Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tiểu luận xã hội hóa (xã hội học đại cương)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.22 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
---0-0---

BÀI TẬP NHÓM
HỌC PHẦN: XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG

ĐỀ TÀI: XÃ HỘI HĨA

Giảng viên: TS. Mai Linh
Nhóm thực hiện: Nhóm 06

Hà Nội, 2022.


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG
I. Bản chất con người

2

II. Khái niệm xã hội hóa

7



2.1. Căn cứ vào vai trị xã hội trong q trình xã hội hóa

7

2.2. Căn cứ vào tính chủ động của cá nhân trong quá trình xã hội hóa

8

2.3. Dung hịa cả hai yếu tố cả nhân và xã hội trong q trình xã hội hóa

8

III. Q trình xã hội hóa

9

3.1. Phân đoạn của George Herbert Mead (nhà xã hội học người Mỹ)

10

3.2. Phân đoạn của G.Andreeva (nhà xã hội người Nga)

11

3.3. Phân đoạn của Eric Erickson

13

3.4. Phân đoạn của Sigmund Freud


14

3.5. Phân đoạn quá trình xã hội hố theo quan điểm phương Đơng

15

IV. Mục đích xã hội hóa

17

V. Mơi trường xã hội hóa

18

KẾT LUẬN
DANH MỤC THAM KHẢO

23


MỞ ĐẦU
Thuật ngữ xã hội hóa trong khoa học xã hội nói chung, xã hội học nói
riêng khơng đồng nhất với khái niệm xã hội hoá đang được sử dụng phổ biến ở
Việt Nam hiện nay như xã hội hoá các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, hay thể
thao v.v. (vốn được xem là sự huy động các nguồn lực, sự tham gia của các tầng
lớp xã hội trong các lĩnh vực hoạt động trên).
Những ảnh hưởng về mặt xã hội cũng như gen sinh học cùng lúc ảnh
hưởng đến hành vi của con người. Tầm quan trọng của mỗi yếu tố khác nhau,
tùy thuộc vào quan niệm của các nhà nghiên cứu. Các nhà sinh học xã hội tìm

kiếm sự giải thích các hành vi xã hội như kết quả của sự tiến hoá. Họ cho rằng
các hành vi như bệnh đồng tính, tính tình ln cáu gắt, mang bản chất sinh học,
trong khi đó, các nhà xã hội học nói chung cho rằng phần lớn những hành vi của
con người chịu ảnh hưởng của xã hội, và là kết quả của q trình xã hội hố.
Xã hội hố là một q trình thơng qua đó con người hình thành nên tính
cách của mình, học được cách ứng xử trong một xã hội hay một nhóm. Nói cách
khác, chính là q trình con người sinh vật học hỏi để trở thành con người xã
hội. Như vậy, xã hội hoá bắt đầu từ khi con người ta sinh ra và chỉ kết thúc khi
con người khơng cịn tồn tại.
Nhờ q trình xã hội hố, rất hiếm khi chúng ta phải giải đáp ý nghĩa của
các hành vi trong những tiếp xúc xã hội thông thường - đối với chúng ta, hầu hết
mọi hành động dường như hoàn toàn dễ hiểu vào thời điểm chúng xảy ra – bởi
vì chúng ta đã học được các quy luật mà người khác cũng đang phải tuân thủ.
Nói cách khác, chúng ta có thể dự đốn cái gì đang xảy ra trong phần lớn các
trường hợp do ý thức rằng những quy luật sẽ phải tn theo. Ví dụ, chúng ta
ln quen với việc bác sĩ trong bệnh viện phải mặc áo blouse trắng, cảnh sát
phải mặc quân phục, và nếu điều đó khơng xảy ra sẽ khiến chúng ta rất ngạc
nhiên. Bên cạnh đó, chúng ta trơng đợi mọi cá nhân trong các trường hợp cụ thể
phải thực hiện đúng vai trị của mình.

1


NỘI DUNG
I. Bản chất con người.
Bản chất con người mạnh hơn bất kỳ cá nhân nào, bất kỳ thể chế hoặc
phát minh kỹ thuật nào. Rốt cuộc nó định hình thứ chúng ta tạo nên để phản ánh
chính nó và những cội nguồn nguyên sơ của nó. Nó di chuyển chúng ta như
những con chốt.1
Nói về bản chất con người là một đặc điểm chung của diễn ngôn đạo đức

và chính trị giữa những người trên đường phố và giữa các nhà triết học, nhà
khoa học chính trị và nhà xã hội học. Điều này phần lớn là do giả định phổ biến
rằng các tun bố mang tính mơ tả hoặc giải thích thực sự sử dụng khái niệm
bản chất con người có, hoặc sẽ có, ý nghĩa chuẩn tắc đáng kể. Một số người nghĩ
rằng bản chất con người loại trừ khả năng tồn tại một số hình thức tổ chức xã
hội - ví dụ, nó loại trừ bất kỳ xã hội bình đẳng nào. Những người khác khẳng
định mạnh mẽ hơn rằng một lý thuyết đạo đức chuẩn tắc thực sự phải được xây
dựng trên những hiểu biết trước đó về bản chất con người. Vẫn cịn những người
khác tin rằng có những cấm đốn đạo đức cụ thể liên quan đến việc thay đổi
hoặc can thiệp vào tập hợp các đặc tính tạo nên bản chất con người. Cuối cùng,
Cùng với các cách sử dụng quy chuẩn khác nhau và thường xuyên mâu
thuẫn như vậy của cụm từ “bản chất con người”, có những bất đồng nghiêm
trọng liên quan đến nội dung và ý nghĩa giải thích của khái niệm - điều đáng chú
ý nhất là liệu cụm từ “bản chất con người” có ám chỉ bất cứ điều gì hay khơng.
Một số lý do được đưa ra để nói rằng khơng có bản chất con người là nhân học,
dựa trên quan điểm về mối quan hệ giữa các đặc điểm tự nhiên và văn hóa của
đời sống con người. Các lý do khác được đưa ra là về mặt sinh học, xuất phát từ
đặc tính của loài người, giống như các loài khác, là sản phẩm lịch sử cơ bản của
q trình tiến hóa. Liệu những lý do này có biện minh cho tuyên bố rằng không

1

Robert Greene, Những quy luật của bản chất con người, Nxb Trẻ, 2020, Tr.23

2


có bản chất con người hay khơng, ít nhất một phần phụ thuộc vào điều chính xác
mà biểu thức được cho là đang chọn ra.2
Vậy bản chất con người trong từng thời kỳ đã diễn ra như thế nào?

