Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vấn đề văn hóa pháp luật trong hoạt động lập pháp ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.34 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ CƠNG THƯBNS

VẤN ĐỀ VĂN HĨA PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP
ở VIỆT NAM HIỆN NAY

• CAO VIỆT THĂNG - NGUYEN ĐÌNH SƠN

TĨM TẮT:
Trong tổng thể nói chung, văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra

trong quá trình lịch sử1. Lĩnh vực lập pháp cũng nhưcác lĩnh vực khác của đời sống xã hội được
tổ chức và vận hành dựa trên căn bản là những giấ trị văn hóa pháp luật và các hình thức văn
hóa khác hướng đến bảo đảm hiệu quả của công tác lập pháp.
Bài viêt nghiên cứu vân đề văn hóa pháp luật trong hoạt động lập pháp - một bộ phận quan
trọng của lĩnh vực lập pháp ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Văn hóa pháp luật, hoạt động lập pháp, phấp luật Việt Nam.

1. Khái quát về văn hóa pháp luật trong hoạt
động lập pháp
Ỉ.JỈ. Khái niệm và đặc điểm của văn hóa
pháp luật
Hoạt động ỉập pháp chịu sự tác động khơng chỉ
của văn hóa pháp luật mà cịn cả văn hóa khác,
chủ yếu là văn hóa chính trị và văn hóa đạo đức.
Văn hóa pháp luật có thể được tiếp cận từ phương
diện câu trúc. Theo cách tiếp cận này, văn hóa
pháp luật được xác định một cách trực tiếp các yếu
tố chứa đựng văn hóa rộng hẹp khác nhau: '"Văn
hóa pháp ỉuật ỉà hệ thống các yếu tố, giá trị vật
chât và tinh thần thuộc lĩnh vực tác động của pháp


luật, được thể hiện trong ý thức, tư tưởng và hành
vi của con người"2: “Văn hóa pháp luật được hình
thành từ 3 yếu tố: Ý thức pháp luật, hệ thống pháp

44

Số27-Tháng 11/2020

luật và các phương tiện pháp luât: trình độ. khả
năng sử dụng pháp luật để thực hiện các hành vi
hợp pháp”3; hay: “Văn hóa pháp luật là hệ thống
các yếu tố, giá trị vật châì và tinh thần thuộc lĩnh
vực tác động của pháp luật được thể hiện trong ý
thức, tư tưởng và hành vi của con người”4.
Khi tiếp cận vàn hóa pháp luật dưới góc độ của
văn hóa học, người ta cho rằng văn hóa pháp luật
khơng phải là thuật ngữ của giới luật học thuần
túy, mà là một đại lượng gắn liền với xã hội học
pháp luật hoặc nhân chủng học có liên quan đến
pháp luật. Xa hơn. nó có thể liến quan đến triết
học pháp luật, luật so sánh-'. Cụ thể, tiêu biểu là
quan điểm của M. Friedman, tác giả cho
rằng:“Văn hóa pháp luật là thái độ ứng xử. hệ
thống các giá trị và quan điểm của xã hội đối với


LUẬT

pháp luật, hệ thống pháp luật và các hợp phần đa


dạng khác của hệ thống pháp luật”6... Từ các cách
tiếp cận trên đây về văn hóa pháp luật và xem xét
các khía cạnh ìiên quan có thể nhận thức tổng thể
về hiện tượng “văn hóa pháp luật" như sau:
Một là, văn hóa pháp luật thể hiện ở các thiết
chế, thể chế gắn liền với điều chỉnh của pháp luật
và trong ý thức, hành vi của chủ thể pháp luật;

Hai là, văn hóa pháp luật chứa đựng trong nó
những giá trị pháp lý có ý nghĩa, hữu ích7 đối với
đời sống xã hội và là nền tảng đời sống pháp luật
của mỗi xã hội;
Ba là, văn hóa pháp luật chỉ là góc nhìn về
phương diện pháp lý trong các hoạt động, đời sống
của con người, cá nhân, cộng đồng. Theo quan
điểm của UNESCO, văn hóa pháp luật cùng với
các loại hình văn hóa khác đã cấu thành một hệ
thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỳ và lối
sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định
bản sắc riêng của mình8.
Trên cơ sỏ quan niệm chung về văn hóa pháp
luật trên đây, có thể xem xét vân đề văn hóa pháp
luật trong hoạt động lập pháp. Trước hết, nói về
hoạt động lập pháp. Đối với mỗi bộ máy nhà nước,
các lĩnh vực hay quyền gắn với pháp luật được chí
thành 3 lình vực: Lập pháp, Hành pháp, và Tư
pháp. Như thế, trong bộ máy nhà nước lập pháp
chỉ là một lĩnh vực hoạt động của nhà nước. Theo
cách hiểu trong khoa học pháp lý về mặt ngữ nghĩa
thì “lập pháp" là công việc làm luật của cơ quan

