Tải bản đầy đủ (.docx) (366 trang)

Dấu hiệu đã bị xử lý hành chính trong pháp luật hình sự việt nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn luận văn ths luật 60 31 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 366 trang )

Đại học quốc gia Hà nội
Khoa luật

Nguyễn Thị Bé Minh

Dấu hiệu đà bị xử lý hành chính trong pháp luật
hình sù viƯt nam – mét sè vÊn ®Ị lý ln và thực
tiễn

Chuyên ngành : Luật Hình sự
MÃ số

: 60 38 40

Luận văn thạc sĩ Luật học

Hà Nội - 2008


Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vi phạm pháp luật là hành vi của con ngãời, trái với quy
định của pháp luật, xâm hại đến các quan hệ xà hội đãợc
pháp luật xác lập, bảo vệ và là hành vi nguy hiểm cho xà hội.
Để bảo vệ lợi ích của xà hội, trách nhiệm đấu tranh phòng,
chống các vi phạm pháp luật là nhiệm vụ chung của toàn xÃ
hội, nhãng trãớc hết là của Nhà nãớc, mà đại diện ở đây là
các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Tội phạm và vi phạm hành chính là các vi phạm pháp
luật, có cùng bản chất là tính nguy hiểm cho xà hội nhãng
giữa chúng có sự khác nhau về mức


độ của tính nguy hiểm. Chính trên cơ sở sự khác nhau này
mà nhà nãớc xác lập các loại trách nhiệm pháp lý khác nhau
để đấu tranh và phòng chống các hành vi vi phạm. Nhã vậy,
sự khác nhau về mức ®é cđa tÝnh nguy hiĨm cho x· héi cđa
hµnh vi là tiêu chí chung thống nhất để phân biệt tội phạm
với các vi phạm pháp luật khác. Do đó, phân biệt giữa tội
phạm với các vi phạm pháp luật khác đãợc thực hiện trong
nhiều ngành luật và là nhiệm vụ chung của cả hệ thống
pháp luật, trong đó có LHS. Để đấu tranh với tội phạm và các
vi phạm pháp luật khác, Nhà nãớc đà phải sử dụng một loạt
các biện pháp pháp lý nhã: biện pháp hình sự, biện pháp
hành chính, biện pháp dân sự, Trong các biện pháp tác
động bằng pháp luật thì biện pháp hình sự là biện pháp có
tính cãỡng chế nghiêm khắc nhất. Cho nên, biện pháp này
chỉ thích hợp để đấu tranh với loại vi phạm pháp luật có tính
nguy hiểm cao cho xà hội - tội phạm. Nhãng để có thể sử
dụng biện pháp hình sự đấu tranh với loại hành vi có tính
nguy hiểm cho xà hội là tội phạm, đòi hỏi phải có sự phân


biệt để xác định hành vi là tội phạm hay chỉ là các vi phạm
pháp luật khác nhã vi phạm hành chính.
Nhã vậy, phân biệt tội phạm với vi phạm hành chính là
cơ sở để Nhà nãớc áp dụng các biện pháp pháp lý khác
nhau nhằm đảm bảo cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm có hiệu quả, đảm bảo cho PLHS và pháp luật hành
chính thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.


BLHS năm 1999, trên cơ sở tiêu chí chung đà đãợc

xác định, ở phần các tội phạm, nhà làm luật thực hiện
việc phân biệt tội phạm với vi phạm hành chính thông qua
các dấu hiệu cụ thể thuộc về các yếu tố cấu thành nhã các
dấu hiệu thuộc về mặt khách quan (hành vi, hậu quả),
các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan (lỗi, động cơ, mục
đích ) hoặc các dấu hiệu thuộc về bản thân ngời phạm tội
(đà bị xử phạt hành chính, đà bị xử lý kỷ luật). Tuy nhiên,
trong các quy định của PLHS hiện hành, các dấu hiệu của
tội phạm đÃ
đãợc xác định ở trong cấu thành cụ thể, nhãng trên thực
tế, không phải khi nào ranh giới phân biệt giữa tội phạm và
vi phạm cũng có thể dễ dàng nhận thức và áp dụng thống
nhất. Mặt khác, tính nguy hiểm cho xà hội của hành vi là
khách quan, do các điều kiện kinh tế - xà hội quy định.
Hành vi nguy hiểm cho xà hội không phải là bất biến mà sẽ
thay đổi mỗi khi các điều kiện khách quan đó thay đổi.
Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy công
tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tã pháp, thực
hiện chủ trãơng cải cách tã pháp nhằm xây dựng một nền
tã pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, văn minh, bảo vệ
công lý trong điều kiện mới ở nãớc ta hiện nay. Ngày 25 05 - 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 48/NQ - TW
Về chiến lợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hãớng đến năm 2020" và
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 - 06 - 2005 "Về chiến lãợc
cải cách tã pháp đến năm 2020", các Nghị quyết này đà nêu
rõ, tiến hành đồng bộ các biện pháp đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tã pháp kết hợp với công tác xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về tã pháp, trong đó có PLHS. Vì
vậy, nghiên cứu dấu hiệu "đà bị xử lý hành chính" nãi riªng,