* Trong lịch sử tư tưởng có rất nhiều cách tiếp cận về vấn đề con người:
Theo quan điểm duy tâm: con người được giải thích từ sự sáng tạo và chi
phối của thánh thần và từ ý thức trừu tượng. Thể xác con người là vật chất và
linh hồn thật sự là ý thức của con người. Mỗi con người, đều có 2 phần là thể
xác và linh hồn. Linh hồn sẽ quyết định thể xác, thể xác chỉ là cái áo không hơn
không kém, chỉ khác rằng nếu cái áo bình thường thì con người có thể thay ra
mặc lại, cịn cái áo cao cấp này thì khơng thay đổi cho đến cuối đời. Như vậy, so
với linh hồn, thể xác rất thấp bé, không giá trị. Thể xác chỉ tồn tại trong một
khoảng thời gian, nhưng linh hồn sẽ tồn tại vĩnh cửu. Theo René Descartes
(1596-1650) “tôi tư duy là tôi tồn tại”. Sự tồn tại của con người thực chất là sự
tồn tại linh hồn chứ không phải tồn tại về thể xác. Việc giải thích con người theo
quan điểm này khơng đem lại ý nghĩa tích cực trong cuộc sống. (Trần Thái Đỉnh
2005).
Theo quan điểm duy vật: từ thời Aristote đến các nhà duy vật Pháp thế kỷ
XVIII đều cho rằng: con người là một sinh vật – xã hội “sinh ra đã có tinh xã
hội”. Quan điểm này cho rằng, bản chất con người chỉ ở mặt tự nhiên của nó.
Ngay cả G.V. Hegel cho rằng, là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, Ludwig
Andreas Feuerbach (1804-1872) cũng chỉ mới dừng lại ở chủ nghĩa nhân bản tự
nhiên. Ông coi trọng con người, cái sinh lý quy định cái tâm lý, cái tự nhiên sinh học quy định cái xã hội, nhu cầu vật chất quy định hành động xã hội, bởi vì
theo nhận thức của ông, Con người chỉ là một cá nhân trừu tượng, một sinh vật
thuần túy về mặt sinh học.
Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước Karl Marx, dù là
đúng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đều
2

Roughley, Neil, "Human Nature", The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Spring 2021 Edition), Edward N.
Zalta

3



khơng phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung các quan niệm trên đều
xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là tuyệt đối hóa mặt tinh thân,
hoặc là tuyệt đối hóa mặt thể xác của con người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên –
sinh học mà khơng thấy mặt xã hội trong đời sống con người.
Trong “Luận cương về Feuerbach”: xuất phát từ hoạt động thực tiễn của
con người, K.Marx chỉ ra hạn chế của L.A. Feuerbach trong việc xem xét con
người như là một cơ thể sinh vật có ý thức và tình cảm, như tình u, tình bạn,
khơng thấy mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con người. K.Marx vạch rõ:
“Trong tỉnh hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối
quan hệ xã hội”3.
* Nhiều nhà xã hội học cũng có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất
con người:
Quan niệm của các nhà xã hội học theo thuyết sinh học hóa: cũng cho
rằng yếu tố sinh học quyết định sự hình thành hành vi, tính cách của con người.
Tính di truyền ảnh hưởng lớn tới hành vi con người. Họ tin ở sự tồn tại của cái
gọi là bản năng con người. Họ cho rằng, sự tổng hòa của những tổ chất di truyền
hay những khuynh hướng di truyền xác định hành vi của con người cụ thể. Quan
điểm này không thấy được khả năng của con người sử dụng hành vi nhất định,
tạo nên thể chế xã hội, điều hoà việc sử dụng hoặc vượt qua những nhân tố sinh
học - đại diện cho quan niệm này là Sigmund Freud. Freud cho rằng:con người
như là cá thể sinh vật đối lập với xã hội và xem sức mạnh của con người là sức
mạnh của khả năng vơ thức, trong đó đam mê tình dục giữ vai trò chủ đạo
(Freud 2000).
Quan niệm của các nhà xã hội học theo thuyết quyết định luận xã hội:
Quan niệm này cho rằng này cho rằng yếu tố xã hội có tính quyết định tới q
trình xã hội hóa của từng cá nhân, nhân cách được hình thành trên cơ sở đa số
những sự tác động của con người với thế giới xung quanh. Nó là sản phẩm của
xã hội với con người - đại biểu: Charles Horton Cooley, George Herbert Mead.
3


Marx-Engel, 1995,Tập 3

4


Quan niệm của các nhà xã hội học theo thuyết nhị nguyên:
Bên cạnh hai quan niệm trên, nhiều nhà xã hội học đã nhìn nhận con
người như một chính thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và thặt xã hội
của nó. Theo họ, khái niệm con người khơng chỉ bao hàm một thực thể vật chất,
cảm quan hữu hình mà cịn bao gồm khía cạnh tâm linh khác với thể chất nhưng
lại tồn tại trên cơ sở thể chất ấy.
Theo Tsunesaburo Makiguchi: “Khái niệm con người không chỉ bao hàm
một thể vật chất, cam quan, hữu tình mà cịn bao gồm một khía cạnh tâm linh
khác với thể chất, nhưng lại tồn tại trên cơ sở thể chất ấy”4
Nếu như trong định nghĩa của Makiguchi lấy chỉnh thể sinh học - xã hội
làm điểm xuất phát cho khái niệm con người, thì trong định nghĩa của Fichter,
điểm xuất phát lại nặng về những gì con người khác với động vật, vượt lên động
vật.
Theo J.G.Fichter: “Con người khác với lồi vật ở chỗ, có khả năng suy tư,
trừu tượng, có thể quyết định và lựa chọn. Con người là con vật tự điều khiển
lấy mình. Con người ta có thể làm những dự án, trị liệu và tính tốn cho tương
lai, suy nghĩ về chính những hành động và phản ứng của mình, chịu trách nhiệm
về hành vi của mình và có khả năng phát triển ý thức trách nhiệm đối với người
khác5
Con người chỉ có thể xuất hiện trên cơ sở những quy luật tiến hoá hữu cơ
và đồng thời với quy luật xã hội, vận động sinh học gắn liền với vận động xã hội
trong chỉnh thể người. Đối với quá trình phát sinh, phát triển và hồn thiện ở
một cá thể thì những yếu tố sinh học và những yếu tố xã hội tác động không
giống nhau ở từng thời kỳ trưởng thành. “Yếu tố sinh học và yếu tố xã hội

không phải là song song tồn tại trong con người mà lâm môi giới cho nhau,
thâm nhập vào nhau và in dấu lên toàn bộ hoạt động sống của con người”.

4

Makiguchi 2002:25

5

Joseph.H.Fichter, Trần Văn Đĩnh dịch 1974

5


Như vậy các nhà xã hội học thừa nhận mặt sinh học của con người, nhưng
chủ yếu vẫn tập trung tìm hiểu khía cạnh, mang tính xã hội của con người, và
khác với các nhà khoa học khác, các nhà xã hội học xem xét con người trong
môi tương tác giữa con người với con người, giữa con người với các nhóm xã
hội và xã hội nói chung. Chính vì vậy mà Fichter cho rằng: “con người được gọi
là con người xã hội theo nghĩa một con người vừa có khuynh hướng kết hợp với
người khác; mà cũng vừa có nhu cầu tương quan với người khác.”6
* Quan niệm về bản chất con người trong Nho giáo Trung Quốc cổ đại:
Với Khổng Tử ông chưa thực sự đi sâu vào nghiên cứu bản chất con
người. Tuy nhiên, khi bàn về bản chất con người, Khổng Tử đã cho rằng, bản
tính con người là thiện và nó gần giống nhau ở tất cả mọi người. Ơng nói: ‘ Tính
tương cận dã, tập tương viễn giả”7. Nghĩa là con người khi mới sinh ra đều có
cái tính trời phú cho là gần giống nhau, nhưng do quá trình tiếp xúc học tập mà
làm cho họ khác nhau, kẻ có trí, người ngu; phẩm chất của con người là chất
phác, chân thực và đấy là điều kiện thuận lợi để trau dồi đức nhân và tất cả các
đức khác cũng từ đức nhân mà ra. Bản tính con người thiện nhưng vì con người

