MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội, được khẳng định trong
điều lệ Đảng: là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho
Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ khi thành lập đến nay, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước. Sau khi Cách mạng
tháng Tám thành công, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trở thành một tổ chức thành viên
của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN.
Hơn bảy thập kỷ qua, Đoàn thanh niên đã thể hiện xuất sắc vai trò, sứ mệnh
lịch sử của tổ chức mình, đặc biệt là ở những thời điểm khốc liệt của các cuộc chiến
tranh giữ nước, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là những
năm đầu thế kỷ XXI, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã phát huy tốt vai trò của mình
trong việc tập hợp và đoàn kết thanh niên tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định mục tiêu đến năm 2020 là đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đây là một nhiệm vụ
rất vinh quang nhưng cũng rất nặng nề mà tuổi trẻ sẽ là những người góp phần quan
trọng biến mục tiêu trên thành hiện thực trong vòng 15 năm tới.
Thời kỳ tới, nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực
hiện kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển. Thực hiện những nhiệm vụ trên vừa là thời cơ, vừa là thách
thức của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Muốn phát huy tốt vài trò, chức năng của mình
trong hệ thống chính trị, Đoàn thanh niên phải có các giải pháp để xây dựng Đoàn
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Mặt khác, công tác Đoàn và phong trào thanh niên vừa là khoa học, vừa là
nghệ thuật. Do đó cần phải nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc
xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Trong nhiều năm qua, các phong trào do Đoàn
1
thanh niên khởi xướng được nhân rộng, đã có những cống hiến to lớn vào sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phong trào hành động của tuổi trẻ là môi trường để thanh niên
thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, là phương thức huy động tiềm năng to lớn,
vai trò xung kích, tình nguyện của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay, hệ thống chính trị phải đối mặt với
những vấn đề phức tạp từ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xác
lập trong bối cảnh đời sống chính trị thế giới có nhiều biến động, Đoàn thanh niên
phải tiến hành cải cách hành chính để nêu cao vai trò của mình trong hệ thống chính
trị và để làm tốt công tác thanh vận của Đảng. Vì vậy, nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nhằm cải cách bộ máy và cán bộ, cải
cách lề lối làm việc là vấn đề bức xúc, cấp thiết cần quan tâm giải quyết.
Là một cán bộ làm công tác Đoàn thanh niên của khối cơ quan Dân vận Trung
ương, tác giả chọn đề tài "Một số giải pháp quản lý của Trung ương Đoàn nhằm
thực hiện tốt chức năng cơ bản của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hiện nay" làm luận
văn tốt nghiệp và cũng mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào công tác quản lý,
xây dựng Đoàn thanh niên trở thành một tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh, ngang
tầm với vai trò lịch sử của Đoàn trong hệ thống chính trị hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu ơ sở lý luận và đánh giá thực trạng công tác quản lý của Trung
ương Đoàn để tìm ra những điểm mạnh và những điểm còn han chế trong hệ thống
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Đưa ra những giải pháp tăng cường công tác quản lý để thực hiện chức năng
của Đoàn thanh niên trong hệ thống chính trị; khắc phục những mặt còn tồn tại, yếu
kém trong tổ chức Đoàn thanh niên hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể: Công tác quản lý, xây dựng hệ thống Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
2
- Đối tượng: Giải pháp quản lý của Trung ương Đoàn nhằm thực hiện tốt chức
năng cơ bản của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hiện nay.
- Khách thể điều tra: những cán bộ chuyên trách đã và đang làm công tác Đoàn
từ đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII đến nay.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản,
mang tính nguyên tắc định hướng chung cho công tác quản lý, xây dựng Đoàn và
triển khai các chức năng chính trị - xã hội của Đoàn thanh niên.
- Về tình hình thực hiện các chức năng của Đoàn, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu thực trạng từ Đại hội Đoàn lần VII đến nay.
5. Giả thuyết khoa học:
Nếu xác định được những giải pháp quản lý, xây dựng Đoàn hợp lý trên cơ sở
sẽ góp phần quản lý thực hiện tốt chức năng cơ bản của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh,
đáp ứng yêu cầu công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong thời kỳ mới;
khẳng định vị trí vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong hệ thống chính trị hiện
nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứư:
6.1 Phân tích cơ sở lý luận, nêu rõ tính khách quan và yêu cầu cấp bách về một
số giải pháp quản lý nhằm thực hiện tốt chức năng của Đoàn thanh niên hiện nay.
6.2 Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý của Trung ương Đoàn về
việc thực hiện các chức năng của Đoàn.
6.3 Đưa ra được các giải pháp quản lý để thực hiện tốt chức năng cơ bản của
Đoàn thanh niên trong điều kiê hiện nay.
7. Phương pháp nghiên cứu:
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo của Đảng; kết hợp nghiên cứu thứ cấp các công trình đã có và các tài liệu thu
3
thập được để xây dựng hoặc chuẩn hóa các khái niệm, chỉ ra bản chất của sự vật hiện
tượng và quy luật vận động của chúng,đặc bieệt là chỉ ra các yếu tố cơ bản trong
công tác quản lý của Trung ương Đoàn có ảnh hưởng trực tiếp đê chức năng của
Đoàn thanh niên.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp lôgic, lịch sử: nhằm khắc phục, đánh giá đúng bản chất của công
tác quản lý nhằm thực hiện tốt chức năng của Đoàn mà các đề tài trước đó còn hạn
chế về mặt lịch sử.
- Phương pháp điều tra, khảo sát: bằng việc xây dựng hệ thống câu hỏi, điều tra
khảo sát đánh giá thực trạng việc quản lý thực hiện công tác Đoàn của Trung ương
Đoàn hiện nay, từ đó khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những mặt mạnh
nhằm thực hiện tốt chức năng của Đoàn thanh niên trong thời kỳ mới.
- Phương pháp chuyên gia: trên cơ sở hệ thống câu hỏi về tính cần thiết, khả thi
và hiệu quả của các nhóm giải pháp gửi tới các chuyên gia có kinh nghiệm trong
công tác Đoàn, xin ý kiến đóng góp nhằm có thêm thông tin, tư liệu để đưa ra các
giải pháp quản lý hữu hiệu thực hiện tốt chức năng của Đoàn trong thời kỳ mới.
