến vợ con bị tra tấn, anh
đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay, tay không xơng ra giữa bọn
lính để cứu vợ con…)

– Tnú là người gan dạ, dũng cảm, kiên cường , tuyệt đối trung thành với
cách mạng (bị tra tấn- đốt 10 ngón tay nhưng anh cắn răn chịu đựng,
không kêu van )
++ Vẻ đẹp của nhân vật Việt:


u thương gia đình sâu đậm (hình ảnh người thân, đặc biệt là má
ln hiện hữu trong Việt, từ đó thơi thúc ý chí đấu tranh)



Tinh thần chiến đấu kiên cường, căm thù giặc sâu sắc ( khi bị
thương lạc đồng đội, Việt vẫn kiên cường chịu đựng, dù lúc mê lúc
tỉnh nhưng vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu…)

+ Đánh giá khái quát:
++ Tnú được khắc họa trong sự gắn bó với bn làng. Nhân vật mang
đậm dấu ấn người anh hùng trong sử thi của đồng bào dân tộc miền núi.
Việt được khắc họa trong mối quan hệ gia đình. Nhân vật gần gũi với
cuộc sống đời thường, mang đặc điểm, phẩm chất của một chàng trai
mới lớn. Cả hai nhân vật vừa mang nét cá tính riêng , vừa mang những
phẩm chất có tính khái qt, tiêu biểu. Vẻ đẹp của Tnú và Việt tiêu biểu
cho vẻ đẹp của thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ
cứu nước: yêu gia đình, quê hương, căm thù giặc sâu sắc, kiên cường,
bất khuất, trung thành với cách mạng.
++ Nghệ thuật:


– Nhân vật Việt: Với nghệ thuật trần thuật tác giả để cho nhân vật tự kể
về cuộc đời của mình và các nhân vật khác theo dịng hồi tưởng; giọng

điệu tự sự kết hợp trữ tình; ngơn ngữ đậm chất Nam Bộ; xây dựng nhân
vật sinh động qua miêu tả hành động và nội tâm tinh tế .
– Nhân vật Tnú: Hiện lên qua lời kể của tác giả, lời kể của cụ Mết, giọng
kể mang đậm tính sử thi; ngôn ngữ , hành động mang đặc trưng của
người Tây Nguyên; phân tích thế giới nội tâm nhân vật sắc sảo.
III. Kết bài
Khái quát về vẻ đẹp của các nhân vật và sự sáng tạo của mỗi nhà văn,
khẳng định đóng góp của hai nhà văn,…
(Nguồn: thutrang.edu.vn)
ĐỀ 2:
Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm “Rừng xà nu” của
Nguyễn Trung Thành.
Dàn bài
1. Mở bài: Giới thiệu Nguyễn Trung Thành và truyện ngắn Rừng xà nu.
2. Thân bài: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú.
- Tnú là nhân vật chính của truyện ngắn Rừng xà nu. Đó là một đứa trẻ
cha mẹ mất sớm, Tnú gắn bó với dân làng và có những phẩm chất của
dân làng. Tnú được cụ Mết nhận xét: “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch
như nước suối làng ta’’.
- Tnú là người con gan góc, táo bạo của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ.
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, bỏ ra ngồi suối ngồi suốt ngày,
sau đó, lấy một hịn đá “tự đập vào đầu, máu chảy ròng ròng’’ để sáng
hơm sau lại ngượng ngùng gọi Mai ra phía sau hốc đá hỏi xem “chữ o có
móc là chữ chi’’.


+ Nhưng “đi đường núi thì đầu nó sáng lạ lùng’’. Khi làm liên lạc, Tnú
khơng đi đường mịn. Qua sông, khôn lội chỗ nước êm, mà “cứ lựa chỗ
thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng
băng như một con cá kình’’.