quen thói đời, mê vật dục nên mới thấy điều nhân xa mình. Vì vậy, khi con
người đã có nhân thì phải ln giữ lấy điều nhân thì phải ln giữ lấy điều nhân,
đừng bao giờ rời xa nó, dù chỉ trong một khoảnh khắc thời gian.8
Khi bàn về bản chất con người, Mạnh Tử cho rằng, bản chất con người là
thiện và tính thiện của con người được thể hiện qua bốn đức lớn: Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí. Bốn đức lớn đó bắt nguồn từ tứ đoan là: Lịng trắc ẩn (biết thương
xót), lịng từ nhượng (biết cung kính) và lịng thị phi (biết phân biệt phải trái).
Khơng có lịng trắc ẩn thì khơng phải là người, khơng có lịng từ nhượng khơng
phải là người, khơng có lịng thị phi không phải là người. Trắc ẩn là đầu mối của
nhân, tu ố là đầu mối của nghĩa, từ nhượng là đầu mối của lễ và thị phi là đầu
6

Giáo trình xã hội học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016.

7

Khổng Tử, Luận ngữ (Đồn Trung Cịn dịch). Trí đức tịng thơ xuất bản, Sài Gịn, 1950, tr.269

Nguyễn Văn Thọ, Vấn đề bản chất con người trong Nho giáo Trung Quốc cổ đại, Triết học số 1 (164), Tháng 1,
2005
8

6


mối của trí. Con người có bốn cái đầu mối ấy như thân thể có sẵn tứ chi. Đây là
những đoạn mà con người khi sinh ra đã có.9
II. Khái niệm xã hội hóa.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về xã hội hóa, có thể chia thành ba
nhóm chính như sau:

2.1. Căn cứ vào vai trò xã hội trong q trình xã hội hóa.
Theo Neil Smelser (nhà xã hội học Mỹ): “Xã hội hố là q trình mà
trong đó cá nhân học cách thức hoạt động tương ứng với vai trị của minh” 10.
Theo Macionis: “Xã hội hóa là một q trình qua đó kinh nghiệm xã hội
cung cấp cho cả nhân những phẩm chất và năng lực mà chúng ta kết hợp với
tình trạng con người hồn tồn đối với xã hội nói chung. Xã hội hóa là phương
tiện dạy văn hóa cho mỗi thế hệ” 11.
Theo Fichter: “Xã hội hóa là một diễn tiến ảnh hưởng tương hỗ giữa một
người và một người khác, kết quả là sự chấp nhận những khuôn mẫu tác phong
xã hội và thích nghi với những khn mẫu đó”12.
Theo T. Bilton: “Thơng qua việc cùng học các luật lệ nhu nhau vốn cấu
tạo nên nền văn hóa của chúng ta, chúng ta đều đồng ý với nhau về lối ứng xử
và lối suy nghĩ được cho là thích hợp; sự đồng thuận này đảm bảo cho chúng ta
có thể sống được với nhau một cách trật tự”. 13
Từ các định nghĩa trên cho ta thấy, xã hội sẽ mặc cho cá nhân những bộ
áo khuôn mẫu, tác phong giá trị, chuẩn mực phù hợp từng nơi, từng thời điểm
của cuộc sống mà cá nhân buộc phải chấp nhận mà khơng có quyền lựa chọn.
Tuy nhiên, các định nghĩa này chưa đề cập đến sự tái tạo vai trò, chuẩn mực của
các cá nhân. Cuộc sống của con người là quá trình phải thực hiện nhiều vai trò
từ lúc sinh ra cho đến lúc chết, cá nhân ln phải học để đóng vai trị. Trong
9

Trần Trọng Kim. Nho giáo, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2001, Tr.230 - 231.

10

Charles Horton Cooley 1922
Macionis 2004
12
Joseph.H.Fichter, Trần Văn Đĩnh dịch 1974: 2

13
Bilton và cộng sự 1993
11

7


cùng một thời điểm, các cá nhân có thể thực hiện nhiều vai trị cùng lúc các vai
trị sẽ khơng thể thực hiện được nếu cá nhân khơng có kiến thức về nó.
2.2. Căn cứ vào tính chủ động của cá nhân trong q trình xã hội hóa.
Theo Diana Kendall (2004), xã hội hóa là "q trình tưởng tác suốt đời
của một cá nhân với xã hội, thơng qua đó, cả nhân tạo được ban sắc riêng của
mình và thu được các kỹ năng về xã hội, về hoạt động thể chất và tinh thần cần
cho sự tồn tại trong xã hội” (Kendall 2004: 77).
Xã hội hóa là q trình thích ứng và cọ sát với các giá trị, chuẩn mực và
hình mẫu hành vi xã hội mà trong quá trình đó, một thanh viên xã hội tiếp nhận
và duy trì khả năng hoạt động xã hội (G.Endruneit và G.Trommsdorff
2002:571).
2.3. Dung hòa cả hai yếu tố cả nhân và xã hội trong q trình xã hội hóa.
Theo Andreeva (nhà xã hội học Nga): “Xã hội hóa là q trình hai mặt –
một mặt cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thảm nhập vào môi
trường xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội, mặt khác, cá nhân tài sản xuất
một cách chủ động hệ thống các mối quan hệ xã hội thông qua chỉnh việc họ
tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào mối quan hệ xã hội” (Phạm Tất
Dong & cộng sự 1999: 258 - 259)
Các nhà xã hội học đã nhất trị và cho rằng: “Xã hội hóa là q trình trong
đó cá nhân học cách trở thành thành viên xã hội thông qua việc học tập, lĩnh hội
các giá trị, chuẩn mực xã hội và đóng các vai trị xã hội” (Phạm Tất Dong &
cộng sự 1999: 259).
Như vậy, cá nhân trong q trình xã hội hóa khơng đơn thuần thu nhận

kinh nghiệm xã hội mà cịn chuyển nó thành những giá trị, tâm thể, xu hướng
của cá nhân để "tái sản xuất” chung trong xã hội. Mặt thứ nhất của q trình xã
hội hóa là sự thu nhận kinh nghiệm xã hội thể hiện sự tác động của môi trường
xã hội tới cá nhân. Mặt thứ hai của quá trình nay thế hiện sự tác động của con