cũng nhã vấn đề phân biệt giữa tội phạm với vi phạm hành
chính nói chung là cần thiết và có ý nghĩa về mặt lập pháp,
cũng nhã thực tiễn áp dụng pháp luật. Những kết quả nghiên
cứu của đề tài sẽ là đóng góp thiết thực cho việc sửa đổi,
bổ sung hoàn thiện BLHS theo Kế hoạch số 05/2006 ngày
09/3/2006 của Ban chỉ đạo cải cách tã pháp thực hiện NghÞ
qut 49/NQ - TW cđa Bé ChÝnh trÞ.


Xuất phát từ những lý do cơ bản và cấp thiết cả về
phãơng diện lý luận cũng nhã thực tiễn trên đây, cùng với
sự quan tâm, mong muốn tìm hiểu của bản thân, góp
phần phục vụ cho nhu cầu công tác thực tế, tác giả lựa chọn
đề tài: "Dấu hiệu "đà bị xử lý hành chính" trong pháp
luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Kể từ khi BLHS năm 1999 ban hành và có hiệu lực
đến nay đà hơn 6 năm áp dụng trong thực tiễn. Vì vậy, các
quy định về tội phạm và các dấu hiệu trong CTTP của BLHS
không phải là vấn đề mới mẻ trong giới nghiên cứu chuyên
ngành luật hình sự cũng nhã những ngãời làm công tác thực
tiễn. Điều này thể hiện thông qua một số công trình nghiên
cứu có liên quan đến vấn đề này nhã: Những vấn đề cơ
bản trong khoa học luật hình sự (phần chung), NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, PGS. TSKH Lê Cảm, năm 2005; Luật hình sự
Việt Nam (quyển I) Những vấn đề chung, NXB Khoa học xÃ
hội năm 2000 của GS. TSKH Đào Trí úc; Tội phạm và CTTP,
NXB Công an nhân dân, năm 2006, GS. TS Nguyễn Ngọc

Hoà; Luận án tiến sĩ luật học "Ranh giới giữa tội phạm và
không phải là tội phạm trong luật hình sự Việt Nam" năm
2002 của Phạm Quang Huy; Luận án Phã tiÕn sÜ luËt häc
"ChÕ tµi hµnh chÝnh - Lý luận và thực tiễn" năm 1996 của
tác giả Vũ Thã; Các bài đăng trên các tạp chí: "BLHS 1999
với việc quy định đặc điểm về nhân thân là dấu hiệu
định tội" của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, tạp chí Luật học số
06/2001; ĐÃ bị xử phạt hành chính - một quy định trong
BLHS Việt Nam năm 1999 để phân biệt tội phạm với các vi
phạm pháp luật khác" của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, tạp chí
TAND số 01/2003; "Những đảm bảo cần thiết cho việc thi


hành BLHS năm 1999" của tác giả GSTSKH Đào Trí úc, tạp
chí Nhà Nãớc và pháp luật số 01/2001 Tuy nhiên, các công
trình và các bài viết nêu trên chỉ ®Ị cËp ë khÝa c¹nh rÊt
h¹n chÕ vỊ dÊu hiƯu đà bị xử phạt hành chính" với ý
nghĩa là dấu hiệu đãợc dùng để phân biệt tội phạm với các
vi phạm hành chính và là để thu hẹp hoặc mở rộng phạm
vi phải xử lý về mặt hình sự, mà chãa có công trình


nào khái quát đãợc đầy đủ bản chất, mục đích của việc
quy định dấu hiệu này trong PLHS hiện hành để có thể
nhận thấy đãợc những bất cập khi quy định
đặc điểm thuộc về nhân thân ngãời phạm tội là dấu
hiệu định tội. Trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS năm
1999 theo tinh thần Nghị quyết 48/NQ-TW và Nghị quyết
49/NQ-TW của Bộ Chính trị, công trình nghiên cứu này là
chuyên khảo đầu tiên về "Dấu hiệu "đà bị xử lý hµnh chÝnh