- Phương pháp quan sát: phương pháp này thể hiện bằng việc người nghiên cứu
tiếp cận và xem xét các hoạt động quản lý thực hiện chức năng của Đoàn, qua đó tìm
hiểu thực trạng côn tácĐoàn và phong trào thanh thiếu niên của Trung ương Đoàn
những năm qua.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: trên cơ sở quan sát, đánh giá thực tiễn việc
thực hiện các chức năng của Đoàn từ Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII đến nay,
người nghiên cứu tổng kết, đánh giá đúng thực trạng để đưa ra những giải pháp quản
lý hữu hiệu nhằm thực hiện tốt chức năng của Đoàn trong thời kỳ mới.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: trên cơ sở các số liệu điều tra, ý kiến đóng
góp của các chuyên gia và tài liệu nghiên cứu, phân tích tổng hợp các số liệu nhằm
đưa các nhóm giải pháp quản lý hữu hiệu nhằm thực hiện tốt chức năng của Đoàn
trong thời kỳ mới.
4
7.3 Phương pháp toán học: Dùng phương pháp thống kê và sử dụng một số
thuật toán, phần mềm tin học với mục đích xử lý chính xác các số liệu đã điều tra,
khảo sát.
8. Đóng góp của đề tài
- Khái quát có hệ thống những luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng CSVN về thanh niên và vị trí, vai trò, chức năng của Đoàn
thanh niên trong sự nghiệp cách mạng.
- Phân tích đúng thực trạng hoạt động quản lý của Trung ương Đoaàn nhằm
phát hiện những điều kiện và những mối liên hệ chi phối việc thực hiện các chức
năng chính trị - xã hội của Đoàn thanh niên. Từ đó đưa ra những phương hướng, biện
pháp quản lý nhằm thực hiện tốt chức năng cơ bản của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
hiện nay.
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy, bồi dưỡng
cán bộ làm công tác Đoàn, Hội, Đội ở Học viện Than Thiếu Niên Việt Nam hoặc các
trường chính trị tỉnh hiện nay.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương và 8 phụ lục số liệu:
Chương 1: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh - Những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng về hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong hệ
thống chính trị từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thức VII đến nay.
Chương 3: Giải pháp quản lý cơ bản nhằm thực hiện tốt chức năng của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh trong hệ thống chính trị hiện nay.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THỰC HIỆN
CÁC CHỨC NĂNG CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng cộng sản Việt Nam về Đoàn thanh niên cộng sản.
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về Đoàn thanh niên cộng sản
Đoàn TNCS là một tổ chức quần chúng thanh niên - một bộ phận đặc biệt của
xã hội. Thanh niên có trong cơ cấu của mọi giai tầng xã hội, và ở bất kỳ một thể chế
chính trị nào, thanh niên bao giờ cũng giữ một vai trò đặc biệt đó là nguồn lao động
quan trọng của xã hội ở thời điểm hiện tại và là lớp người quyết định sự phát triển
của tương lai. Cách đây hơn một thế kỷ, C.Mác đã viết: "…Những công nhân tiên
tiến nhất hoàn toàn hiểu rõ rằng tương lai của giai cấp công nhân và do đó tương
lai của nhân loại hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn
lên" (21, 118).
Ph.Ăngghen đề xuất tư tưởng: Thanh niên không thể đứng ngoài chính trị,
hiện thực cuộc sống đã và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống chính trị, họ có đủ sức
lực và tài năng giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống của đất nước:
"Họ là đội quân xung kích của giai cấp vô sản quốc tế và là đội hậu bị của Đảng".
(21, 120).
V.I.Lênin coi thanh niên là nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng. Người
nhấn mạnh: "Theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thực sự xây dựng
xã hội chủ nghĩa cộng sản chính là của thanh niên". (44, 354).
Kế thừa tư tưởng của C.Mác, Ăngghen, V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người cộng sản đầu tiên của Việt Nam đã tìm đến những thanh niên giàu hoài bão
cứu nước để truyền bá tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925 Người đã lập
ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Người coi "Thanh niên là người tiếp sức
cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người dìu dắt thế hệ thanh niên
6
tương lai" và "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà", "Nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên" (24, 185)
Từ khi thành lập đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc bồi
dưỡng, phát huy thanh niên và đặt thanh niên ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát
huy nhân tố của nguồn lực con người. Trong thời kỳ mới, Đảng ta đánh giá: "Thanh
niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp
đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng
trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con
đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên là
vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng” (34, 135)
Có thể thấy rằng, thanh niên là một lực lượng giữ vai trò quan trọng quyết định
đến sinh lực và tương lai của quốc gia dân tộc. Vận động, lôi cuốn thanh niên vào
các mục tiêu chính trị luôn là vấn đề mà các giai cấp, các lực lượng chính trị quan
tâm vì thanh niên là một lực lượng xã hội quan trọng mà không một giai cấp nào
trong xã hội không tính đến trong quá trình giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị.
Hơn bảy mươi năm qua, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam đã thực sự trở thành một tổ chức chính trị - xã hội, một đoàn thể nhân
dân và ngày càng khẳng định vị thế của mình trong đời sống chính trị - xã hội của
đất nước.
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên được hình thành từ
hồi đầu thế kỷ XX và phát triển qua các thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, giải
phóng dân tộc và thời kỳ bảo vệ chính quyền, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại của mình, Bác không ngừng chăm lo,
dành nhiều tâm sức cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng, phát huy thanh niên và công
tác thanh niên.
1.1.2.1 Khẳng định vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, luôn tin
tưởng và nhìn nhận thanh niên theo quan điểm phát triển.
7
Là nhà tư tưởng lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc và thời đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra nhiều khái niệm về thanh niên mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc.
Các khái niệm của Người về thanh niên vừa làm rõ vai trò, vị trí của thanh niên trong
tiến trình lịch sử, vừa cổ vũ thanh niên ra sức phấn đấu, tu dưỡng về mọi mặt lại vừa
đặt ra yêu cầu đối với Đảng và Nhà nước cũng như toàn xã hội ra sức chăm lo cho
thanh niên, chuẩn bị cho thanh niên trưởng thành để cống hiến ngày càng nhiều cho
đất nước.
Vào những năm đầu khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh dạy: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà” (26, 84).
Người giải thích khái niệm đó trên cơ sở khẳng định rằng sự phát triển trong tương
lai của đất nước và tiền đồ vẻ vang của dân tộc nằm trong tay thanh thiếu nhi. Trong
ý nghĩa là lực lượng quyết định con đường đi lên của đất nước, là lớp người kế tục sự
nghiệp của cha anh, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh ngay trong hiện tại với vai
trò tích cực của mình, "thanh niên phải tham gia ý kiến vào công việc của Chính
phủ, chiến đấu giữ lấy nền độc lập và tự rèn luyện từ bây giờ để sau này lên thay
những thủ lĩnh mà gánh vác những việc trọng đại của nước nhà” (23, 29).
Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng một cách diễn tả đầy hình ảnh nói về tuổi thanh
niên, Người nói: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ, tuổi
trẻ là mùa xuân của xã hội” (26, 69). Tuy khái niệm “tuổi thanh niên” được diễn đạt
bằng hình ảnh nhưng lại bao hàm tính khoa học rõ rệt phù hợp với sự phát triển của
lứa tuổi đẹp nhất đời người, đẹp nhất xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ vai trò của thanh niên trên cả hai bình diện xã hội
và mối quan hệ kết nối quá khứ với tương lai không thể tách rời nhau khi khẳng
định: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên đã già, đồng
thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai” (26, 315). Vai trò này vô
cùng quan trọng, quyết định vận mệnh của dân tộc và vận mệnh của giai cấp công
nhân. Điều này còn phản ánh một tất yếu lịch sử không thể tránh khỏi, đó là sự “bàn
giao thế hệ”. Mỗi thế hệ cách mạng chỉ có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình
trong một chặng đường nhất định. Thế hệ đó tất yếu phải được thế hệ đi sau tiếp
8
bước và dần dân thay thế. Đó chính là “tiếp sức cách mạng”, “kế tục cách mạng” mà
Bác Hồ đã đưa vào khái niệm thanh niên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết thực tiễn và nêu lên những luận điểm rất cơ
bản về vai trò và khả năng cách mạng của thanh niên:
- Thức tỉnh thanh niên đi tới thức tỉnh dân tộc. Khi đất nước còn chìm đắm
trong đêm dài nô lệ, khi các cuộc khởi nghĩa, các phong trào yêu nước bị kẻ thù dìm
trong biển máu, nhưng lại có không ít thanh niên thờ ơ với sự nghiệp cứu nước thì
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra luận điểm
nổi tiếng là “Thức tỉnh thanh niên đi tới thức tỉnh dân tộc”. Cùng với tác phẩm “Bản
án chế độ thực dân Pháp”, thư “gửi thanh niên Việt Nam” (1925) được đưa về nước
sớm nhất trong đó nêu rõ đất nước sẽ không còn nếu thanh niên không được hồi sinh.
Và để thức tỉnh, để hồi sinh bộ phận quan trọng này của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã làm tất cả những gì có thể làm được trong hoàn cảnh cực kỳ gian khổ, khó
khăn từ mở trường huấn luyện chính trị cho đến việc xuất bản báo, sách để giác ngộ
thanh niên về chủ nghĩa Mác – Lênin, về con đường đấu tranh theo một chiến lược,
sách lược mới và sau đó là đưa thanh niên đứng đầu vào tổ chức, đứng đầu vào hàng
ngũ cách mạng theo xu hướng tiến bộ của thời đại, sáng lập ra “Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên” để qua đó thức tỉnh được nhiều người, thức tỉnh một thế hệ trong
những năm đầu thế kỷ. Cuối cùng là sự xuất hiện một tổ chức thanh niên kiểu mới
(Đoàn thanh niên cộng sản) dưới sự lãnh đạo của một Đảng kiểu mới (Đảng cộng
sản) tiếp nối sự nghiệp cách mạng, hồi sinh lớp trẻ để đi tới thức tỉnh giai cấp công
nhân và cả dân tộc đứng lên làm cách mạng lật đổ chủ nghĩa đế quốc, giành lại chính
quyền về tay nhân dân.
- “Thanh niên là bộ phận quan trọng của dân tộc”.(26, 84) Sau ngày cách
mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định rằng “Thanh niên là bộ phận quan trọng của dân tộc” từ đó
“nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Thực
tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh tính đúng đắn và khoa học trong luận điểm
9
này của Người. Ý nghĩa quan trọng này còn phản ánh trong chất lượng của bộ phận
thanh niên về trình độ học vấn, trình độ khoa học công nghệ, sức khỏe
- Luôn đặt niềm tin và mong đợi ở thanh niên. Khi nói đến nhiệm vụ kiến thiết
lại đất nước sau 80 năm bị bóc lột và khai thác tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc, Bác
chỉ rõ: “ dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai cùng các cường quốc năm
châu hay không chính là nhờ một phần ở công học tập của các cháu” (23, 375).
Trong thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
cách mạng ở miền Nam, Bác Hồ luôn khẳng định vai trò của thế hệ trẻ với miền
Nam và có một dự báo thiên tài nay đã thành hiện thực: “Với một thế hệ thanh niên
hăng hái, kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền
Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” (23, 375).
- Nhìn nhận thanh niên theo quan điểm phát triển và toàn diện.
Nhìn nhận thanh niên theo quan điểm phát triển là cuộc đấu tranh chống lại
những thái độ bảo thủ, thành kiến, hẹp hòi, cô độc mà Bác căn dặn cán bộ, đảng viên
cần phải tránh, bởi lẽ thanh niên sống trong điều kiện mới tất yếu có những nhu cầu
và lợi ích chính đáng khác với cha anh họ, không nên xem xét thanh niên một cách
cứng nhắc. Người nói: “Cần phải đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của các lớp
thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết vấn đề một cách thiết thực” (23, 166)
Hồ Chủ tịch luôn chú trọng khuyến khích biểu dương thanh niên, nhưng Người
cũng thường xuyên phân tích cả ưu điểm và nhược điểm của thanh niên. Người đánh
giá thanh niên với tất cả những ưu điểm vốn có của họ, coi họ là bộ phận quan trọng
của dân tộc, là lực lượng nòng cốt để xây dựng xã hội mới. Mặt khác, Người chỉ ra
những nhược điểm của thanh niên, đó là sự thiếu từng trải, thiếu kinh nghiệm trong
cuộc sống; một số chưa chịu khó học tập, mắc bệnh hình thức, bệnh cá nhân, tự cao,
tự đại Người yêu cầu mọi thanh niên phải chống tâm lý tư lợi, ham sung sướng,
tránh khó nhọc; chống thói quen khinh lao động, nhất là lao động chân tay; chống
lười biếng, xa xỉ; chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang khắc phục điểm yếu là
con đường để tự hoàn thiện nhân cách của thanh niên.
10
Hồ Chủ tịch nhiều lần căn dặn cán bộ làm công tác thanh niên phải nhìn nhận
thanh niên theo quan điểm phát triển. Người nói: “Từ Cách mạng tháng Tám đến
nay, thanh niên ta có cơ hội để phát triển một cách rộng rãi và mau chóng” (23, 84).