8


người trở lại môi trường xã hội thông qua hoạt động của mình (Phạm Tất Dong
& cộng sự 1999. 259).
Trong quá trình tương tác xã hội, mỗi cá nhân đều có thể học hỏi những
điểm mạnh của đối tác, cũng như trong lịch sử đã có những cá nhân, nhân cách
lớn tạo ra hàng loạt các giá trị, chuẩn mực... phổ biến không chỉ giới hạn trong
phạm vi một quốc gia mà có ảnh hưởng trên tồn thế giới. Đó chính là những
nhà chính trị, nhà giao dục, nhà khoa học, nhà văn hóa nổi tiếng...
Vậy, Xã hội hóa là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học và
được định nghĩa cụ thể chính là một quá trình tương tác xã hội kéo dài suốt đời
qua đó các chủ thể là những cá nhân phát triển khả năng con người và học hỏi
các mẫu văn hóa của mình. Hay chúng ta cũng có thể một cách khác; đó chính là
q trình mà con người liên tục tiếp thu văn hóa vào nhân cách của mình để con
người sống trong xã hội như là một thành viên cụ thể.
III. Q trình xã hội hóa.
Q trình xã hội hóa bắt đầu từ khi nào? Nhìn chung, các nhà khoa học
khi nghiên cứu về q trình xã hội hóa đều cho rằng nó bắt đầu từ khi con người
được sinh ra. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng xã hội hóa bắt đầu khi thai nhi
có thể phản ứng với tác động từ bên ngồi. Đã có những nghiên cứu chứng minh
rằng khi thai nhi được 6-7 tháng tuổi có thể tiếp nhận những tác động từ bên
ngồi như ánh sáng, âm thanh... và có thể tiếp nhận giáo dục từ độ tuổi này.14
Q trình xã hội hóa kết thúc khi nào? Đây cũng là vấn đề chưa được
thống nhất. Có tác giả cho rằng xã hội hóa là quá trình kéo dài hoặc tác giả khác

cho rằng xã hội hóa kết thúc khi cá nhân trưởng thành về mặt sinh lý hoặc q
trình xã hội hóa tiếp tục sau khi cá nhân đã chết. Tuy vậy, quan điểm phổ biến
của các nhà xã hội học khi xem xét q trình xã hội hóa cho rằng đó là một quá
trình kéo dài.

14

Phạm Tất Dong & cộng sự 1999: 263

9


Q trình xã hội hóa diễn ra như thế nào? Có rất nhiều quan điểm khác
nhau về q trình này, có nhà xã hội chia q trình xã hội hóa thành hai giai
đoạn: xã hội hóa sơ cấp và xã hội hóa thứ cấp, hoặc một số khác lại phân chia
theo lớp tuổi, các giai đoạn phát triển: sơ sinh, thơ ấu, thanh niên, trưởng thành,
già cả... mặc dù có nhiều cách phân chia khác nhau, nhưng nhìn chung đều tập
trung vào hai dạng thức chủ yếu là xã hội hóa trẻ em và xã hội hóa người lớn.
Như vậy, q trình xã hội hóa sẽ được chia làm nhiều chiều cạnh. Điều đó
được thể hiện trên hai phương diện sau:
Thứ nhất, những nét khác biệt cơ bản giữa trẻ em và người lớn trong q
trình xã hội hóa:15
Người lớn thường chủ động khi tiếp cận các giá trị, chuẩn mực, nghĩa là
họ có khả năng đánh giá, phán xét trong khi đó trẻ em lại thụ động.
Người lớn có khả năng thay đổi các giá trị, chuẩn mực của mình trong
tiến trình xã hội hóa, cịn trẻ em sẽ tạo lập và thu nhận những giá trị, chuẩn mực
ấy.
Quá trình xã hội hóa ở người lớn nhằm tạo lập những kỹ năng như của
luật sư, bác sĩ, nhà khoa học... còn trẻ em hướng đến các động cơ hành động,
nghĩa là được dạy dỗ để trở thành người lịch sự, người biết tuân theo các nguyên

tắc xã hội.
Thứ hai, các phân đoạn của q trình xã hội hóa:
Xung quanh vấn đề phân đoạn của q trình xã hội hóa vẫn còn gây nhiều
tranh cãi. Sau đây là một số cách phân đoạn tiêu biểu:
3.1. Phân đoạn của George Herbert Mead (nhà xã hội học người Mỹ).
Mead cho rằng: quá trình hình thành nhân cách bao gồm ba giai đoạn
khác nhau: sự bắt chước những mẫu hành vi của người lớn, giai đoạn trị chơi

15

Xã hội hóa cá nhân - />
10


khi em tiếp nhận những hành vi của mọi người, như thực hiện đóng vai trị chơi
tập thể khi trẻ em hiểu được sự mong chờ của tập thể nhóm người đối chứng16
Giai đoạn đầu, giai đoạn bắt chước: Ở giai đoạn này đứa trẻ sẽ sao chụp
những gì nó thấy, nó nghe được từ những người xung quanh và nó sẽ làm hoặc
nói lại tương tự như vậy. Tuy nhiên, chúng chưa thể hiểu được ý nghĩa của
những lời nói và việc làm đó.
Giai đoạn thứ hai, giai đoạn đóng vai: Giai đoạn này đứa trẻ đã hình dung
và hiểu được phần nào những hành vi và sự tương ứng của nó với các vai trị xã
hội nhất định, chủ yếu là những vai trò nam trong phạm vi quan sát của trẻ như
ở gia đình, trường học, nhóm trẻ... Nếu quan sát lúc trẻ chơi với búp bê ta sẽ
thấy có những giọng nói hoặc cử chỉ của cha mẹ hoặc người thân khác được bé
diễn lại và đồng thời diễn ra quá trình đổi vai.
Giai đoạn thứ ba, giai đoạn trò chơi: Đây là giai đoạn mà tầm hiểu biết
của trẻ đã rộng hơn và vì vậy trẻ cũng hình dung được sự địi hỏi của xã hội ở
mình là khác trước, trẻ khơng chỉ biết cho riêng mình hoặc một cá nhân nào đó
mà phải cịn phải hướng tới phạm vi rộng lớn hơn hay nói cách khác là của cả xã

hội.
3.2. Phân đoạn của G.Andreeva (nhà xã hội người Nga).
Bà đưa ra cách phân đoạn dựa trên các hoạt động chủ đạo của cá nhân
trong suốt cuộc đời mình – Theo bà, quá trình xã hội hóa bao gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu là giai đoạn trước lao động: Giai đoạn này được chia làm
hai giai đoạn nhỏ: Giai đoạn trẻ thơ và giai đoạn học hành:17
Giai đoạn trẻ thơ: Là giai đoạn mà đứa trẻ tiếp thu một cách thụ động và
máy móc các hành vi và là giai đoạn vui chơi ở nhà hoặc vườn trẻ, nhà mẫu
giáo. Giai đoạn này từ lúc trẻ sinh ra đến lúc đi học.