đại diện Quôc hội (nghị viện hoặc tên gọi khác)
phân biệt với “lập quy” là hoạt động xây dựng và
ban hành các văn bản dưới luật do các cơ quan nhà
nước không phải là Quốc hội thực hiện. Tuy nhiên,
trong thực tế, Quốc hội tuy được gọ ì là cơ quan lập
pháp nhưng không phải chỉ làm nhiệm vụ xây dựng
và ban hành luật. Nó thường cịn làm cả các cơng
việc khác như quyết định các vấn đề quan trọng
lớn với đất nước, giám sát,...
Từ những nhận thức tổng quát về văn hóa pháp
luật và hoạt động lập pháp về cơ bản, có thể hiểu
văn hóa pháp luật trong hoạt động lập pháp là
những giá trị tạo nền tảng cho hoạt động lập pháp
thể hiện trong thiết chế, thể chế lập pháp, trong ý
thức vằ hành vi pháp luật của các chủ thể có thẩm
quyền hay tham gia thực hiện hoạt động lập pháp.

Văn hóa pháp luật trong hoạt động lập pháp có
một số đặc điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất, ở mức độ tổng quát, vãn hóa pháp

luật trong hoạt động lập pháp phản ánh các đặc
điểm của mơi trường, trong đó hoạt động lập pháp
thường gắn vai trò điều chỉnh của pháp luật với
tính cách là hoạt động tạo nên các quy tắc pháp
luật cơ bản, tạo nền tảng cho hoạt động của quốc
gia. Vì vậy, ở đây đề cập đến là vấn đề văn hóa
tranh luận, phản biện,...
Thứ hai, cũng từ vai trò tạo “nền tảng" như trên
của luật, ý thức, hành vi lập pháp của các cá nhân,

đại diện cho tổ chức, cơ quan ln cần đến tính
“chuẩn mực” mà mọi biểu hiện đi chệch chuẩn
mực đó (dân chủ, quyền con người, lợi ích nhóm,...)
đều chịu sự phê phán nghiêm khắc có thể đến
“mất mặt”.
Thứ ba, hoạt động lập pháp là một hoạt động
đặc biệt, hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước
ở tầng cao và tác động đến các quan hệ cơ bản của
đời sống - xâ hội. Vì vậy, hoạt động này chịu sự
điều chỉnh của các quy định pháp luật. Do đó, khi
các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước thì yêu
cầu đặt ra là các chủ thể đó phải thể hiện văn hóa
pháp luật trong việc “gương mẫu" tuân thủ các quy
định pháp luật nhằm tránh trường hợp quyền lực
nhà nước bị lạm dụng, mất kiểm soát.... cũng như
tạo ra các quy định xung đột hoặc bất hợp pháp.
Thứ tư, có sự tác động của các đặc tính cá nhân,
mơi trường trên phương diện văn hóa pháp luật đối
với chủ thể lập pháp. Ớ đây ln có mối tương
quan giữa hành vi với cách nghĩ, cách ứng xử, niềm
tin, tôn giáo của chủ the lập pháp vơi các đặc tính
nhân học và mơi trường mà họ sinh sống. Và cũng
cần nhân mạnh rằng, không chỉ hành vi của các
chủ thể lập pháp mới chịu tác động bởi mốì tương
quan đa chiều trên mằ các hoạt động bình thường
của bất cứ cá nhân nào cũng đều chịu sự tác động
của các điều kiện đó. Nghĩa là. dấu ấn cá nhân như
cách nghĩ, niềm tin, tôn giáo, môi trường sinh sống
đều phản ánh lên mỗi hoạt động của họ qua lăng
kính văn hóa pháp luật.