" trong PLHS ViƯt Nam - Mét sè vấn đề lý luận và thực tiễn
ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học.
3. Mục đích, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài
Đề tài xác định trọng tâm nghiên cứu là làm sáng tỏ
một số vấn ®Ị lý ln vµ thùc tiƠn xung quanh dÊu hiƯu
“®· bị xử lý hành chính" trong PLHS. Trên cơ sở phân
tích những hạn chế của dấu hiệu " đà bị xử lý hành chính
" cũng nhã những bất cập trong thực tiễn áp dụng đề tài
đãa ra phãơng hãớng và giải pháp hoàn thiện luật hình
sự cũng nhã những căn cứ
để phân biệt tội phạm với vi phạm hành chính nói riêng, vi
phạm pháp luật khác nói chung trong thực tiễn áp dụng
PLHS.
Với mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra cho việc nghiên cứu
đề tài là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về dấu hiệu "đà bị xử lý
hành chính" trong PLHS, làm cơ sở cho việc giải quyết các
vấn đề liên quan đến việc quy
định dấu hiệu này trong PLHS.
- Đánh giá hệ thống PLHS hiện hành và thực tiễn áp dụng của
các cơ quan tiến hành tố tụng về dấu hiệu " đà bị xử lý
hành chính" để đãa ra những căn cứ phân biệt ranh giới


giữa tội phạm và vi phạm hành chính trong mối liên hệ với lý
luận và thực tiễn đấu tranh với tội phạm.
- Đề xuất phãơng hãớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình
sự về căn cứ phân biệt giữa tội phạm và vi phạm hành
chính, đồng thời ở một chừng mực nhất định cũng xem xét

và đề xuất việc hoàn thiện PLHC đối với một số vấn đề liên
quan téi ph¹m.


4. Phãơng pháp nghiên cứu
Để phù hợp với nội dung nghiên cứu và giải quyết đãợc
các nhiệm vụ mà đề tài đà đặt ra. Quá trình nghiên cứu
luận văn, tác giả dựa trên cơ sở phãơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm
phãơng pháp nghiên cứu cơ bản, chủ yếu, kết hợp với các
phãơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành nhã:
phãơng pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh... Trong quá trình triển khai luận văn tác giả đà kết hợp
với những cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh với tội phạm
mà đáng chú ý là từ thời điểm Nhà nãớc ta ban hành BLHS
năm 1999 đến nay.
5. Những đóng góp của luận văn:
Cái mới của luận văn thể hiện trãớc hết ở chỗ, đây là
công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập một cách có hệ
thống và tãơng đối toàn diện về dấu hiệu "đà bị xử lý
hành chính" trong PLHS Việt Nam. Trong luận văn này, tác
giả giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, xác định quan niệm tổng quát về dấu hiệu
đà bị xử lý hành chính" trong PLHS. Qua đó, làm sáng tỏ
sự khác biệt giữa các đặc điểm thuộc về nhân thân ngời
phạm tội, trong đó có đặc điểm" đà bị xử phạt hành chính
với các dấu hiệu khác thuộc về yếu tố chủ thể trong cấu
thành tội phạm.
Thứ hai, khái quát dấu hiệu đà bị xử lý hành chính
trong quá trình hình thành và phát triển của hệ thống

PLHS Việt Nam qua các giai đoạn từ 1945 đến nay. Trên cơ
sở đó đãa ra nhận xét và đánh giá vấn đề phân biệt tội
phạm với vi phạm hành chính trong PLHS ở mỗi giai đoạn,
đặc biệt là hệ thống PLHS hiƯn hµnh.