16

Mead 1934

Giáo trình xã hội học – trường đại học kinh tế quốc dân – khoa kinh tế và quản lý nguồn nhân lực – Chủ biên
ThS. Lương Văn Úc (tr.339-340)
17

11


Giai đoạn học hành: Là giai đoạn đứa trẻ tiếp nhận trí thức và kỹ năng lao
động. Vì vậy giai đoạn này đứa trẻ đã có sự tiếp nhận các hành vi một cách có
mục đích, có ý thức. Đứa trẻ càng lớn lên thì càng bộc lộ hành vi tiếp nhận có
chọn lọc để tự hình thành cho mình năng lực hành vi riêng.
Giai đoạn lao động: Bắt đầu từ khi cá nhân tham gia lao động và kết thúc
khi không tham gia lao động (về hưu). Giai đoạn này, cá nhân vừa tiếp thu kinh
nghiệm xã hội, vừa tích lũy kinh nghiệm cá nhân, vừa bộc lộ năng lực hành vi
trong các hoạt động hàng ngày. Giai đoạn này được đánh giá là vô cùng quan
trọng trong quá trình xã hội hóa vì một số lý do sau:

Một là, Con người tiếp thu, củng cố, phát triển các tri thức, kinh nghiệm
xã hội để nâng cao năng lực hành vi cá nhân.
Hai là, Lao động đã giúp cho con người hiểu rõ được cái tôi và cái chúng
ta để sống hòa đồng vào cộng đồng xã hội.
Ba là, Lao động là quá trình thể hiện năng lực hành vi cá nhân có ích cho
xã hội và tham gia đóng góp, xây dựng xã hội phát triển.
Bốn là, Lao động thể hiện rõ vai trò của cá nhân trong xã hội, là cơ sở để
đánh giá và củng cố năng lực hành vi cá nhân.
Giai đoạn sau lao động: Là giai đoạn mà cá nhân kết thúc quá trình lao
động chính thức, nghĩa là về hưu. Hiện nay có hai quan điểm trái ngược nhau về
giai đoạn này:18
Ý kiến thứ nhất cho rằng, xã hội hóa hồn tồn khơng có ở giai đoạn này,
như vậy theo quan điểm này thì chỉ có hai giai đoạn đầu. Đây là một hướng nhìn
tiêu cực, vì đã khơng cơng nhận vai trị của người già trong cuộc sống khi kinh
nghiệm xã hội của họ là cực kỳ quan trọng mà chúng ta có thể tận dụng (nhiều
ngành khoa học nghiên cứu về người già như lão khoa, người cao tuổi trong xã
hội học).
18

Giáo trình xã hội học – Trường đại học KHXH&NV (in lần thứ 4) (tr.268)

12


Ý kiến thứ hai nhìn nhận vai trị quan trọng của xã hội hóa ở giai đoạn
này. Người già có khả năng tái tạo các kinh nghiệm xã hội, họ vẫn tiếp tục học
hỏi, trau dồi để thích ứng với xã hội ngày càng phát triển và kinh nghiệm sống
của họ là thứ mà thế hệ trẻ khơng thể có được, vì vậy việc họ truyền đạt những
giá trị, kinh nghiệm cho thế hệ con cháu là điều không cần bàn cãi.
3.3. Phân đoạn của Eric Erickson:19

Theo Eric Erickson, quá trình xã hội hóa tương ứng với 8 giai đoạn phát
triển tâm lý. Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi một dạng khủng hoảng tâm lý.
Giai đoạn 1 (từ 0-1 tuổi): Niềm tin và nghi ngờ: Trong giai đoạn này, trẻ
có quan hệ xã hội chủ yếu với bố mẹ đặc biệt là người mẹ và người thân trong
gia đình. Sự quan tâm, chăm sóc của bố mẹ tạo niềm tin, cảm giác được thỏa
mãn. Nếu được giải quyết thỏa đáng vấn đề này, bé có ý thức về sự an toàn,
ngược lại, bé sẽ nảy sinh cảm giác mất lịng tin, mất an tồn, lo lắng và sợ hãi
Giai đoạn 2 (trên 1 tuổi- 3 tuổi): Tự chủ và nghi ngờ, xấu hổ: Em bé bắt
đầu khám phá ra những hoàn cảnh xung quanh xem chúng liên hệ với nhau như
thế nào. Những hoạt động này giúp các em có tính tự chủ, trở thành một con
người có năng lực và đáng tôn trọng hoặc trở thành con người liều lĩnh hoặc
mặc cảm tự ti.
Giai đoạn 3 (từ 3-6 tuổi): Khả năng khởi sự công việc và mặc cảm thiếu
khả năng: Bé bắt đầu quan sát người khác để học hỏi và bắt chước, bắt đầu tập
đương đầu với những khó khăn do ngoại cảnh, tập tranh đấu và thi đua với bạn
bè. Nếu đáp ứng được những đòi hỏi này một cách thỏa đáng, các em có sự tự
tin, ngược lại nếu cấm đoán, chê bai hoặc để mặc khi các em thất bại thì các em
có cảm giác thiếu tự trọng.
Giai đoạn 4 (từ 6-12 tuổi): Chăm chỉ và kém cỏi: Ở tuổi này, các em bắt
đầu một mình bước vào các cuộc giao tiếp và ganh đua với bạn bè tại trường
học. Quan hệ với bạn bè chiếm tỷ trọng lớn. Nếu thành công, các em có nhiều
19

Giáo trình xã hội học đại cương - Trường đại học KHXH&NV – khoa xã hội học (Tr.324-330)

13


nghị lực và kinh nghiệm đương đầu với những khó khăn và khủng hoảng sau
này. Nếu không phát triển trong giai đoạn này, các em dễ thấy mình thua kém

bạn bè, co mình khi gặp khó khăn.
Giai đoạn 5 (vị thành niên): Thể hiện bản thân và sự lẫn lộn về vai trò.
Giai đoạn trẻ chuyển từ trẻ em sang người lớn. Trẻ vị thành niên phải đối mặt
với nhiệm vụ để trở thành người lớn, đó là xác định các vai trò xã hội, đưa ra các
quyết định các mục tiêu nghề nghiệp. Bước ngoặt trong giai đoạn này là khám
Giai đoạn 6 (mới trưởng thành): Gắn bó và cô lập. Đây là giai đoạn của
yêu thương và lao động, của học hành và nghề nghiệp. Giai đoạn này, con người
có khuynh hướng tạo mối tương quan với người khác một cách riêng tư và thân
mật hơn. Nếu không có sự u thương, con người có xu hướng cơ lập, vị kỷ, tự
say mê với chính mình.
Giai đoạn 7 (trung niên): Sáng tạo và ngưng trệ. Giai đoạn mà phần lớn
cá nhân đã có sự hồn thiện về gia đình, nghề nghiệp, quan hệ xã hội. Con người
đã tích lũy nhiều kinh nghiệm sống và kỹ năng nghề nghiệp vì vậy đây là giai
đoạn của tư duy sáng tạo. Nếu cá nhân không đạt được các yêu cầu về gia đình,
xã hội và nghề nghiệp, họ rơi vào trạng thái ngưng trệ.
Giai đoạn 8 (Cao niên): Hoàn thành và thất vọng. Giai đoạn này, con
người có thay đổi theo hướng suy giảm về sức khỏe, thu nhập và các mối quan
hệ xã hội. Nếu người già mãn nguyện với những gì họ đã đạt được ở các giai
đoạn trước thì họ chấp nhận những suy giảm trên. Ngược lại, nếu họ chưa hồn
thành nghĩa vụ với gia đình và xã hội, họ kém thích nghi với những thay đổi,
thường hối tiếc về quá khứ.
3.4. Phân đoạn của Sigmund Freud.
Các giai đoạn của q trình xã hội hố theo quan niệm của S.Freud gắn
liền với sự thay đổi về lứa tuổi, sinh lý và ca tâm lý.
Giai đoạn môi miệng (oral stage): từ khi sinh ra cho đến 1,5 tuổi. Sự thỏa
mãn được thực hiện qua ăn uống, mút, bú mẹ. Nếu đứa trẻ trong thời kỳ này