+ Khi bị giặc bắt và tra tấn, Tnú không hé răng một lời dù bị địch tra tấn
dã man.
+ Khi bị địch đốt cháy mười ngón tay, Tnú nghiến răng chịu đựng chứ
quyết “không thèm kêu van’’.
- Đây cũng là một con người có mối thù chồng chất với qn giặc.
Chúng khơng chỉ giết hại dân làng mà còn giết hại vợ con anh và khiến
hai bàn tay anh “mỗi ngón chỉ còn lại hai đốt’’.
- Tnú còn là một chàng trai dũng cảm và trung thành với cách mạng.
+ Những ngày ấy, làng Xô Man bị kẻ thù khủng bố điên cuồng “khơng
bữa nào nó khơng đi lùng, khơng đêm nào chó của nó và súng của nó
khơng sủa vang cả rừng’’. Anh Xút bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng;
bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng vì đã vào rừng ni cán bộ.
Sau cùng đến lũ trẻ thay người già làm việc này. Tnú và Mai là hai đứa
trẻ hăng hái nhất. Có đêm, chúng ngủ ln ở ngồi rừng, vì đề phịng
giặc lùng phải có người “dẫn cán bộ chạy’’.
+ Lịng trung thành với cách mạng của Tnú đã được bộc lộ qua nhiều
thử thách. Khi bị giặc bắt, giải về làng, tra hỏi chỗ ở của cộng sản, Tnú
đặt tay lên bụng mình và nói: “ở đây này’’. Lưng Tnú ngang dọc vết dao
chém của bọn lính.
+ Khi chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn dã man bằng gậy sắt, mặc
dù tay không, Tnú dũng cảm nhảy vào giữa lũ giặc đang điên cuồng.
Nhưng anh không cứu được vợ con, bản thân bị giặc bắt và đốt hai bàn
tay bằng giẻ tẩm dầu xà nu.
+ Khi được dân làng cứu thoát, dù hai bàn tay đã cụt đốt, Tnú gia nhập
giải phóng quân như một tất yếu… Phẩm chất anh hùng của Tnú là ở


chỗ biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân : gia nhập bộ đội, chiến
đấu dũng cảm, giết giặc để trả thù cho quê hương và gia đình.
- Căm thù mãnh liệt, Tnú cũng la người biết yêu thương sâu sắc. Ba năm

đi bộ đội, Tnú da diết cảnh và người của buôn làng quê hương.
3. Kết luận
- Số phận và tính cách của nhân vật Tnú tiêu biểu cho dân làng Xô Man
và con người Tây Ngun.
- Nhân vật Tnú góp phần tơ đậm chủ đề và làm nên màu sắc sử thu của
truyện ngắn “Rừng xà nu’’.
(Nguồn: hanhtrangduhoc.net)
ĐỀ 3:
Về hình tượng Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành, có ý kiến cho rằng: “Đó là nhân vật được xây dựng bằng bút
pháp lý tưởng hóa đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn”. Ý kiến khác
thì khẳng định: “Nhân vật Tnú hiện lên trong tác phẩm hết sức chân thật,
sinh động, đời thường.”
Từ cảm nhận của mình về hình tượng Tnú, anh/chị hãy bình luận các ý
kiến trên.
Dàn bài
1. Khái quát:
- Nguyễn Trung Thành là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam giai
đoạn 1945 – 1975. Ông là cây bút say mê trước vẻ đẹp của thiên nhiên
và con người Tây Nguyên. Những trang viết thành công của ông cũng
đều là những trang văn viết về Tây Nguyên.
- “Rừng xà nu” là một tác phẩm thành công của Nguyễn Trung Thành,
được viết trong những năm tháng chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Đây là
một tác phẩm xuất sắc về đề tài miền núi, đồng thời cũng là tác phẩm


tiêu biểu về đề tài chiến tranh cách mạng. Nổi bật trong tác phẩm là hình
tượng nhâ vật Tnú.
- Về hình tượng Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu”, có ý kiến cho
rằng: “Đó là nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lý tưởng hóa đậm