1.1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh niên
Trên cơ sở nhìn nhận vai trò quyết định của thanh niên đối với sự nghiệp cách
mạng và tương lai của dân tộc, đất nước, Hồ Chủ tịch dành sự quan tâm đặc biệt đến
công tác thanh niên. Chính Người đã là một chiến sỹ tiên phong “đi vào quần chúng,
thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra tranh đấu giành tự do, độc lập”
(27, 129). Và cũng chính Người đã sáng lập, rèn luyện Đoàn thanh niên cộng sản, đã
chỉ thị trực tiếp cho Trung ương Đảng về nhiệm vụ công tác thanh niên sau khi Đảng
được thành lập. Sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo
Nhà nước đề ra các chính sách thanh niên phù hợp với từng thời kỳ cách mạng, đặc
biệt là về mặt giáo dục, đào tạo. Công tác thanh niên mà cơ bản là đào tạo, giáo dục,
phát huy thanh niên, theo Người là sự tác động đồng bộ của các chủ thể từ gia đình,
đoàn thể, xã hội cho đến các cấp Đảng và Nhà nước:
- Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Năm 1958, trong buổi nói chuyện
với lớp học chính trị của các giáo viên cấp II và cấp III toàn miền Bắc, Hồ Chủ tịch
đã nhấn mạnh luận điểm nổi tiếng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người” (27, 129).
Luận điểm “trồng người” của Bác cho thấy rõ vai trò của con người là nhân tố
then chốt quyết định sự thành công của cách mạng, sự tiến bộ xã hội và tiền đồ dân
tộc, hạnh phúc của nhân dân; đồng thời cho thấy tính chất lâu dài, gian khổ của công
việc. Luận điểm “trồng người” của Bác còn cho ta thấy được mục tiêu mà nền giáo
dục của ta phải đạt tới là đem lại một chất lượng mới cho từng con người cũng như
cho cả dân tộc và: “Học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu,
nước mạnh” (25, 130). Để thực hiện mục tiêu “trồng người” như đã nêu trên, bác chủ
trương thực hiện nguyên lý giáo dục toàn diện. Người dạy: “Trong việc giáo dục và
học tập, phải chú trọng đủ các mặt: Đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa,
văn hóa, khoa học, kỹ thuật, lao động và sản xuất” (25, 179).
11
“Trồng người” không chỉ là sự nghiệp lâu dài, gian khổ, sự nghiệp của cả trăm
năm mà còn là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội theo tinh thần mà
Lênin đã dạy: “Chúng ta phải chuẩn bị cho thanh niên như thế nào để họ biết xây
dựng đến cùng và hoàn thành triệt để sự nghiệp mà chúng ta đã bắt đầu” (44, 231)
- Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần
thiết. Luận điểm này rất cơ bản được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết, nâng cao từ
thực tiễn sinh động hơn nửa thế kỷ lãnh đạo cách mạng. Đây là luận điểm xuyên suốt
mang tính thời đại sâu sắc đồng thời cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước theo tinh thần các Nghị quyết của Bộ chính trị và Trung ương Đảng
trong hơn 15 năm qua về công tác thanh niên.
- Nội dung công tác thanh niên là hình thành "lớp người kế thừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên".
Tư tưởng “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” và “trồng người” chính là
tinh thần xuyên suốt, là nội dung quán triệt trong mọi thời kỳ đối với công tác thanh
niên. Những tư tưởng này đã được Bác Hồ đưa vào cuộc sống từ khi Người bắt tay
xây dựng Đảng, rèn luyện Đoàn và đào tạo thế hệ thanh niên cách mạng hồi đầu thế
kỷ chứ không phải chờ đến sau này. Từ ý nghĩa lớn lao của vấn đề, từ nhiệm vụ
mang tính quy luật, Bác đã chỉ ra mục tiêu của công tác “trồng người” và sự nghiệp
“bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”. Đó chính là mối quan hệ giữa “hồng và
chuyên” mà chúng ta thường gọi là “đức và tài” hoặc “phẩm chất và năng lực”.
1.1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức, tập hợp thanh niên
- Kiên trì xây dựng một tổ chức thanh niên cộng sản làm cánh tay và đội hậu
bị của Đảng. Là người chủ trì soạn thảo luận cương nổi tiếng về thanh niên thuộc địa
tại Đại hội Quốc tế thanh niên cộng sản lần thứ IV (7-1924) trong đó nêu rõ: “Nhanh
chóng hình thành các tổ chức thanh niên cách mạng và xây dựng Đoàn thanh niên
cộng sản ở các nước thuộc địa”, Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay ngay vào việc tuyên
truyền, giác ngộ và kết nạp những đoàn viên thanh niên cộng sản Việt Nam đầu tiên
ở Quảng Châu khi Người từ Matxcơva đến đây.
12
Năm 1951, nói về huy hiệu của Đoàn, Bác Hồ dạy: “Huy hiệu của thanh niên là
tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên”. Người giải thích: “Ý nghĩa của nó là phải xung
phong, gương mẫu trong công tác, trong học hỏi, trong tiến bộ, trong đạo đức cách
mạng” (26, 100). Như vậy, tính tiên phong của tổ chức Đoàn đã được Bác khẳng
định rất rõ: Xung phong, gương mẫu.
Năm 1956, huấn thị tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II, Bác Hồ dạy: “Đoàn
là cánh tay đắc lực của Đảng để thực hiện những chủ trương, chính sách cách
mạng” (26, 165). Điều lệ Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II đã xác định: “Đoàn
thanh niên lao động Việt Nam là cánh tay và đội hậu bị của Đảng là trụ cột của
khối đoàn kết thanh niên”. Cũng tại Đại hội này, Bác Hồ đã đặt ra yêu cầu cao về
việc củng cố tổ chức Đoàn và đoàn kết rộng rãi với thanh niên. Người dạy: “ Phải
củng cố tổ chức Đoàn, phải đoàn kết nội bộ thật chặt chẽ và phải đoàn kết rộng rãi
với các tầng lớp thanh niên” (26, 165).
Bác coi việc củng cố tổ chức Đoàn là điều kiện quan trọng hàng đầu để mở rộng
mặt trận đoàn kết các tầng lớp thanh niên. Nhưng muốn củng cố tổ chức Đoàn thì
trước hết phải “đoàn kết nội bộ thật chặt chẽ” nghĩa là phải tiến hành phê bình, tự
phê bình để thống nhất ý chí và hành động trong nội bộ Đoàn, làm cho tổ chức Đoàn
phải thực sự là tổ chức của những thanh niên tiên tiến, có đạo đức, có lý tưởng và
phấn đấu kiên cường vì lý tưởng đó.