14



khơng được thoả mãn nhu cầu này, thì nó sẽ có những cảm giác tiêu cực như tự
ti, lo âu về sự an toàn vào những giai đoạn sau của cuộc đời (Nguyễn Thơ Sinh,
2014: 30).
Giai đoạn hậu môn (anal stage): từ 1,5 - 3 tuổi. Sự thỏa mãn được thực
hiện qua sự đi đại tiện, tiểu tiện. Thời kỳ này trẻ bắt đầu học cách kiểm soát cơ
thể và môi trường xung quanh qua việc hướng dẫn của cha mẹ, việc quy định vệ
sinh và các hoạt động giáo dục khác (Nguyễn Thơ Sinh 2014: 30).
Giai đoạn dương vật (phallic stage): từ 3 - 5 tuổi. Trong giai đoạn này có
3 mặt phát triển chính: hứng thú tình dục, phát triển của siêu tơi, mở rộng phạm
vi q trình bảo vệ cái tôi (Nguyễn Thơ Sinh 2014: 30).
Giai đoạn tiềm ẩn (latent stage): từ 5 tuổi trở lên đến tuổi vị thành niên.
Khi này trẻ học cách thăng hoa tình u đối với bố mẹ, nó được thể hiện bằng sự
tơn kính (Nguyễn Thơ Sinh 2014: 31).
Giai đoạn cơ quan sinh dục ngoài (genital stage): là giai đoạn tuổi thanh
niên và sang tuổi trưởng thành, khi lúc này cá nhân đã có thể nhận thức và ý
thức hành vi ở người lớn (Nguyễn Thơ Sinh 2014: 31).
3.5. Phân đoạn q trình xã hội hố theo quan điểm phương Đơng:20
Người xưa có câu “thập bát thành đinh" tức mười tám tuổi thành công dân, "tam
thập nhi lập” tức ba mươi tuổi mới tự lập trong cuộc sống.
Quan điểm cổ phương Đông dựa vào năng lực hành vi xã hội đã chia q
trình xã hội hóa thành 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn vị thành niên: Đây là giai đoạn nhân cách của đứa trẻ đang
hình thành, bắt đầu từ lúc sinh ra và đến dưới 18 tuổi. Giai đoạn này cá nhân tiếp
thu tri thức, kinh nghiệm xã hội để tạo ra nhân cách riêng cho mình. Giai đoạn
này đứa trẻ chưa tự lập được trong cuộc sống, vì vậy, nó chưa chịu trách nhiệm

Giáo trình xã hội học – trường đại học kinh tế quốc dân – khoa kinh tế và quản lý nguồn nhân lực – Chủ biên
ThS. Lương Văn Úc (tr.340-341)
20


15


xã hội đối với hành vi của mình. Do đó, vai trị của nhà trường và gia đình là rất
quan trọng trong việc định hình nhân cách cho đứa trẻ.
Giai đoạn thành niên: Đây là giai đoạn từ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi. Trong
giai đoạn này nhân cách của đứa trẻ tiếp tục được củng cố và phát triển. Cá nhân
tự chịu trách nhiệm đối với hành vi xã hội của mình. Năng lực hành vi xã hội
đang phát triển theo chiều rộng. Tức là cá nhân vẫn đang tiếp tục học tập để tiếp
thu tri thức và kinh nghiệm nhằm ngày càng mở rộng sự hiểu biết của mình và
nâng cao dần năng lực hành vi cá nhân.
Giai đoạn tự lập trong cuộc sống: Giai đoạn này bắt đầu từ 30 tuổi cho
đến lúc qua đời. Trong giai đoạn này nhân cách của con người vẫn tiếp tục được
củng cố và phát triển, năng lực hành vi xã hội đã có sự phát triển sâu sắc. Con
người có thể tự lập hoàn toàn trong suy nghĩ và hành động, trong giai đoạn này
cá nhân bộc lộ tính độc lập, tự chủ và sáng tạo là cao nhất, do đó khả năng cống
hiến cho xã hội là cao nhất.
Sự phân đoạn q trình xã hội hố theo quan niệm này giúp cho ta thấy rõ
trách nhiệm xã hội và vai trò xã hội của cá nhân trong suốt cuộc đời của họ. Về
mặt luật pháp, người ta coi giai đoạn thành niên trở đi là giai đoạn con người có
năng lực hành vi pháp luật đầy đủ. Về tổ chức, người ta cho rằng giai đoạn vị
thành niên và giai đoạn thành niên cịn hồn tồn phụ thuộc, giai đoạn tự lập cá
nhân có vai trị lãnh đạo xã hội (bậc thấp là lãnh đạo tác nghiệp, bậc cao là lãnh
đạo chiến lược)
Có thể thấy, xã hội hóa diễn ra liên tục trong suốt cuộc đời con người.
Tuy nhiên quá trình xã hội của mỗi cá nhân trong từng giai đoạn cuộc đời là
khác nhau thậm chí có thể khơng diễn ra q trình xã hội hóa.
Mỗi giai đoạn trong chu kỳ đời sống là sự thể hiện của kết cấu kinh
nghiệm xã hội, đồng thời cho thấy những gì con người đã tiếp thu được trong
quá trình xã hội hóa khơng ngừng. Tuy cịn tồn tại nhiều cách phân đoạn khác

nhau dựa trên nhiều căn cứ khác nhau nhưng các nhà xã hội học gần như thống
nhất với nhau về ba giai đoạn của quá trình xã hội hoá.
16


Một là, Giai đoạn xã hội hoá ban đầu của trẻ trong gia đình.
Hai là, Giai đoạn xã hội hố diễn ra trong nhà trường.
Ba là, Giai đoạn con người thực sự bước vào đời. Để đảm nhận vai trò
mà hai giai đoạn trước đã được chuẩn bị đầy đủ. Lúc này, cá nhân thực hiện một
lúc nhiều vai trò khác nhau trong các nhóm xã hội và trong tồn xã hội: làm
chồng, làm vợ hay trở thành cán bộ cơng chức nhà nước….Chính giai đoạn này,
con người có thể tự lập hoàn toàn trong suy nghĩ và hành động, cá nhân phát huy
khả năng sáng tạo của mình nhiều nhất, do đó khả năng cống hiến cho xã hội là
cao nhất
Ranh giới giữa các giai đoạn này không phải lúc nào cũng rõ ràng, mà chỉ
mang tính ước lệ. Vì trong thực tế, cá nhân có thể đã đi làm, đã có gia đình
nhưng vẫn tiếp tục học tập và có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ quan hay
trong quan hệ vợ chồng, họ vẫn tìm đến cha mẹ để tìm một lời khuyên. Như vậy,
quá trình xã hội hố chỉ chấm dứt khi cuộc sống của chúng ta chấm dứt mà thơi.
IV. Mục đích xã hội hóa.
Trong q trình xã hội hóa, con người học cách để trở thành thành viên
của một nhóm, một cộng đồng hoặc xã hội. Q trình này khơng chỉ giúp mọi
người làm quen với các nhóm xã hội mà nhờ đó các nhóm xã hội này có khả
năng tự duy trì theo thời gian. Ở tầm vĩ mơ, xã hội hóa đảm bảo rằng chúng ta
có một q trình phát triển mà qua đó các chuẩn mực và phong tục của xã hội
được truyền tải. Xã hội hóa dạy cho mọi người những chuẩn mực, cách ứng xử
đúng đắn đáp ứng những mong đợi của xã hội, cộng đồng hoặc một tình huống
cụ thể. Nói cách khác, nó là một hình thức kiểm sốt xã hội.21
Q trình xã hội hóa cũng giúp các cá nhân hình thành nhân cách để thích
ứng, phù hợp với các giá trị chuẩn mực xã hội. Qua đó cá nhân duy trì được khả