Thứ ba, trên cơ sở lý luận và thực tiễn phân biệt tội
phạm với vi phạm hành chính theo PLHS hiện hành cũng nh
với thực tiễn áp dụng dấu hiệu đà bị xử lý hành chính
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay,
tác giả lập luận cho việc hoàn thiện ranh giới phân biệt giữa
tội phạm với vi phạm hành chính nói riêng, các vi phạm pháp
luật nói chung, theo hệ thống với các vấn đề sau:


1. Trình bày những yếu tố ảnh hãởng đến việc tội phạm
hóa- phi tội phạm hóa trong PLHS. Từ đó, ®Ị xt téi ph¹m
hãa - phi téi ph¹m hãa mét số hành vi thích ứng với các điều
kiện mới nhằm góp phần hoàn thiện việc quy
định tội phạm cũng nhã ranh giới phân biệt giữa tội phạm
với vi phạm hành chính trong PLHS.
2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số cấu thành cụ thể
trong phần các tội phạm của BLHS nhằm đảm bảo cho việc
áp dụng đúng đắn chế tài, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
3. ở một chừng mực nhất định, làm rõ những hạn chế, khiếm
khuyết về mặt lập pháp cũng nhã thực tiễn áp dụng pháp
luật hành chính hiện hành. Trên cơ sở đó, để nâng cao
khả năng tác động của chế tài hành chính đối với vi phạm
hành chính với tã cách là một trong các biện pháp nhằm hạn

chế phạm vi tác động của TNHS. Tác giả đề xuất một số
vấn đề liên quan đến quy định về vi phạm hành chính và
chế tài hành chính nhằm góp phần hoàn thiện ranh giới
giữa vi phạm hành chính với tội phạm
6. Kết cấu luận văn:
Để phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên
cứu của đề tài, luận văn đãợc chia thành 3 chãơng:
Chãơng 1: Mét sè vÊn ®Ị chung vỊ dÊu hiƯu "®· bị
xử lý hành chính" trong pháp luật hình sự.
Chãơng 2: Dấu hiệu "đà bị xử lý hành chính" trong
lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam và thực tiễn phân biệt
tội phạm với vi phạm hành chính thông qua dấu hiệu này.
Chãơng 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả của việc phân biệt giữa tội phạm với vi phạm hành trong
pháp luật hình sự.


Chãơng 1
Một số vấn đề chung về dấu hiệu
đà bị xử lý hành chính trong pháp luật hình
sự
1.1 Trách nhiệm hành chính và xử lý hành chính
1.1.1 Cơ sở của trách nhiệm hành chính
Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ban hành
năm 2002 quy
định: cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có
vi phạm hành chính do pháp luật quy định. Nh vậy, cơ sở
của việc xử phạt hành chính là có hành vi vi phạm hành
chính đãợc pháp luật quy định. Và khi xác định đúng hành
vi vi phạm (xác định đúng cơ sở xử phạt) thì việc xử phạt

hành chính sẽ đúng, và mới bảo đảm đãợc quyền và lợi ích
hợp pháp của Nhà nãớc, của các tổ chức và cá nhân, đồng
thời mới phát huy đãợc hiệu quả của việc xử phạt, góp phần
giáo dục, phòng ngừa vi phạm, tránh đãợc sự tùy tiện trong
việc xử phạt hành chính.
Thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật hiện nay, "vi
phạm hành chính" thãờng đãợc hiểu theo nghĩa chung
nhất là hành vi vi phạm các nguyên tắc quản lý của Nhà
nãớc nhãng không phải là tội phạm và bị xử lý theo thủ tục
hành chính mà không viện đến Tòa án với các thủ tục tã
pháp.
Trãớc năm 1989, trong các văn bản pháp luật thời kỳ này
chỉ đề cập đến khái niệmvi cảnh. Khái niệmvi cảnh
theo từ điển tiếng Việt[1, tr.1073]
đợc định nghĩa là việc vi phạm luật lệ sinh họat ở nơi
công cộng nh vi phạm quy định về giữ gìn vƯ sinh c«ng


cộng, trật tự công cộng, an toàn giao thông, Còn khái
niệm vi cảnh trong các văn bản pháp luật do Nhà nãớc
ban hành đãợc hiểu rộng hơn, không chỉ là những vi phạm
luật lệ sinh hoạt công cộng mà đãợc hiểu là những vi phạm
nhỏ chãa đến mức hình sự. Theo
Điều 2 Điều lệ về xử phạt vi cảnh thì: vi cảnh đợc định
nghĩa là: những


hành vi xâm phạm đến trật tự an toàn xà hội mà tính chất
đơn giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng, chãa
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chãa đến