1.2. Chủ thể của vân hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật ln gắn với chủ thể của nó
là con người có ý thức. Vì vậy, nói về văn hóa pháp
luật trong hoạt động lập pháp không thể không xác

SỐ27-Tháng 11/2020

45


TẠP CHÍ CƠNG THIÍÍNG

định các chủ thể tham gia vào quá trình lập pháp,
nhưng chủ thể trước hết và chủ yếu phải nhắc đến
là chủ thể lập pháp. Đó là những chủ thể mà hành
vi, hoạt động của họ ảnh hưởng có tính chát quyết
định đên việc soạn thảo, thơng qua, cơng bố Hiến
pháp, luật, Pháp ỉệnh (văn bản có tính chát luật) và
được Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
xác định sự hiện diện có tính chát bắt buộc hoặc
chính thức. Các chủ thể này có thể là một cá nhân,
nhưng cũng có thể là ý kiến chung của tập thể
người trong một cơ quan, tổ chức.
ơ nước ta, chủ thể trong hoạt động lập pháp
được chia thành hai loại:
a) Các chủ thể quyết định thông qua luật:
- Các công dân với tư cách là người tham gia
trưng cầu ý dân về toàn văn hay nội dung nào
đây của Hiến pháp theo Luật Trưng cầu ý dân
(Điều 6);

- Quốc hội theo quy định tại Điều 69 thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp;

- ưy ban Thường vụ Quốc hội thơng qua Pháp
lệnh - văn bản có tính chát luật.
Chủ tịch nước;
Đại biểu Quốc hội;
b) Các chủ thể khác tham gia các hoạt động
hoạt động lập pháp, đó là các chủ thể có quyền
sáng kiến lập pháp hay tham gia bắt buộc vào quấ
trình hoạt động lập pháp, như: Hội đồng và các ủy
ban của Quốc hội; Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm
sát, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,...
2. Thực trạng và định hưởng xây dựng và
phát triển văn hóa pháp luật trong hoạt động
lập pháp
2.1. Thực trạng văn hóa pháp luật trong hoạt
động lập pháp
Thực tiễn lập pháp ở nước ta trong quá trình đổi
mới, đặc biệt là ở những khóa Quốc hội gần đây
cho thây những nét văn hóa nổi lên ngày càng rõ
nét như là điểm son trong lập pháp của Quốc hội
như sau:
1/ Nghiên cứu thực tiễn lập pháp ở nước ta trên
phương diện vãn hóa pháp luật dễ thây nổi lên là:
Giá trị cửa dân chủ được thể hiện trong pháp luật
và ngày càng được bảo đảm một cách thực tế. Đây
là điểm đặc trưng nhát khi nhìn nhận về văn hốa
pháp luật được các chủ thể lập pháp ỏ nước ta tiếp
nhận thời gian qua. Ví dụ, trong năm 2018, Chính


46

SƠ'27-Tháng 11/2020

phủ nước ta sau khi tiếp thu các ý kiến của nhân
dân đã đề nghị Quốc hội hỗn thơng qua Luật đơn
vị hành chính - kinh tế đặc biệt (Luật Đặc khu).
Bên cạnh đó, sự khơng áp đặt ý kiến đối với các
đại biểu trong thảo luận và thông qua luật, các đại
biêu có thể tự do phát biểu ý kiến có tính chất xây
dựng đối với các vân đề của luật.
2/ Vãn hóa tranh luận trong hoạt động lập
pháp đã được đẩy lên mức ngày càng cao. Các ý
kiến về xây dựng luật, các quy định của luật được
tôn trọng quyền tự do phát biểu. Ý kiến có thể là
thuận chiều hay trái chiều, có thể là gay gắt hay
ơn hịa, nhưng nói chung, Quốc hội và giữa các
đại biểu đã châp nhận nhau, tôn trọng nhau,
không quy kết, chụp mũ.
3/ Văn hóa pháp luật được thế' hiện trong sản
phẩm của nó là ở các luật ngày càng có chất lượng.
Hiện nay, đứng trước thực trạng chúng ta đang
tham gia ký kết hàng loạt các hiệp định thương mại
mới đã chứng tỏ hệ thống pháp luật đang rất mở thì
mới có thể cùng một lúc tiếp nhận và tương thích
với nhiều hiệp định quốc tế để thích ứng với các
chuẩn mực quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả tích cực trong
hoạt động lập pháp gắn với những giá trị pháp luật