chất sử thi và cảm hứng lãng mạn”. Ý kiến khác thì khẳng định: “Nhân
vật Tnú hiện lên trong tác phẩm hết sức chân thật, sinh động, đời
thường.”
2. Phân tích:
a. Ý kiến 1: “Đó là nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lý tưởng hóa
đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn”
- Cuộc đời, số phận của Tnu’ chịu nhiều mất mát, đau thương [mồ côi
cha mẹ, mất vợ, con dưới súng đạn kẻ thù, chính anh cũng từng chịu sự
tra tấn man rợ của chúng], tiêu biểu cho số phận chung của con người
Tây Nguyên trong chiến tranh.
- Tnú có những tính cách nổi bật, vừa là đặc điểm riêng, vừa là tính cách
tiêu biểu cho con người Tây Nguyên: Con người gan góc, trung thực,
dũng cảm; tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng; tình yêu
thương và lòng căm thù hết sức sâu nặng.
- Tnú là nhân vật tiêu biểu cho lí tưởng và sức mạnh cộng đồng. Số phận,
con đường đi của Tnú luôn được đặt trong mối tương quan với cộng
đồng. Ở anh có khí thế dũng mãnh, ào ạt như thác lũ Tây Nguyên; có
niềm tin vững chãi như núi rừng Tây Nguyên. Khát vọng tự do của Tnú
cũng là khát vọng chung của dân làng Xô – man.
- Cuộc đời bi tráng của Tnú được gợi lại qua lời kể của cụ Mết. Cụ Mết
kể trong một đêm mưa rì rào, gió thổi nhẹ bên bếp lửa xà nu bập bùng
trong nhà ưng. Tất cả dân làng Xôman già trẻ gái trai đã nghe cụ Mết –
một già làng có thân hình vạm vỡ, quắc thước, mắt sáng xếch ngược, râu
dài ngang ngực kể về Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xôman. Lối kể
ấy tạo nên khoảng cách sử thi và khiến người đọc liên tưởng tới hình ảnh
những tráng sĩ, dũng sĩ cổ trong sử thi cổ của Tây Nguyên.


b. Ý kiến 2: “Nhân vật Tnú hiện lên trong tác phẩm hết sức chân thật,
sinh động, đời thường”

- Trong tác phẩm, ta còn bắt gặp một Tnu’ với những tình cảm hết sức
đời thường: gắn bó với q hương, gia đình, yêu thương vợ con hết mực.
- Tnu’ – một chiến sĩ cách mạng rất kỉ cương, nề nếp.
- Miêu tả Tnú, tác giả chú ý tới ngôn ngữ mang màu sắc lời ăn tiếng nói
của con người Tây Nguyên, ngôn ngữ đối thoại bộc trực, thẳng thắn và
những hành động dứt khoát, quyết liệt, mạnh mẽ để làm nổi bật tính
cách một chàng trai Tây Nguyên.
3. Đánh giá:
- Viết về đề tài Tây Nguyên, đề tài chiến tranh chống Mĩ; Nguyễn Trung
Thành đã sáng tạo và xây dựng được những nhân vật mang ý nghĩa điển
hình. Những nhân vật đó thường có ngun mẫu ngồi đời nhưng qua
ngịi bút của nhà văn đã trở thành hình tượng mang ý nghĩa tiêu tiểu,
khái quát cho cả dân làng Tây Nguyên. Tnú là một trong số những nhân
vật đó, là thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn
Trung Thành.
- Tnú là một tấm gương sáng với thế hệ trẻ ngày nay trong công cuộc
đấu tranh, bảo vệ quê hương, đất nước.
(Nguồn: Facebook: Lớp 12)
ĐỀ 4: Chất sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu”.
Dàn bài
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, chất sử thi của tác phẩm.
II. Thân bài
1.Khái niệm Sử thi


Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xi), có quy mơ
hồnh tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu, những sự kiện có tính
chất tồn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng, ca ngợi những
anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và
khát vọng của bộ tộc (như anh hùng Rama trong Sử thi Ramayana;