năng hoạt động xã hội. Cụ thể, Q trình xã hội hóa hướng tới những mục đích
cơ bản sau đây:
Cole, Nicki Lisa, Ph.D. "Hiểu về xã hội hóa trong xã hội học." ThoughtCo, ngày 16 tháng 2 năm 2021,
thinkco.com/socialization-in-sociology-4104466.
21

17


Thứ nhất: Cá nhân cần phải được dạy các kỹ năng cần thiết mà xã hội địi
phải có, để cho cá nhân đó hịa nhập vào xã hội của chính họ.
Thứ hai: Cá nhân phải có khả năng đạt một cách hữu hiệu và phát triển
các khả năng để khẳng định vị thế, đáp ứng được các vai trò mong đợi.
Thứ ba: Cá nhân cần phải thấm nhuần các giá trị xã hội và các chuẩn
mực, hấp thụ các niềm tin của xã hội.
Thứ tư: Cá nhân được phát triển ý niệm cái tơi học hỏi khơng phải để
mình biến mất trong xã hội mà nhìn thấy mình là một thực thể độc lập, có cá
tính trong mối quan hệ đa chiều với xã hội.22
V. Mơi trường xã hội hóa.
Mơi trường xã hội hóa là nơi cá nhân có thể thực hiện thuận lợi các tương
tác xã hội của mình nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội.23 Có
nhiều cách nhìn nhận, phân tích về các mơi trường xã hội hóa cá nhân theo các
nhóm xã hội, nơi cá nhân thực hiện hoạt động sống của mình:
Thứ nhất: Gia đình.
Mỗi người đều sinh ra trong một gia đình. Q trình xã hội hố của một
người từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời có ảnh hưởng quyết định tới
thái độ và hành vi khi đã lớn, cho nên gia đình, như là nhóm người đầu tiên mà
mỗi cá nhân trong mọi xã hội thường phải phụ thuộc vào, rõ ràng là một môi
trường xã hội hố đầu tiên và có tầm quan trọng chính yếu.
Để trưởng thành, mỗi người cần phải trải qua một thời gian dài ở gia đình

trước khi có thể tự sinh sống. Q trình xã hội hố rất cần thiết để mỗi cá nhân
trở thành những thành viên xã hội một cách đầy đủ, chính vì vậy, gia đình, như
một mơi trường xã hội đầu tiên là nơi cá nhân tiếp xúc và trải qua q trình xã
hội hố của mình, ở đó, mỗi người được học để biết mình là ai, mình cần trở
thành người như thế nào, và phải biết đối xử với người khác ra sao…
22

Giáo trình xã hội học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016.

23

Giáo trình xã hội học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016

18


Gia đình là một nhóm xã hội nhỏ, chính vì vậy, xã hội hoá được thực hiện
chủ yếu qua giao tiếp trực tiếp. Q trình xã hội hố của đứa trẻ được theo dõi
chặt chẽ và được điều chỉnh ngay.24
Từ khi còn nhỏ cho tới khi trưởng thành và đến tận trước khi mất đi, xã
hội hóa của gia đình diễn ra suốt cả cuộc đời con người và là một quá trình kéo
dài liên tục. Dù ở bất kì giai đoạn nào cũng có sự tham gia của gia đình vào đời
sống mỗi cá nhân và được thể hiện rất rõ. Vì vậy, nguồn gốc gia đình có ý nghĩa
quan trọng đến sự phát triển của mỗi người.
Thứ hai: Nhà trường.
Ngồi gia đình thì nhà trường cũng là tác nhân có tác động khơng nhỏ đến
q trình hình thành và phát triển của con người . Nhà trường là nơi cung cấp
cho con người những kiến thức và kỹ năng từ thấp đến cao tùy theo từng độ tuổi
và khả năng hấp thụ của trẻ. Ở mỗi vị trí và cấp bậc khác nhau trong nhà trường;
mỗi người sẽ có nhận thức về trách nhiệm; bổn phận của mình cũng như có

động lực để phát triển; hồn thiện bản thân một cách tốt nhất.25
Trong nhà trường, việc đánh giá học sinh không chỉ qua điểm tổng kết các
môn học mà còn đánh giá việc chúng chấp hành các quy định trong nhà trường
và cả cách ứng xử quan hệ với giáo viên và các bạn học.26
Vì vậy, tại trường học, q trình xã hội hóa mà học sinh được tiếp nhận
bao gồm các kỹ năng theo quy định và các kỹ năng ứng xử khác.
Thứ ba: Các nhóm xã hội.
Bên cạnh gia đình và trường học, các nhóm xã hội (đặc biệt là nhóm bạn)
cũng là mơi trường xã hội hố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành nhân
cách của mỗi cá nhân.

24

Dr Bùi Hoài Sơn, 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa

25

/>
26

Bilton và cộng sự 1993:28

19


Các mơi trường khác bên ngồi cũng bắt đầu có ảnh hưởng tới những đứa
trẻ khi lớn lên. Những đứa trẻ khác mà nó tiếp xúc, bạn bè cùng lứa tuổi, bạn
cùng chơi… có ảnh hưởng xã hội hố quan trọng. Mơi trường này được gọi là
nhóm tương đương và có lẽ là mơi trường xã hội hố đầu tiên mà bọn trẻ tiếp
xúc được những suy nghĩ và hành vi khác với những điều mà chúng học được ở

nhà. Cá nhân đặc biệt chịu ảnh hưởng của nhóm tương đương trong giai đoạn vị
thành niên, vì trong giai đoạn này, các nhóm vị thành niên tạo điều kiện cho cá
nhân chấm dứt sự phụ thuộc vào người lớn và thiết lập một vị thế xã hội bình
đẳng mà từ trước tới giờ mỗi cá nhân chưa có được.
Nhóm bạn là nơi mỗi cá nhân có thể học hỏi những hành vi mà họ có thể
khơng thể, khơng có điều kiện hay vì một lý do nào đó khơng được thực hiện ở
các mơi trường xã hội hố khác như gia đình, nhà trường hay qua các phương
tiện truyền thơng đại chúng. Sự thực cho chúng ta thấy rằng, cá nhân có thể học
hỏi nhiều từ những người bạn của mình đối với những vấn đề cụ thể, như những
vấn đề trong hôn nhân, quan hệ khác giới…
Trong suốt cuộc đời của mình, mỗi người trong chúng ta sống trong rất
nhiều nhóm xã hội khác nhau và có rất nhiều người bạn, cả thân thiết lần khơng
thân thiết, nhưng ít nhiều có ảnh hưởng đến suy nghĩ của mỗi người về xã hội.
Các nhóm đó có mục tiêu rất đa dạng, tuy nhiên, theo quan điểm xã hội học, thì
mỗi nhóm xã hội, bất kể với mục đích gì, đều phát triển một cách không chủ
định các khuôn mẫu hành vi khác nhau.27
Đây là môi trường xã hội phức tạp và chằng chịt hơn rất nhiều so với giá
đình và trường học, vậy nên, mỗi cá nhân thực hiện cùng một lúc nhiều vai trị
khác nhau.
Thứ tư: Truyền thơng đại chúng.
Với sự phát triển không ngừng của truyền thông đại chúng thì nó đã trở
thành một phần quan trọng trong xã hội. Sự phát triển của truyền thông đã đưa