hiện có, vẫn cịn những hạn chế nhìn từ khía cạnh
văn hóa. Đó là:
- Vần hóa pháp lý bao cấp ít nhiều vẫn có trong
hoạt động lập pháp. Trước tiên, nó thể hiện ở các
kế hoạch lập pháp do Nhà nước, các cơ quan nhà
nước thực hiện như ban hành các chương trình xây
dựng pháp luật hàng năm, tồn khóa.... Vai trò của
Mặt trận và các tổ chức thành viên của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam chưa được đặt đúng vị trí trong
xã hội hiện đại. chưa được đề cao đúng mức.
- Tính kiêm nhiệm đại biểu trong lĩnh vực lập
pháp. Đây cũng là biểu hiện theo đó. văn hóa pháp
lý đẵ khơng phản ánh được tính chun nghiệp
cũng như hiệu quả hoạt động của Quôc hội trong
hoạt động lập pháp. Thực tế, đó có thể là nguyên
nhân nhiều đạo luật vừa ban hành đã phải sửa đổi9,
hoặc thậm chí có quy định của luật chưa có hiệu
lực đã phải sửa đổi!0.
• Biêu hiện cục bộ, lợi ích (ngành, lĩnh vực)
trong hoạt động lập pháp. Đây là điều đã được biết
đên từ khá lâu trong thực tiễn lập pháp nước ta.
Hiện tượng “chạy qua chạy lại, xin cho, quy định


LUẬT

không rõ ràng để người dân kêu ca, phải xếp hàng
chờ đợi”11 là vấn đề đã được nêu trong các phiên
họp của Chính phủ, các Bộ, ngành hoặc của dư
luận xã hội nước ta thời gian qua.

- Trong hoạt động soạn thảo cũng như tranh
luận, thông qua luật, không tránh khỏi ảnh hưởng
cửa truyền thống, tâm lý pháp lý bắt rễ sâu trong
đời sống - xã hội. Đó là "dĩ hòa vi quý", “thêm
bạn, bớt thù”, “nể nang”,... làm giảm tính tranh
luận, phản biện trong hoạt động lập pháp.
2.2. Định hướng xây dựng và phất triển văn
hóa pháp luật trong hoạt động lập pháp
Từ nhận thức lý luận và thực tiễn trên đây về
văn hóa pháp luật trong hoạt động lập pháp,
nghiên cứu xin có một sơ định hướng sau đây:
Một là, mở rộng các đôi tượng tham gia vào hoạt
động lập pháp.
Thực châ”t đây là tang cường giá trị dân chủ
trong văn hóa lập pháp. Định hướng phát triển văn
hóa pháp luật trong hoạt động lập pháp ỏ nước ta
trước tiên cần được thể hiện ngay trong các quy
trình lập pháp theo hướng xã hội hoá hoạt động
làm luật.
Việc mở rộng đơi tượng lập pháp này chính là
biểu hiện quan trọng đầu tiên của văn hóa pháp
luật, thể hiện ở việc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.
Cho đến nay, Chính phủ là cơ quan hành pháp,
nhưng trên thực tế, có tới hơn 90% số dự án luật
được xây dựng dựa trên đề xuất của các cơ quan
hành pháp, sau đó giao cho cơ quan hành pháp chủ
trì xây dựng luật12. Việc tận dụng tốt các nguồn lực
xã hội, làm cho pháp luật trở nên khách quan hơn
so với việc pháp luật được đưa ra từ phía các cơ

quan lập pháp, cũng giảm bớt gánh nặng cho Chính
phủ để dồn sức cho việc thực hiện chức năng quản
lý vì mơ tốt hơn.
Hai là, bảo đấm tính pháp quyền trong hoạt
động lập pháp.
Cần bảo đảm sự ràng buộc pháp lý để không
chỉ các thể chế nhằ nước mà các thể chế chính trị
cũng phải hoạt động trong khn khổ pháp luật.
Cụ thể hóa quy định tại khoản 3, Điều 4 của Hiến
pháp: "Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật”, trong lĩnh vực lập pháp
cũng cần thể hiện được nguyên tắc này. Ớ đây có

thể thây, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức
chính trị duy nhất ở nước ta với vai trò đặc biệt
quan trọng, là lãnh đạo nhà nước và xã hội, trong
đó có lãnh đạo hoạt động lập pháp nhưng vẫn chưa
có được một đạo luật về Đảng được ban hành. Vì
vậy, thời gian tới, việc phát triển văn hóa pháp luật
trong hoạt động lập pháp cần phải thể chế hóa tổ
chức và hoạt động của Đảng ta bằng các đạo luật
cụ thể.
Ba là. xây dựng và phát triển vân hóa pháp luật
trong hoạt động lập pháp gắn với các cơ chế hữu
hiệu công nhận, tôn trọng, báo vệ. bảo đảm quyền
con người, quyền cơng dân.
Thực tế, văn hóa của người Việt vốn đề cao tính
cộng đồng, hạ tháp tính cá nhân, khiến cho ý thức
về cái tôi cá nhân bị xem nhẹ, người dân cũng ít