mức xử phạt phạt bằng các biện pháp hành chính khỏc là phạm
pháp vi cảnh [2].
Và lần đầu tiên, tại Điều 1 của Pháp lệnh Xử phạt VPHC
ban hành ngày 30/11/1989, khái niệm vi phạm hành chính
đà đợc định nghĩa chính thức,
đó là : hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nãớc mà
không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt hành chính.
Theo định nghĩa này, thì "vi phạm hành chính" có
những dấu hiệu sau
:1/ hành vi có tính trái pháp luật, 2/ Tính có lỗi và 3/ Tính
bị xử phạt hành chính. Nhã vậy, ngoài các dấu hiệu về
mặt khách quan và chủ quan đãợc thể hiện qua định
nghĩa, trong định nghĩa này cũng đà đề cập đến yếu tố
chủ thể của cấu thành vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, định nghĩa trên đây vẫn còn một vài
khiếm khuyết ở chỗ, yếu tố khách thể của vi phạm hành
chính không đãợc thể hiện, vì cụm từ xâm phạm quy
tắc quản lý nhà nớc không phải là khách thể của vi phạm,
mà chỉ là tính trái pháp luật của hành vi. Khách thể của vi
phạm pháp luật phải là quan hệ xà hội chứ không phải là
quy tắc, còn quy tắc chỉ nhằm điều chỉnh các quan
hệ xà hội đó. Thêm nữa, cụm từ mà không phải là tội phạm
rất dễ làm cho chủ thể có thẩm quyền xử phạt hành chính
lầm tãởng mà tự cho mình có quyền đánh giá hành vi vi
phạm pháp luật nào đó là vi phạm hành chính.


Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và năm

2002, vẫn không có bổ sung nội dung nào trong diều luật
qui định về " xử phạt hành chính", thậm chí khái niệm "vi
phạm hành chính" còn không đãợc định nghĩa riêng biệt
mà chỉ đợc qui định chung trong điều luật định nghĩa
Xử phạt hành chính, tức là định nghĩa việc làm chứ
không phải định nghĩa hành vi vi


phạm hành chính mặc dù vi phạm hành chính mới là khái
niệm chủ yếu của văn bản pháp luật này.
Các dấu hiệu đặc trãng của vi phạm hành chính.
Mặt khách quan của vi phạm hành chính
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu
hiện bên ngoài thế giới khách quan của hành vi, bao gồm các
dấu hiệu nhã hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, hậu
quả, mối quan hệ nhân quả, thời gian, địa điểm,
Theo C.Mác, con ngãời chỉ tồn tại đối với pháp luật
thông qua hành vi của mình, những suy nghĩ, tã tãởng
của con ngãời, nếu chỉ dừng lại trong ý thức của ngãời đó
thì chãa thể làm biến đổi các quan hệ xà hội đãợc pháp
luật bảo vệ. Nhã vậy, chỉ bằng hành vi con ngãời mới có khả
năng gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các
quan hệ xà hội thuộc phạm vi cần đãợc pháp luật bảo vệ.
Do đó, hành vi của con ngãời mới chính là đối tãợng điều
chỉnh của pháp luật và là cơ sở pháp lý để nhà nãớc buộc
ngãời thực hiện nó phải chịu sự phán xét của pháp luật. Và
một hành vi sẽ bị coi là vi phạm pháp luật bởi trãớc hết nó
gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xÃ
hội đãợc pháp luật bảo vệ.
Khách thể của vi phạm hành chính

Khách thể của vi phạm hành chính là các quan hệ xÃ
hội đãợc các quy phạm pháp luật hành chính bảo vệ nhãng
bị vi phạm hành chính xâm hại đến.
Khách thể của vi phạm hành chính quy định tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và vì lẽ đó nó
chính là cơ sở để Nhà nãớc quyết định áp dụng các biện
pháp cãỡng chế khác nhau đối với ngãời thực hiện hành vi


xâm hại chúng. Tuy nhiên, nhã đà nói ở trên, trong định
nghĩa trực tiếp (Pháp lệnh năm 1989) cũng nhã gián tiếp, vi
phạm hành chính (Pháp lệnh năm 1995 và năm 2002) đều
không chỉ rõ khách thể vi phạm. Hơn nữa, quy định tính
trái pháp luật của hành vi vi phạm hành chính là trái với quy
tắc quản lý nhà nãớc, chãa hoàn toàn chính xác. Vì quản lý
nhà nãớc nÕu hiĨu theo nghÜa hĐp th× chØ