Hecto trong sử thi Iliat, Ôđixê của Hy Lạp..v.v…Ở Việt Nam có người
anh hùng Đam San trong Bài ca Đăm Săn của người Ê Đê…)
Mỗi bộ sử thi chính là niềm tự hào to lớn của dân tộc đó. Sử thi thời cổ
đại là thể loại một đi không trở lại. Nền văn học hiện nay khơng cịn thể
loại sử thi nữa nhưng cái khơng khí, tính chất của sử thi vẫn được người
cầm bút mang vào trong các sáng tác. Và chất sử thi đã làm nên giá trị,
làm nên sức sống cho từng trang viết, làm sống lại khơng khí hùng tráng
của một thời đại anh hùng. Một số truyện ngắn tiêu biểu minh họa cho
sự tồn tại của nền văn học sử thi trong Văn học Việt Nam giai đoạn 1945
– 1975 như: Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, Người mẹ cầm
súng của nhà văn Nguyễn Thi, truyện ngắn Rừng xà nu, tiểu thuyết Đất
nước đứng lên của nhà văn Nguyễn Trung Thành, tiểu thuyếtHịn Đất
của Anh Đức…
2. Hồn cảnh sử thi
Truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập truyện ngắn Trên quê hương
những anh hùng Điện Ngọc.Tác phẩm được viết vào năm 1965. Đây là
thời điểm Mỹ đổ quân tham chiến ở miền Nam . Cuộc kháng chiến
chống Mỹ ở Miền Nam ở vào hồi quyết liệt: giặc Mỹ điên cuồng đánh
phá Cách mạng miền Nam. Trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù, tinh
thần đấu tranh cách mạng của nhân dân (từ miền ngược đến miền xuôi)
càng kiên cường và bất khuất “Họ đã xuống đường và đem cả lương tâm
và nhân phẩm bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai)
3. Chất sử thi thể hiện trong tác phẩm Rừng Xà Nu
Ý 1: Chất sử thi được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ ,
tráng lệ vừa đậm chất thơ của núi rừng Tây Nguyên.


Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất
thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở
đầu tác phẩm là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết túc tác

phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Đó chính là
bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn
và hào hùng của dân tộc ta.
Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng
trương, so sánh, bi tráng hóa… nhà văn đã dựng nên bức tranh rừng xà
nu ở nhiều góc độ:
- Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát do bom đạn của kẻ thù gây
ra.
- Sức sống mãnh liệt của cây xà nu khơng bom đạn nào có thể khuất
phục được (So sánh với sức sống của con người Xô Man)
- Cây xà nu ham ánh sáng, yêu tự do, ln vươn lên đón ánh nắng và khí
trời.
- Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che
chở cho cả dân làng”.
“Một cây ngã cả rừng cây lại mọc
Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”
(Nhà văn Nguyễn Trung Thành)
Người hi sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời
(Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng)
Ý 2: Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xôman.
Đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta được thả hồn theo những
cánh rừng xà nu bát ngát, xanh rờn đến tận chân trời, được chứng kiến
sức sống mãnh liệt không gì hủy diệt được của những cây xà nu. Mặt
khác chúng ta lại khâm phục biết bao người anh hùng Tnú với những
phẩm chất tốt đẹp. Xây dựng hình tượng người anh hùng này cũng là
biểu hiện chất “Sử thi”.