Cũng trong huấn thị tại Đại hội Đoàn lần thứ II, Bác đã chỉ rõ: “Đoàn thanh
niên lao động là cánh tay đắc lực của Đảng” và giải thích: “Cánh tay để thực hiện
những chủ trương và chính sách cách mạng”. Hơn nữa, Bác còn chỉ rõ: “Đoàn thanh
niên lao động là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức và giáo dục thế hệ
thanh niên và nhi đồng thành những chiến sỹ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” (26, 148). Đây là một chức năng hết
sức quan trọng của Đoàn với tư cách là một tổ chức quần chúng gần Đảng nhất mà
trong Điều lệ Đảng từ trước đến nay đều ghi rõ.
Năm 1960, khái niệm này đã được Người phát triển rộng thêm trong huấn thị tại
buổi lễ trọng thể kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng: “Đoàn thanh niên lao động
13
phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức, giáo dục thế hệ thanh niên và
nhi đồng thành những chiến sỹ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.
- Ra sức tập hợp, đoàn kết thanh niên thành một mặt trận rộng lớn. Tập hợp,
đoàn kết thanh niên là một mặt công tác, một nhiệm vụ rất quan trọng mà Bác Hồ
kính yêu luôn căn dặn phải thực hiện cho tốt. Bác chỉ ra rằng muốn xây dựng và phát
triển Đoàn thành một lực lượng vững chắc trước hết phải tập hợp, đoàn kết rộng rãi
các tầng lớp thanh niên, tránh cô độc, hẹp hòi. Tại Đại hội xứ Đoàn thanh niên cứu
quốc Bắc bộ (ngày 25/11/1945), huấn thị với các đại biểu, Bác phê bình: “ Trong tổ
chức thanh niên còn giữ một xu hướng chật hẹp, không bao bọc được nhiều giai
tầng, không kéo được đại đa số thanh niên” (26, 142).
Các hình thức, phương pháp tập hợp, đoàn kết vừa đa dạng, thu hút rộng rãi
thanh niên tham gia nhưng lại phải được định hướng vững chắc, nghĩa là có mục tiêu
phấn đấu rõ ràng, có tính ổn định và triển vọng phát triển. Bác dạy: “Đoàn kết là lực
lượng”, điều này có nghĩa rằng nếu ta phát huy được lực lượng tức là tạo ra được sức
mạnh. Người nhắc nhở cán bộ, đoàn viên phải thật thà đoàn kết với anh chị em trong
Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
Điều kiện quyết định thắng lợi việc mở rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh
niên theo tư tưởng của Bác Hồ là “muốn đoàn kết thì tất cả cán bộ, đoàn viên phải
giữ vững đạo đức cách mạng, phải khiêm tốn, cần cù, hăng hái, dũng cảm phải
xung phong trong mọi công tác chứ không xa rời quần chúng ” (26, 166).
- Đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết giữa tổ chức Đoàn với đông đảo
thanh niên; bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đoàn viên theo phương châm "trọng
chất hơn lượng".
Đoàn thanh niên trước hết là tổ chức của những thanh niên tiên tiến nhưng
Đoàn là người đại diện lợi ích chính đáng của thanh niên, vì vậy Đoàn cũng là tổ
chức của thanh niên, vì thanh niên. Bác dạy: “ Muốn củng cố và phát triển, Đoàn
phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên và tất cả đoàn viên
phải gương mẫu ” (26, 217).
14
Trong công tác xây dựng Đoàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn nhiều lần về
việc phải phát triển Đoàn về số lượng, đồng thời phải coi trọng việc nâng cao chất
lượng đoàn viên. Tháng 2-1961, khi miền Bắc nước ta bước vào thực hiện kế hoạch
5 năm lần thứ nhất; trong thanh niên có phong trào “Xung phong tình nguyện vượt
mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất”, Bác dạy: “Tổ chức Đoàn phải rộng hơn Đảng
cố nhiên khi kết nạp đoàn viên cần lựa chọn cẩn thận những thanh niên tốt” (26,
217). Tháng 3-1966, khi cả nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, trong thanh niên đang có 2 phong trào là phong trào “Ba sẵn sàng” ở miền Bắc
và “Năm xung phong” ở miền Nam. Bác lại dặn: “Cần phải phát triển Đoàn hơn nữa
nhưng phải chọn lọc cẩn thận, trọng chất lượng hơn số lượng”.
- Trung ương và các cấp Đảng bộ địa phương phải săn sóc hơn nữa đến công
tác thanh niên; công tác thanh niên phải liên hệ với lực lượng của Chính phủ. Là
Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Đoàn ta, Bác Hồ luôn chú trọng vấn đề tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác thanh niên và công tác Đoàn. Bác Hồ đánh
giá vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở Đảng, và trong những nhiệm vụ của chi bộ,
Người căn dặn: “Chi bộ phải chăm lo xây dựng Đoàn thanh niên cho thật tốt”. Đồng
thời, Bác luôn nhắc nhở: “Trung ương và các cấp Đảng bộ địa phương phải chăm
sóc hơn nữa đến công tác thanh niên” trong đó có vấn đề quan trọng là chăm lo công
tác xây dựng Đoàn để “phát huy tác dụng tiên phong của Đoàn về mọi mặt”. Đoàn
thanh niên cộng sản là tổ chức quần chúng duy nhất được ghi thành một chương
trong điều lệ Đảng, điều này nói lên mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và Đoàn và
phản ánh trách nhiệm trực tiếp của Đảng đối với công tác thanh niên và Đoàn thanh
niên.
Hồ Chủ tịch rất coi trọng vai trò của Nhà nước trong công tác thanh niên. Ngay
sau Cách mạng tháng Tám, Người đã chỉ thị thành lập Bộ Thanh niên rồi Nha Thanh
niên trong Chính phủ để chăm lo công tác thanh niên. Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ cứu nước, Bác Hồ luôn nhắc nhở các bộ, ngành của Chính phủ
ban hành những chính sách nhằm giải quyết các vấn đề thuộc lợi ích chính đáng của
thanh niên. Bác dạy rằng công tác thanh niên phải “liên hệ với các lực lượng của
Chính phủ”.
15
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên là sự tổng kết lý
luận và thực tiễn được nâng lên tầm cao qua các thời kỳ cách mạng. Nó đã, đang và
sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con đường tổ chức thanh niên thành lực lượng cách
mạng xung quanh Đảng và phát huy mọi tiềm năng to lớn của thanh niên vì sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước góp phần làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Học tập, nghiên cứu tư tưởng của
Người là để quán triệt và vận dụng vào thực tiễn tạo ra những chuyển biến đối với
công tác thanh niên, đặc biệt là quán triệt tư tưởng của Người trong việc xây dựng
chiến lược thanh niên trong thời kỳ mới.