là những quan hệ xà hội đãợc hình thành trong hoạt động
nội bộ của các cơ quan quản lý Nhà nãớc, còn nếu hiểu theo
nghĩa rộng thì không chính xác vì không phải toàn bộ
các quan hệ quản lý nhà nãớc đều là khách thể của vi
phạm hành chính, mà chỉ những quan hệ xà hội đãợc bảo
vệ bằng biện pháp trách nhiệm hành chính mà thôi, bởi
trong đó, đa số các trãờng hợp thì khách thể của vi phạm
hành chính và tội phạm là đồng nhất. Vì vậy, khách thĨ
cđa VPHC theo chóng t«i, kh«ng chØ cã trËt tù quản lý Nhà
nãớc, mà còn là trật tự Nhà nãớc và xà hội, quan hệ sở hữu
của Nhà nãớc, của tổ chức, cá nhân, quyền tự do và lợi ích
hợp pháp của công dân.

Ch th ca vi phm hnh chớnh:
Ch th ca vi phm hnh chính bao gm: cá nhân v t
chc.
Cá nhân l ngi cha thnh niên, nu thc hiện vi phạm
hành chÝnh th× “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử
phạt hành chÝnh về vi phạm hành chÝnh do cố ý” và chỉ bị
“phạt cảnh cáo, còn ngi t 16 tui tr lên b x phạt hành
chÝnh về mọi vi phạm hành chÝnh do m×nh gây ra, nhng
khi pht tin i vi h thì mc pht tin không c quá mt
phn hai mc pht i vi ngi đà thnh niên. Ngi cha
thnh niên vi

phm hnh chính gây thit hi thì phi bi

thng theo quy nh ca pháp lut, trong trng hp không
có tin np pht thì cha m hoc ngi giám h phi np
thay (Điều 7). Từ ®ã, suy ra người chưa đủ 14 tui thì
không b x pht mà áp dng bin pháp giáo dc.
i cán b, công chc, viên chc nói chung v ngi có
thm quyn nói riêng chu trách nhim hnh chÝnh đối với
những vi phạm hành chÝnh liªn quan đến c«ng vụ. Do vậy,


cán b, công chc nu li dng chc v vi phm hành
chính thì s b áp dng tình tit tăng nặng tr¸ch nhiệm hành
chÝnh (khoản 5 Điều 9 Ph¸p lệnh)


Qu©n nh©n tại ngũ, qu©n nh©n dự bị trong thời gian
tập trung huấn luyện và những người thuộc lực lượng Công an

nhân dân, nu vi phm hnh chính cng b x lý nh i vi
công dân khác. Trong trng hp cần ¸p dụng tước quyền sử
dụng một số giấy phÐp hot ng vì mc ích an ninh, quc
phòng, thì ngi xử lý không trc tip x lý m đề ngh c
quan, n v quân i, công an có thm quyn xử lý theo Điều
lệ kỷ luật.
Tổ chức cũng bị xử lý vi phạm hành chÝnh về mọi hành vi
vi phạm hnh chính do mình gây ra. Sau khi chp hnh
quyt định xử phạt tổ chức bị xử phạt x¸c định cá nhân có li
gây ra vi phm hnh chính x¸c định tr¸ch nhiệm của
người đã theo quy định của pháp lut.
Còn cá nhân, t chc nc ngoi thc hin vi phạm hành
chÝnh trong phạm vi l·nh thổ và thềm lục địa của Việt Nam
th× bị xử lý vi phạm hành chÝnh theo quy định của ph¸p luật
Việt Nam, trừ trường hợp

điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết

hoặc gia nhập cã quy định kh¸c.
Mặt chủ quan của vi phạm hành chÝnh
Trong mặt chủ quan cña VPHC, lỗi là yếu tố bắt buộc. Mỗi
một hành vi tr¸i ph¸p luËt không có ngha l vi phm pháp
lut, nu không xác nh c li ca ch th.
Vy li l thái độ t©m lý của người đối với hành vi và hậu
quả do hnh vi ó gây ra di hình thc c ý hoặc v« ý.
Hành vi VPHC bị coi là lỗi khi nã là kết quả của sự tự lựa
chọn và quyết định của người thực hiện hành vi, trong khi họ cã
đủ điều kiện để quyết định xử sự kh¸c phï hợp với những đßi hỏi
của x· hội. Do đã, lỗi là cơ sở để truy cứu tr¸ch nhiệm ph¸p lý đối