địi hỏi Nhà nước phải xây dựng các cơ chế pháp
lý để bảo vệ các phạm vi quyền của mình. Ớ chiều
ngược lại. tư duy về việc mình có quyền ban phát
trong việc “tặng - cho", “thu hồi” chứ không phải
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm cũng hiện
diện tham gia tư tưdng của một bộ phận cán bộ,
cơng chức. Vì vậy. pháp luật cũng như thực hiện
pháp luật trong hoạt động lập pháp cần phải tính
đến các yếu tố văn hóa này để cải thiện tình hình.
Bốn là, phát triển vần hóa pháp luật bằng việc
xác định hợp lý phạm vi quyền lực nhà nước trong
hoạt động lập pháp.
Việc giới hạn quyền lực nhà nước trong hoạt
động lập pháp không chỉ là việc xác định đúng
thẩm quyền của các chủ thể quyền lực nhà nước
mà còn là đảm bảo việc tham gia của nhân dân.
của xã hội trong việc xây dựng các đạo luật cũng
như lổ chức hoại dộng lập pháp. Chỉ khi lùm đưực
như vậy thì các cơ quan nhà nước mới có vị trí,
chính danh và nhân dân cũng thầy được tiếng nói
của mình trong đó, làm hạn chế sự lạm quyền trong
hoạt động xây dựng pháp luật.
Năm là, gìn giữ tinh hoa vấn hóa pháp lý truyền
thơng trong hoạt động lập pháp.
Văn hóa pháp luật truyền thơng nước nào cũng
vậy, có thể có những mặt tích cực và tiêu cực. vấn
đề bảo vệ, phát triển văn hóa pháp lý truyền thống
trong hoạt động lập pháp là vấn đề rất phức tạp. Ta
có thể gặp cả quan niệm dường như có xu hướng đi
ngược các giá trị văn hóa pháp lý pháp luật. Vì

vậy, việc lựa chọn các giá trị văn hóa pháp lý nào
Số27-Tháng 11/2020

47


TẠP CHÍ CÕNG THƯƠNG

để gìn giữ. giá trị nào để loại bỏ do khơng phù hợp
có lẽ là vấn đề cần nhiều nghiên cứu hơn nữa.
Trong phạm vi của bài viết, các tác giả chỉ nêu một
vài khía cạnh hoặc ví dụ mang tính gựi ý.
Chẳng hạn, gìn giữ tính nhân văn trong văn hóa
Việt thể hiện quan điểm “đánh kẻ chạy đi. khơng
đánh người chạy lại". Theo đó, trong hoạt động lập
pháp, việc xây dựng những văn bản pháp luật có
tính trừng phạt, cưỡng chế đối với tội phạm hình sự
hoặc các vi phạm hành chính. Ngồi áp dụng các
biện pháp trừng phạt thì kèm theo đó cần đẩy
mạnh tính chát, tạo lập cơ chế giáo dục tốt hơn nữa
đê tạo điều kiện cho những người vi phạm có các
cơ hội sửa chữa sai lầm, nhằm phát huy tính nhân
văn của văn hóa truyền thống.
Hay với văn hóa trọng tình hơn trọng lý và
truyền thơng văn hóa khép kín của người Việt,
trong lập pháp có thể tính đến việc lựa chọn hình
thức quan phương hoặc phi quan phương trong một
số mối quan hệ. Có thể cho phép cộng đồng tự giải

quyết một số' hành vi pháp lý một cách êm thâm.