27

Dr Bùi Hồi Sơn, 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa

20



nó trở thành nguồn cung cấp "kinh nghiệm" và chủ yếu cho cộng đồng nói
chung và mỗi cá nhân nói riêng.
Phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp cho một số lượng đông đảo
các thành viên xã hội những thông tin đa dạng và có tác động lớn đến suy nghĩ
cũng như hành vi của mỗi cá nhân, mang lại cho con người những kinh nghiệm
xã hội, những mẫu văn hóa mang tính tiêu chuẩn dưới cách nhìn phổ biến:
"truyền thông cung cấp cho chúng ta kinh nghiệm gián tiếp về các sự kiện và
quá trình xảy ra vượt quá kinh nghiệm xã hội của chúng ta. Chúng ta ngày càng
"biết" nhiều hơn, và được khuyến khích để làm như vậy thông qua các kinh
nghiệm trung gian ở tivi, phim ảnh, radio, báo chí, sách". Bên cạnh đó một cách
có chủ định, truyền thông đại chúng trở thành một cái chung, một cái để mọi so
sánh có thể dựa vào, qua đó tạo nên sự hiểu biết chung cho mọi người, làm cho
mối quan hệ giữa con người - con người và con người - sự vật trở nên gần gũi
với nhau hơn. Thực tế này chỉ cho chúng ta thấy rằng truyền thông đại chúng
"không đơn giản cung cấp thông tin phản ánh thế giới xã hội con người, mà
đúng ra chúng cấu trúc thế giới đó cho chúng ta, không chỉ bằng cách gia tăng
tri thức của chúng ta về thế giới mà cịn giúp chúng ta "có ý thức về nó"28
Truyền thơng đại chúng, bằng cách rút ngắn khoảng cách về thời gian và
không gian làm cho con người gần gũi với nhau, và với thế giới bên ngoài hơn.
Cá nhân học được nhiều hơn đồng nghĩa với khả năng di động xã hội của cá
nhân cao hơn, xã hội năng động hơn. Qua đó, "chúng khuyến khích những
đường hướng suy nghĩ và nhận thức nào đó và làm nản lòng những đường
hướng khác. Vậy là thực tế được xây dựng bằng cách áp đặt một khuôn khổ
chọn lọc mà có thể gạt bỏ những giải thích hoặc những hệ thống có ý nghĩa
khác" (Bilton, tr.382)
Việc tiếp thu tri thức, thông tin qua truyền thông đại chúng ngày càng trở
nên quan trọng đối với cá nhân trong q trình xã hội hố của họ vì sự phát triển
của thông tin hướng tới một xã hội thông tin. Trong xã hội thông tin, con người
28


Bilton, tr. 382

21


có xu hướng tiếp xúc với nhau theo cách gián tiếp. Khoảng cách về không gian
và thời gian được thu hẹp nhưng người ta lại đặt nhiều vấn đề về sự tiếp xúc mặt
đối mặt. Rõ ràng là kiểu tiếp xúc này có những tác dụng nhất định (đặc biệt về
tình cảm) trong q trình xã hội hóa nói riêng và trong các sinh hoạt xã hội khác
nói chung, nhưng đây dường như lại là một xu hướng tất yếu của thế kỷ tới. Như
vậy, gánh nặng xã hội hoá sẽ đặt trên vai của các phương tiện truyền thông.
Truyền thơng có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Chúng ta vẫn ln nhìn
thấy mặt tích cực của q trình truyền thơng nhiều hơn là những gì tiêu cực.
Song trên thực tế, những mặt tiêu cực luôn đồng hành với mặt tích cực và dường
như chúng cũng khơng kém ảnh hưởng gì đối với cơng chúng so với những cái
mà chúng đã làm được. Truyền thơng đại chúng có thể làm cho những điều xấu
trở nên quyến rũ hơn dù mục đích ban đầu của chúng là phê phán những điều
xấu đó. Truyền thơng đại chúng cũng có thể hướng dẫn người ta - một cách vơ
tình hay cố ý - tham gia vào những điều xấu...29
Thứ năm: Các môi trường khác.
Khi trưởng thành, các cá nhân lại tham gia vào các tổ chức xã hội cụ thể
hay những nghề nghiệp nào đó. Các tổ chức xã hội thường được thiết lập vì
những mục đích cụ thể và có những yêu cầu cụ thể cho các cá nhân tham gia tổ
chức đó. Khi cá nhân tham gia vào một tổ chức, cơ quan, họ thường chịu ảnh
hưởng một cách vô thức những quy định có sẵn của các tổ chức này. Chúng ta
thường nói nhiều đến thói quen nghề nghiệp, đây chính là một trong những hậu
quả của q trình xã hội hố.30

29


Dr Bùi Hồi Sơn, 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa

30

Giáo trình xã hội học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016

22


KẾT LUẬN:
Trên thực tế, xét ở một khía cạnh nhất định, xã hội hoá tồn tại ở tất cả các
quan hệ xã hội. Do chúng ta chỉ có thể chấm dứt liên quan đến các quan hệ xã
hội khi đời sống của chúng ta kết thúc, xã hội hoá phải được nhìn nhận như một
quá trình tất yếu, suốt đời. Thậm chí khi chết, chúng ta vẫn cịn là thành viên của
một nhóm xã hội cụ thể. Vì thế, chúng ta vẫn cịn phải tn thủ những tiêu chuẩn
mà nhóm xã hội trơng đợi ở chúng ta.
Xã hội hố liên quan đến các khái niệm về chuẩn mực và giá trị. Mối
quan hệ giữa chuẩn mực, giá trị và xã hội hoá là hết sức rõ ràng. Trong khi các
chuẩn mực và giá trị quy định những quy luật của xã hội thì thơng qua xã hội
hố, các cá nhân có thể tiếp thu được những chuẩn mực và giá trị của những
người khác, học được cách coi các quy luật và truyền thống của xã hội mình
đang sống là đúng đắn.
Tóm lại, dù xã hội hố là q trình chịu ảnh hưởng lớn từ xã hội, quá trình
xã hội hố vẫn khơng giam cầm sự tự do cá nhân. Các cá nhân vẫn có thể chấp
nhận hay khơng chấp nhận sự xã hội hố, thậm chí đơi khi cịn cố gắng thay đổi
xã hội

23



×