với người thực hiện hành vi VPHC. Việc x¸c định lỗi của người
thực hiện hành vi đồng nghĩa với việc pháp lut không


chấp nhận việc quy định tr¸ch nhiệm ph¸p lý đối với ng•êi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho x· hội m không xác nh c li
ca ngi ó.
Hnh vi có lỗi được thể hiện dưới h×nh thức cố ý hoặc v« ý.
Ở lỗi cố ý, người thực hiện hành vi cã khả năng nhận thức râ về
tÝnh nguy hiểm cho x· hội của hành vi cũng như khả năng
thấy trước được hậu quả sẽ xảy ra bởi hành vi đã.
Lỗi vô ý có th l vô ý vì quá t tin hoc vô ý do cu th.
iểm khác bit trong hai hình thc li ny l li vô ý vì quá
t tin, ngi vi phm nhn thc c tính nguy him v tính
trái pháp lut ca hnh vi nhãng do khinh suốt, chủ quan nªn
cho rằng cã thể ngăn ngừa được hậu quả của hành vi đã. Cßn ở
lỗi v« ý do cẩu thả, người thực hiện hành vi mặc dù có ý thc
la chn hnh vi nhng không có ý thc la chn hnh vi trái
pháp lut.
T những phân tích trên đây cho thấy cơ sở của
trách nhiệm hành chính phải thoả mÃn hai điều kiện: 1/ Vi
phạm hành chính phải đãợc qui định trong một văn bản
pháp luật của nhà nãớc. 2/ Hành vi trên thực tế thoả mÃn các
đặc điểm của vi phạm hành chính đà đãợc qui định trong
luật.
1.1.2
Trách nhiệm hành chính và xử lý hành
chính
Trách nhiệm hành chính

Trách nhiệm hành chính
Theo quan niệm truyền thống, trách nhiệm pháp lý
đãợc hiểu là phản ứng của Nhà nãớc đối với vi phạm pháp
luật (trách nhiệm tiêu cực) và vi phạm pháp luật là cơ sở của
trách nhiÖm.


ở đây, khái niệm trách nhiệm hành chính đãợc xem
xét theo nghĩa hẹp của trách nhiệm pháp lý. Theo đó, trách
nhiệm hành chính là hậu quả của vi phạm hành chính, thể
hiện ở chỗ sự áp dụng bởi cơ quan Nhà nãớc, ngãời có


thẩm quyền những chế tài pháp luật hành chính đối với chủ
thể vi phạm hành chính theo thủ tục do luật hành chính quy
định.
Các đặc điểm của trách nhiệm hành chính:
- Cơ sở của trách nhiệm hành chính là vi phạm hành chính,
do đó, nếu không có vi phạm hành chính thì sẽ không có
trách nhiệm hành chính.
-Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm pháp lý duy
nhất đãợc áp dụng và thực hiện trong quản lý hành chính
Nhà nãớc có tính chất hành pháp.
Đây là đặc điểm dễ phân biệt nó với trách nhiệm pháp
trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ
luật
- Căn cứ áp dụng các hình thức trách nhiệm hành chính là
các quyết
định xử lý vi phạm hành chính, tức là các hình thức trách
nhiệm này chỉ áp dụng trên cơ sở quyết định xử phạt.

- Đối tãợng vi phạm áp dụng trách nhiệm hành chính bao gồm:
cá nhân và tổ chức. Đặc điểm này khác, trách nhiệm hình
sự và trách nhiệm kỷ luật là các chế tài xử phạt chỉ áp dụng
đối với cá nhân.
. Trách nhiệm hành chính đãợc thực hiện bởi nhiều cơ
quan Nhà nãớc có thẩm quyền tiến hành quản lý hành chính
khác với trách nhiệm hình sự và dân sự chỉ do Tòa án áp
dụng. - Các hình thức trách nhiệm hành chính có đặc
điểm, trình tự và thủ tục riêng. Trãớc hết, so với các hình
thức trách nhiệm hình sự, dân sự, các hình thức trách
nhiệm hành chính đãợc áp dụng trong lĩnh vực hành pháp,
do đó trình tự áp dụng không đòi hỏi phức tạp, chặt chẽ


×