1.1.3 Quan điểm cơ bản của Đảng cộng sản Việt Nam về thanh niên và
công tác thanh niên.
- Thanh niên và công tác thanh niên có vai trò, vị trí cực kỳ quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam luôn đánh giá
đúng vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc. Đảng luôn xác định thanh niên là một “lực lượng xã
hội hùng hậu”, là đội quân xung kích cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc và là lớp người thừa kế trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về công tác
thanh niên trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công
hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay
không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện
thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” (9, 82).
Từ vai trò to lớn của thanh niên, Đảng ta coi chính thanh niên chứ không phải ai
khác giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người.
Đảng cũng luôn luôn đặt niềm tin tưởng sâu sắc vào lực lượng thanh niên nước
ta trên cơ sở đánh giá đúng bản chất tốt đẹp, thấy rõ chỗ mạnh, tiềm năng to lớn của
thanh niên. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta cơ bản
thành một nước công nghiệp là sự nghiệp lớn lao, là môi trường thuận lợi, là cơ hội
16
để thanh niên khẳng định rõ vai trò, vị trí của mình trong xã hội. Vai trò, vị trí to lớn
đó thể hiện trong các mặt tổng thể sau:
+ Thanh niên là nguồn lực lao động có chất lượng cao và đồng bộ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Thanh niên là lực lượng xung kích đi đầu thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
+ Thanh niên là lực lượng chủ lực xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc văn hóa dân tộc và thực hiện chủ động hội nhập quốc tế, phát huy vị trí của đất
nước trên trường quốc tế.
+ Thanh niên là lực lượng kế thừa và tiếp nối các thế hệ cha anh để thúc đẩy
xã hội phát triển, xây dựng đất nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, giàu
mạnh, người dân được hưởng tự do, dân chủ, công bằng và hạnh phúc.
- Chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện và tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển, trưởng thành của thanh niên.
Đảng ta luôn luôn chú ý việc giáo dục, bồi dưỡng và rèn luyện thế hệ thanh
niên: “Thường xuyên chăm lo giáo dục, bồi dưỡng và tạo điều kiện thuận lợi cho
thanh niên phấn đấu để hình thành một thế hệ con người mới có lý tưởng cao đẹp, có
ý thức trách nhiệm công dân, có trí thức, có sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn
hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính” (9, 83).
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cổ vũ thanh niên Việt Nam nuôi dưỡng hoài
bão lớn, quyết tâm chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, nêu cao sáng tạo, nhanh chóng
tiếp cận và làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời đại, sánh
vai cùng thanh niên các nước trên thế giới. Đồng thời, hình thành một lớp thanh niên
nam, nữ ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, có
phẩm chất đạo đức, có tài năng, đi đầu trong việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
17
Trong công tác giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, việc xây dựng môi trường xã
hội lành mạnh là tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thế hệ trẻ, đồng thời
đây cũng là nhiệm vụ của chính thanh niên.
- Phát huy vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn của thanh niên.
Đánh giá đúng vai trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc và đặt lòng tin sâu sắc vào thế hệ trẻ Việt Nam; Đảng ta luôn coi
trọng việc tổ chức, phát huy lực lượng và tiềm năng của thanh niên vì thanh niên là
lực lượng kế thừa cách mạng, là lực lượng xung kích cách mạng: “Đảng đặt niềm tin
sâu sắc vào thanh niên, phát huy vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn của thanh niên
để thanh niên thực hiện được sứ mệnh lịch sử, đi đầu trong cuộc đấu tranh chiến
thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng và bảo vệ đất nước giàu mạnh, xã hội văn minh,
nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” (9, 83).
- Xây dựng Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức của những thanh niên tiên
tiến, giác ngộ lý tưởng cộng sản, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, do
Đảng thành lập, dìu dắt và lãnh đạo. Đoàn là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh
niên Việt Nam, là người trực tiếp giúp Đảng thực hiện nhiệm vụ công tác thanh niên,
phát động và tổ chức phong trào hành động cách mạng của thanh niên, là cầu nối
giữa thanh niên với Đảng, là người phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong. Trong giai
đoạn mới cần: “Xây dựng Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là đội dự bị tin cậy của Đảng, là hạt nhân
chính trị của phong trào thanh niên” (9, 84). Đồng thời, phải mở rộng và củng cố
mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên và xây dựng Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí
Minh vững mạnh.
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội làm công tác thanh niên.
Công tác thanh niên là nhiệm vụ của Đảng, của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, đồng thời
là nhiệm vụ của Nhà nước, của Mặt trận và các đoàn thể, của lực lượng vũ trang, của
toàn xã hội và gia đình. Phát biểu tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
(khóa VII), Tổng Bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh: “Công tác thanh niên không chỉ là
18
việc của Đảng, của Đoàn mà còn là việc của Nhà nước, của mọi tổ chức, của xã hội
và từng gia đình”. Quan điểm này được cụ thể như sau:
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ hệ thống chính trị thực hiện
nhiệm vụ công tác thanh niên.
+ Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác thanh
niên bằng các văn bản pháp luật, các chính sách đối với thanh niên; tăng cường quản
lý Nhà nước về công tác thanh niên; xây dựng quy chế phối hợp giữa cơ quan chính
quyền với các tổ chức thanh niên; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho công tác thanh
niên.
+ Các đoàn thể, các lực lượng vũ trang và tổ chức xã hội có chương trình công
tác thanh niên của tổ chức mình; xây dựng quy chế phối hợp hành động với Đoàn và
các tổ chức thanh niên.
+ Tổ chức phối hợp trên quy mô toàn xã hội làm công tác thanh niên. Tăng
cường giúp đỡ các gia đình về nội dung, phương pháp và điều kiện nuôi dạy con cái
trưởng thành, trở thành những người hữu ích cho xã hội.
Công tác thanh niên là một khoa học và nghệ thuật. Vậy cần phải thường xuyên
điều tra nghiên cứu để hiểu thanh niên và làm tốt công tác thanh niên.
1.1.4 Một số khái niệm cơ bản:
1.1.4.1 Quản lý là gì?
Từ xa xưa con người đã sống quần tụ với nhau thành những cộng đồng người để
giúp đỡ nhau chống lại thú dữ và thiên nhiên, tập hợp nhau lại để cùng sản xuất và
sinh hoạt. Mặt khác trong quá trình sản xuất coi cá thể làm việc thì sẽ không hiệu
quả. Vì vậy, con người đã tập hợp thành nhóm để thực hiện mục đích của mình một
cách hiệu quả nhất để từ những yêu cầu khách quan về sự phối hợp cộng đồng đã
hình thành tổ chức. Khi con người còn sống dựa vào thiên nhiên thì họ đã biết tìm
kiếm những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên để đáp ứng nhu cầu của mình, sau dần
phát triển lên vật phẩm hàng hóa xã hội để thay thế cho các vật phẩm tự nhiên và
19
khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ sản xuất, ngoài ra con người còn phải đấu
tranh với thiên nhiên, tránh những hiểm họa do tự nhiên gây ra.