• Tnú: Cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình,

anh đã biến đau thương thành hành động trở thành anh lực lượng đi đánh
giặc trả thù nhà nợ nước.
- Tnú và chặng đường đầu của cách mạng (Nuôi giấu cán bộ, làm liên
lạc, bị giặc bắt)
- Vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc.
- Cùng một lúc phải hứng chịu hai tấn bi kịch do tội ác của giặc gây ra
(vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị giặc đốt cụt mười đầu ngón tay)
- Hình tượng đôi bàn tay Tnú (đôi tay cần cù lao động, đôi tay chứng
nhân tội ác kẻ thù, đôi tay chưa bao giờ biết phản bội…)
“Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống
mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người
anh hùng dân tộc Tây Nguyên và cũng mang những nét chung của hinh
mẫu anh hùng dân tộc thấm đượm chất “Sử thi”. Cùng với Trần Quốc
Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng,
liệt sĩ khác các anh ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt
Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng)
Ý 3. Tính cộng đồng trong tác phẩm:
Bên cạnh việc miêu tả,làm nổi bật lên hình ảnh của người anh hùng Tnú,
người ta còn thấy được hình ảnh của những con người khác xung quanh
nhân vật này, những người gan dạ dũng cảm trong cộng đồng làng Xô
man. Mỗi con người là một sức mạnh, mỗi ngọn giáo đứng lên là thể
hiện một lòng căm thù. Sức sống mãnh liệt đó được truyền từ đời này
qua đời khác, từ thế hệ các cụ già đến những em bé cịn ngây thơ nhưng
đã có ý thức về nỗi đau mất nước, mất người thân, mất chủ quyền dân
tộc. Tính chất cộng đồng được thể hiện trong tác phẩm rất rõ:
- Đó là hình ảnh sum vầy, qy quần bên nhau, nương tựa vào nhau
“cơm nước xong từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài ba
tiếng , dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết”. Tất cả mọi người từ các cụ



già các cô gái, những đứa trẻ sum tụ bên nhau để nghe câu chuyện cuộc
đời Tnú.
- Cụ Mết, thế hệ đi trước, một con người từng xông pha trong kháng
chiến chống Pháp, nay lại tiếp tục sứ mệnh tiếp thêm sức mạnh cho con
cháu, là người chỉ đường dẫn lối, là người truyền lại kinh nghiệm cho
thế hệ mai sau “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
- Dít, một cơ gái với lịng dũng cảm, sự thơng minh, ấn tượng bởi “đơi
mắt mở to và bình thản”. Bình thản trước súng gươm của kẻ thù. Phẩm
chất kìm nén đau thương để biến thành hành động, nhanh chóng trở
thành cơ bí thư chi bộ, cấp chỉ huy cao nhất của làng Xô Man.
- Rồi đến Heng “đội cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng, mặc
chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra
vẻ một người lính thực sự.”, cũng dũng cảm, cũng nhanh nhẹn như Tnú.
Cũng là một cây xà nu con mọc lên, tiếp bước với cây lớn làm nên rừng
xà nu, làm nên bản làng Xô man mạnh mẽ.
• Có thể nói chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của già
làng Mết, từ già làng chảy qua Tnú, Tnú chảy qua Mai, Mai chảy qua
Dít, Dít chảy qua Heng, Heng chảy vào những cây xà nu con mới mọc
đã nhọn hoắt như những mũi lê chóc thẳng lên bầu trời. Dân tộc Việt
Nam dù có hy sinh, dù có mất mát nhưng vẫn không bao giờ lùi bước
trước quân thù:
“Nước Việt Nam từ trong biển máu
Người vươn lên như những thiên thần”
(Tố Hữu)
“Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lịa”
(Nguyễn Đình Thi)
Ý 4. Nghệ thuật trong truyện ngắn Rừng Xà Nu