Chính vì vậy, trong hoạt động lập pháp có thể
nghiên cứu để trao quyền giải quyết những vân đề
có tính địa phương (tự quản) như thừa nhận các
phong tục, tập quán tốt đẹp, đề cao hòa giải địa
phương,... Điều đó là vừa gìn giữ bản sắc văn hóa
truyền thống, đồng thời giảm áp lực cho chính các
cơ quan nhà nước trong việc giầi quyết những vân
đề địa phương.
Vân đề hạn chế thấp nhất văn hóa bao câp. thụ
động trong hoạt động xây dựng pháp luật. Tư tưởng
bao cấp trong xây dựng pháp luật vẫn tồn tại đến
ngày nay thể hiện ở tâm lý chờ đợi, “xin - cho", ít
sáng kiến đột phá trong hoạt động xây dựng thể
chế và pháp luật. Ví dụ, các hoạt động xây dựng
pháp luật thường được lên kế hoạch bằng các
chương trình làm luật cụ thể của Quốc hội. Do đó,
rất ít khi các chủ thể lập pháp chủ động xây dựng,
đệ trình được những văn bản pháp luật ngồi
chương trình đó cho các cơ quan lập pháp ■

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
'Viện Ngơn ngữ học. Từ điển tiếng Việt. Nxb. Đà Nẩng, 2002, tr. 1.100.

-Hồng Thị Kim Quế - Ngơ Huy Cương (đồng chủ biên) (2011), Văn hóa pháp luật - Những vấn đề lý luận cơ
bản và ứng dụng chuyên ngành, Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội. tr. 23.
?Lê Minh Tâm. vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Luật học, số 5 (1998). tr.23.
4Hồng Thị Kim Quế - Ngơ Huy Cương (đồng chủ biên) (2011), Văn hóa pháp luật - Những vẩn đề lý luận cơ
bán và ứng dụng chuyên ngành. Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội. tr. 23.
5Phạm Duy Nghía, Góp phần tìm hiểu văn hóa pháp luật. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế
- Luật 24 (2008) tr.l.


6Friedman, L "Law and Society"’. 1977, Prentice-Hall. tr. 76.
7Viện Ngôn ngữ học. Từ điển tiếng Việt. Nxb. Đà Nấng, 2002, tr. 386.
^UNESCO cho ràng: "Văn hóa phan ánh và thế hiện một cách tổng quát sổng dộng mọi mặt cửa cuộc sống (của
mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng rào thế
kí. nó đă cấu thành nên một hệ thống các giá trị. truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mù dựa trên đó từng dân tộc
tự khẳng định bân sắc riêng của mình", (úy ban Quốc gia về thập kỉ quốc tế phát triển văn hóa: Thập kỷ thế
giới phát triển văn hóa. H.. Bộ Văn hóa Thơng tin. 1992. tr.23)

9BỘ luật Hình sự năm 2015.
"'Điều 60. Luật Bảo hiểm xã hội 2014.

11 />12 />
48

Số27-Tháng 11/2020


LUẬT

TÀI LIỆU THAM KHÂO:
1. Nguyễn Minh Đoan (2013), Pháp luật với lối sống theo pháp luật vồ vân hóa giao tiếp, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.

2. Học viện Hầnh chính quốc gia, Đề tài khoa học câp nhà nước “Văn hóa cơng vụ ở Việt Nam hiện nay" (2015),
mã số KX03.13/11-15.
3. Trần Hồng, Trần Việt Hoa (2005), Vân hóa ứng xử nơi cơng sở, NXB. Văn hóa thơng tin, Hà nội.

4. Phạm Duy Nghĩa. 2008.“Góp phần tìm hiểu văn hóa pháp luật". Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội,
Kinh tế - Luật, 24, 1-8.

5. Hoàng Thị Kim Quế - Ngô Huy Cương (đồng chủ biên) (2011), Văn hóa pháp luật - Những vấn đề lý luận cơ
bản và ứng dụng chuyên ngành, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
6. Bùi Ngọc Sơn (2004), Xây dựng Nhà nước pháp luật trong bối canh văn hóa Việt Nam, NxbTư pháp, tr. 10,
Hà Nội.
Ngày nhận bài: 12/10/2020
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 22/10/2020
Ngày chấp nhận đăng bài: 2/11/2020

^.cẤỒSttháno
2. ThS. NGUYỀN ĐÌNH SƠN
Viện Nhà nước và Pháp luật

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội việt Nam

THE ROLE OF LEGAL CULTURE

IN THE LEGISLATIVE ACTIVITIES IN VIETNAM
• Master. CAO VIET THANG

• Master. NGUYEN DINH SON
Institute of State and Law

Vietnam Academy of Social Sciences
ABSTRACT:
In general, culture is understood as the accumulation of material and spiritual values. The
legislative and other social activities stem from legal cultural values and other cultural forms
which aim to ensure the effectiveness of legislative activities. This paper studies the role of legal
culture in the legi dative activities in Vietnam.
Keywords: Legal culture, legislative activities, laws of Vietnam.


So 27 - Tháng 11/2020

49



×