Để tồn tại và mưu sinh con người không thể sống riêng rẽ mà họ phải hiệp tác
với nhau, nhân công lao động vừa tạo ra sức mạnh chung vừa phát huy ưu thế của
mỗi cá nhân, mỗi bộ phận và sự hiệp tác này có hiệu quả thì cần có sự phối hợp điều
hành các bộ phận trong tổ chức gọi là quản lý. Vì vậy, quản lý là khách quan nảy
sinh khi cần nỗ lực tập thể thực hiện mục tiêu chung.
Từ đó chúng ta có thể đưa ra khái niệm của quản lý như sau: Quản lý là sự tác
động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý trong một
môi trường nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
1.1.4.2 Chức năng là gì?
Từ điển Tiếng Việt nêu khái niệm: Chức năng là hoạt động, tác dụng bình
thường (hoặc đặc trưng) của một cơ quan nào đó.
Từ điển Triết học đưa ra khái niệm: Chức năng là sự thể hiện ra bên ngoài của
các đặc tính của một khách thể nào đó trong hệ thống các quan hệ nhất định: chức
năng của các giác quan trong cơ thể, chức năng của tiền tệ, chức năng Nhà nước
Căn cứ vào những khái niệm trên, chúng ta có thể xác định chức năng của một
tổ chức xã hội thể hiện như sau: "Chức năng là sự biểu hiện bằng hoạt động mang
tính trách nhiệm, nghĩa vụ xã hội của một tổ chức; phản ánh tính chất đặc trưng của
tổ chức xã hội trong một hệ thống các mối quan hệ nhất định|".
Cũng từ những căn cứ trên khi chúng ta xét đến chức năng của tổ chức Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh là chúng ta xét đến những hoạt động mang tính trách nhiệm,
nghĩa vụ của tổ chức Đoàn đối với xã hội; những hoạt động này phải phản ánh được
lý do tồn tại mang tính tất yếu đặc thù của tổ chức Đoàn trong hệ thống chính trị.
Một điều cần lưu ý là chức năng của một tổ chức xã hội chỉ được xác định trên
cơ sở có sự phân công tất yếu trong hệ thống. Thực hiện sai chức năng, tổ chức xã
hội đó không còn là chính nó. Và như vậy khi xác định chức năng của Đoàn TNCS
20
Hồ Chí Minh, chúng ta phải đặt tổ chức Đoàn trong sự phân công tất yếu của hệ
thống chính trị mà tổ chức Đoàn là một thành viên.
1.2 Quản lý thực hiện các chức năng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
1.2.1 Những căn cứ xác định vai trò, vị trí của Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị - xã hội được Đảng ghi
nhận trong một chương của Điều lệ Đảng, thể hiện rõ vai trò, vị trí của Đoàn thanh
niên: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ
sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên; là trường học
xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền lợi của thanh niên; phụ trách Đội Thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh” (15, 66).
Theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ cùng với
quan điểm công tác thanh niên là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị cũng như của
toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì đây là sự thống nhất theo mục
tiêu và chiến lược về công tác thanh niên của Đảng là “hình thành một lớp thanh
niên nam nữ ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên định đường lối xã hội chủ nghĩa, tiêu
biểu cho thế hệ trẻ, trở thành những nhà lãnh đạo, quản lý kinh doanh giỏi, những
chuyên gia xuất sắc trên mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, những trí thức uyên bác,
chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học, những văn nghệ sĩ có tài năng, những người lao
động có tay nghề cao” (9, 82).
Khẳng định vị trí, vai trò của thanh niên, Điều 66 Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 dành cho thanh niên quy định rõ: “Thanh niên
được gia đình, nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát
triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân và
lý tưởng xã hội chủ nghĩa đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ
quốc”.
21
Cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng về thanh niên và công tác thanh
niên, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật thanh niên ngày 29/11/2005 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/7/2006.
Như vậy, Hiến pháp đã chỉ rõ nhu cầu quản lý Nhà nước về công tác thanh niên
được đặt ở tầm cao chiến lược và phản ánh những luận điểm quan trọng của Đảng ta
và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ cách mạng mới, trong đó mọi đường lối, chủ
trương, chính sách về công tác thanh niên của Đảng phải được thể chế hóa.
1.2.2. Chức năng cơ bản của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
- Đội dự bị tin cậy của Đảng cộng sản Việt Nam: là đội quân xung kích cách
mạng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng và đội ngũ cán bộ cho các cấp
ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên Việt Nam: ở đây được hiểu theo
nghĩa rộng là môi trường giáo dục, rèn luyện, định hướng giá trị cho thanh niên theo
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là môi trường để thanh niên thực hành
dân chủ, công bằng xã hội và nhân đạo chân chính.
- Là người đại diện, chăm lo quyền lợi hợp pháp của tuổi trẻ.
- Là nòng cốt chính trị trong phong trào và các tổ chức thanh niên: vừa phải
xuất phát từ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định an ninh chính trị,
củng cố quốc phòng an ninh của đất nước, vừa phải gắn với nhu cầu, lợi ích chính
đáng và phù hợp với đặc điểm và khả năng của thanh niên.
Trong 4 chức năng này thì chức năng cơ bản nhất của Đoàn là giáo dục thế hệ
trẻ. Muốn thực hiện tốt chức năng này Đoàn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đặc
biệt coi trọng nâng cao chất lượng của tổ chức Đoàn cơ sở, đủ làm nòng cốt chính trị
trong phong trào thanh niên; mở rộng mặt trận đoàn kết thanh niên bằng việc đa dạng
hóa các hình thức, phương pháp tập hợp thanh niên, phát huy dân chủ, khắc phục
bệnh hành chính hóa và chủ nghĩa hình thức trong công tác Đoàn.
22
- Tăng cường giáo dục lý luận chính trị, bồi dưỡng niềm tin và lý tưởng cách
mạng cho thanh niên, đảm bảo sự vững vàng, kiên định của thanh niên trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong hội nhập kinh tế và giao lưu văn hóa quốc
tế.