- Hình thức kể chuyện với cách tạo khơng khí truyện rất Tây Nguyên
đậm đà màu sắc sử thi truyền thống. Bao trùm lên toàn bộ thiên truyện là
một khung cảnh nghiêm trang, hào khí lại vừa mang đậm chất lãng mạn
cuốn hút về làng Xô man bất khuất kiên cường.
- Giọng văn trong Rừng Xà Nu là giọng văn mang âm hưởng vang dội
như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ.
Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hồng tráng của tác
phẩm.
- Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay cịn gọi là đầu cuối tương ứng.
Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái
khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa
đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều
này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn
đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận
của Tây Nguyên.
- Biện pháp nhân cách hóa, miêu tả cây xà nu như con người Xơ Man.
Vì vậy cây xà nu hiện ra như một nhân vật của câu truyện. Nguyễn
Trung Thành đã biến rừng xà nu thành cả một hệ thống hình ảnh được
miêu tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật.
- Sử dụng kiểu thời gian gấp khúc “đau thương nuôi con người vụt lớn
lên” (Tnú ngày bị bắt mới chỉ đứng ngang bụng cụ Mết, 3 năm sau trở
về đã là chàng thanh niên lực lưỡng; Dít ngày Tnus đi cịn bé, 3 năm sau
anh trở về Dít đã là bí thư chi bộ)
III. Kết bài
Khẳng định vẻ đẹp sử thi của tác phẩm, của thời đại. Liên hệ “Những
đứa con trong gia đình”.
(Nguồn: Facebook: Hội những người ôn thi đại học khối D)
ĐỀ 5:



Có ý kiến cho rằng:“Ở Tnú khơng có vấn đề tìm đường, nhận
đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính
chỗ A Phủ dần khép lại.” Hãy so sánh hai nhân vật A Phủ (“Vợ chồng A
Phủ” – Tơ Hồi) và Tnú (“Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành) để thấy
được những phẩm chất mới mẻ ở Tnú.
Dàn bài
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát hai tác phẩm, tác giả và vấn đề nghị luận
II. Thân bài
1. Giải thích:
– Tìm đường, nhận đường là vấn đề nhận thức về lý tưởng – mục đích
cao nhất của cuộc sống.
– Nhân vật A Phủ của Tô Hồi được coi là nhân vật đang trên đường đi
tìm lý tưởng và nhận thức lý tưởng. Nhân vật Tnú đã có lý tưởng ngày
khi anh cịn nhỏ.
→ Ở Tnú khơng có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ,
câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Có
nghĩa Tnú là hệ nối tiếp, đi sau sẽ có những bước phát triển và phẩm
chất mới mẻ hơn so với nhân vật đàn anh A Phủ.
2. Điểm gặp gỡ và khác biệt của hai nhân vật
2.1. Điểm gặp gỡ
* Đều sinh ra từ những vùng cao xa xôi, hẻo lánh:
– A Phủ sinh ra tại vùng núi Tây Bắc.
– Tnú sinh tại vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió.


* Đều mồ côi:
– Cha mẹ A Phủ mất trong dịch đậu mùa khi đó cậu chừng 10 tuổi. Lần
lần đi làm thuê cho nhà người.
– Tnú cũng mồ côi từ nhỏ được dân làng STrá nuôi dưỡng.

* Lớn lên đều là những chàng trai khỏe mạnh, cường tráng:
+ A Phủ được ví như con trâu tốt trong làng.
+ Tnú được ví như cây xà nu cường tráng bất chấp đạn bom.
* Cả hai đều có phẩm chất dũng mãnh, căm thù cái ác, sự bất công và đi
theo cách mạng:
– A Phủ
+ Chống lại A Sử – con quan khi hắn phá cuộc chơi → không sợ cường
quyền.
+ Sau khi được Mị cắt dây cởi trói, chạy đến vùng Phiềng Sa, được
người cán bộ A Châu giác ngộ, anh đã là du kích hoạt động rất tích cực.
– Tnú:
+ Gan góc quả cảm ngay từ nhỏ (Chi tiết: Ni giấu cán bộ, nuốt thư khi
bị bắt)
+ Chỉ huy dân làng mài vũ khí, chuẩn bị lực lượng chiến đấu.
+ Mặc dù chịu nhiều đau thương: vợ con mất, bàn tay bị đốt nhưng anh
vẫn đi lực lượng cầm vũ khí chiến đấu.
2.2.Sự khác biệt
a. A Phủ
* Cảnh ngộ của A Phủ rất đáng thương.


– A Phủ mồ cơi cha mẹ từ khi cịn nhỏ
– Nạn nhân của những tập tục phong kiến lạc hậu
– Kiếp sống nô lệ ngựa trâu cho nhà thống lí.
* Tính cách của A Phủ rất đặc biệt:
– Gan góc, có ý thức phản kháng mỗi khi khơng chịu nổi điều gì (chi
tiết: đánh A Sử; để hổ bắt mất một con bị, anh khơng van xin, khơng
cầu cứu, đêm cúi xuống nhay đứt hai vịng dây trói; khi được Mị cứu,
anh quật sức chạy thoát)
– Tuy nhiên do bị đọa đày triền miên khiến trong anh còn rơi vào tình

trạng chấp nhận, cam chịu(chi tiết: tập tễnh đi giết lợn phục dịch những
kẻ vừa hành hạ mình; một mình rong ruổi ngồi rừng mà khơng chạy
trốn; nghe lời thống lí tự đi lấy cọc, đóng cọc, lấy dây để hắn trói mình)
→ thói quen cam chịu, cam phận của người nông dân trên các vùng núi
cao, khi ánh sáng của Đảng chưa vươn tới. Họ sống như trong đêm tối
không biết đường ra, không ai chỉ đường vạch lối. Đến khi cái chết cận
kề, họ mới biết dựa vào nhau để giành giật lấy sự sống.
→ Tơ Hồi rất biện chứng trong hai mặt đối lập của nhân vật và chỉ ra
cho người đọc thấy đó làbước tìm đường, nhận đường của A Phủ để
sau này sang Phiềng Sa gặp A Châu (cán bộ Đảng), anh được giác ngộ
và sẵn sàng cầm súng trở thành du kích quay về giải phóng quê hương.
b. Tnú:
– Khác với A Phủ, câu chuyện về cuộc đời của Tnú được mở ra từ
chính câu chuyện về A Phủ được khép lại.
+ Tnú mồ cơi nhưng được sống trong vịng tay u thương đùm bọc của
dân làng Xô Man.
+ Được gần cán bộ cách mạng là anh Quyết, được dạy chữ để sau này
tiếp nối làm cán bộ, lãnh đạo phong trào cách mạng ở quê hương.


→ Tnú có những điều kiện mà các nhân vật anh hùng miền sơn cước
trước đó chưa có, hay chỉ có khi đã trải qua vơ vàn đau khổ, gian trn.
Vì thế, ở Tnú khơng cịn là nhân vật tìm đường nữa, anh đã có những
điều kiện thuận lợi và phẩm chất mới mẻ, vượt xa với A Phủ
– Tnú có một bi kịch đau đớn nhưng vượt lên hồn cảnh đau thương,
anh lên đường vào lực lượng vũ trang tiếp tục chiến đấu bảo vệ quê
hương, đất nước.
3. Đánh giá chung
– Tnú – người anh hùng mà cụ Mết kể trong cái đêm dài ấy có những
phẩm chất thật đáng quý. Anh may mắn hơn so với thế hệ đàn anh của

mình như anh hùng Núp và A Phủ:
+ Khơng phải sống kiếp tội địi cam phận, cam chịu.
+ Được thừa hưởng phong trào cách mạng từ cuộc kháng chiến chống
Pháp của dân tộc.
+ Được giác ngộ lí tưởng cách mạng ngay từ tuổi nhỏ.
– Nhưng “Lớp cha trước, lớp con sau / Đã thành đồng chí chung câu
quân hành” tất cả các anh đều là những người con ưu tú của núi rừng
Tây Bắc, Tây Nguyên trong các cuộc chiến tranh vệ quốc, mang trong
mình chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc
Việt Nam, mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ tiếp nối.
III. Kết bài
– Đánh giá lại vấn đề
– Bài học nhận thức và hành động cho thế hệ trẻ trong cuộc sống, xã hội
mới.
(Nguồn: thutrang.edu.vn)



×