- Phát động phong trào, là nòng cốt trong phong trào và các tổ chức thanh
niên: phải ra sức học tập và góp phần xây dựng “xã hội học tập”, tiến quân vào khoa
học kỹ thuật, lao động sáng tạo, tiên phong trong các cuộc vận động “toàn dân đoàn
kết xây dựng lối sống văn hóa ở khu dân cư”, “toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, từng
nhà làm giàu cho mình, cho cộng đồng cơ sở và cho đất nước”; đặc biệt là các phong
trào xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, đền ơn đáp nghĩa
- Phụ trách Đội thiếu niên Tiền phong: đây là nhiệm vụ quan trọng của Đoàn.
Đoàn thanh niên phải tổ chức, giáo dục, rèn luyện các em thiếu niên, nhi đồng, nêu
gương sáng cho các em noi theo và hướng các em phấn đấu trở thành những đoàn
viên, thanh niên ưu tú, những công dân có ích cho đất nước mai sau.
1.2.3 Quản lý thực hiện các chức năng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
1.2.3.1 Quản lý đào tạo cán bộ Đoàn
Công tác Quản lý đào tạo cán bộ có vị trí quan trọng, ý nghĩa quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trong đó con
người là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Con người
ở đây không phải là con người trừu tượng mà là con người có tri thức khoa học, có
kinh nghiệm sản xuất và kỹ năng lao động. Con người bảo đảm yêu cầu đó không tự
nhiên sinh ra mà phải qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Quá trình đào tạo sẽ tạo nên
năng lực để con người có khả năng hoàn thành công việc. Năng lực con người là hệ
thống nhất gồm nhiều yếu tố tiềm ẩn trong mỗi con người. Năng lực ấy chỉ được bộc
lộ, biểu hiện và phát huy trong điều kiện, hoàn cảnh thích hợp. Ngược lại, năng lực
tiềm ẩn ấy sẽ không được phát huy, không được người khác nhìn nhận trong những
điều kiện không phù hợp.
Muốn phát triển năng lực, một mặt cá nhân phải có sự nỗ lực, khắc phục khó
khăn tìm được những cơ hội tốt để phát huy, đồng thời, xã hội cũng phải có trách
23
nhiệm chăm lo, tạo điều kiện để mỗi cá nhân có thể thể hiện, phát huy năng lực của
cá nhân mình. Cán bộ Đoàn là những người có năng lực hoạt động xã hội, có khả
năng tổ chức các hoạt động thanh niên; năng lực ấy phải được củng cố và phát triển
thông qua quá trình đào tạo cán bộ Đoàn.
Thực tế chứng minh rằng, con người ngay từ thời còn trẻ đã làm quen với
công tác chỉ huy, làm cán bộ lớp, cán bộ chỉ huy đội, liên đội, cán bộ Đoàn, hay tham
gia nòng cốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao thì sau này khi ra
công tác ở môi trường nào họ cũng có những cơ hội nhất định để tham gia các chức
vụ lãnh đạo, quản lý hơn so với người khác. Chính vì vậy, việc quản lý đào tạo cán
bộ Đoàn là tạo môi trường, đi kiện để người cán bộ Đoàn làm quen với khoa học
quản lý. Việc làm này, không chỉ đáp ứng yêu cầu của công tác Đoàn và phong trào
thanh thiếu nhi mà còn có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực của đất nước.
Quản lý đào tạo cán bộ chính là quản lý chất lượng đào tạo. Chất lượng đào
tạo được đánh giá qua mức độ đạt được các mục tiêu định trước.
1.2.3.2 Các biện pháp quản lý đào tạo cán bộ Đoàn
Trong công tác quản lý giáo dục đào tạo, những biện pháp quản lý đào tạo có
tầm quan trọng đặc biệt nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo. Các biện pháp
quản lý đào tạo có liên quan, ảnh hưởng, bổ sung lẫn nhau tạo nên sức mạnh tổng
hợp nhằm đạt mục tiêu của nhà quản lý đề ra. Các biện pháp quản lý đào tạo cán bộ
Đoàn gồm:
- Xây dựng kế hoạch đào tạo
- Tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo
- Xây dựng quy trình tổ chức khóa học
- Xây dựng quy trình quản lý học viên
- Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng giảng dạy và học tập
24
- Đổi mới phương pháp giảng dạy
- Biên soạn tài liệu
- Xây dựng giáo trình, giáo án giảng dạy
- Kiểm tra, đánh giá đào tạo, đánh giá sau khóa học.
Các biện pháp quản lý đào tạo cán bộ Đoàn là điều kiện cơ bản để nâng cao
chất lượng đào tạo. Thiếu một trong những biện pháp đó hoặc không biết phát huy
sức mạnh tổng hợp của chúng thì chất lượng, hiệu quả đào tạo sẽ bị hạn chế.
1.3 Mối quan hệ của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh với các thành viên của hệ
thống chính trị Việt Nam hiện nay.
1.3.1 Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
Hệ thống chính trị là một trong những khái niệm cơ bản của chính trị học bởi
nó liên quan đến phạm trù quyền lực (cụ thể hơn là các chủ thể quyền lực). Tuy
nhiên, trong thực tế, cho đến nay nhận thức về hệ thống chính trị lại chưa thống nhất.
Có khuynh hướng nhấn mạnh các nhân tố chủ thể, có khuynh hướng lại quan
niệm hệ thống chính trị không chỉ có các thiết chế tổ chức mà còn bao gồm các yếu
tố khác như tư tưởng, truyền thống chính trị và cả thể chế chính trị Cả hai khuynh
hướng trên đều có những hạn chế: hoặc chưa bao hàm đủ những thiết chế, những
quan hệ liên quan đến quyền lực chính trị hoặc trùng lặp với phạm trù triết học là
thượng tầng kiến trúc.
Ở phương diện quản lý, chúng ta hướng đến hệ thống các thiết chế, tổ chức có
quyền lực chính trị hoặc tham gia vào quyền lực chính trị (chủ thể quản lý). Vì vậy,
chúng ta có thể chấp nhận khái niệm của TS. Vũ Hoàng Công: “Hệ thống chính trị là
một bộ phận của cấu trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế có
quan hệ với nhau về mặt mục đích, chức năng trong việc thực hiện quyền lực chính
trị, trong việc đưa ra và thực hiện các quyết sách chính trị” (46, 8).
Ở Việt Nam, thuật ngữ hệ thống chính trị được dùng chính thức từ Hội nghị
BCH Trung ương lần thứ 5 (khóa VI) thay cho khái niệm có ý nghĩa tương đồng
nhưng rộng hơn thường dùng trước đó là Hệ thống chuyên chính vô sản. Cho tới Hội
25