Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Dấu hiệu đau đầu do căn nguyên u não (Kỳ I)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.33 KB, 6 trang )

Dấu hiệu đau đầu do căn nguyên u não
(Kỳ I)

Đau đầu có thể là dấu hiệu của các bệnh ở não.
Các nhà phẫu thuật sọ não thường hay phàn nàn về nhiều trường hợp u não
đưa đến quá muộn, xử trí khó khăn và để lại hậu quả nặng nề cho người bệnh. Vậy
làm thế nào để phát hiện được những "dấu hiệu báo động" ban đầu của u não, một
căn bệnh đáng sợ?
Đau đầu - phản xạ nhạy cảm của cơ thể
Đau đầu là triệu chứng mang tính chủ quan, phụ thuộc vào đặc điểm tâm lý,
tính cách và trình độ hiểu biết riêng của từng người bệnh. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu trên thế giới về những đặc điểm đau đầu của từng loại u não để từ đó
thầy thuốc và ngay bản thân người bệnh có thể ban đầu định hướng được phương
cách giải quyết. Có thể nói những đặc điểm của loại đau đầu này được coi như là
những "tín hiệu mang ý nghĩa dự báo" rất hữu ích, từ đó dẫn tới những chỉ định
của các nhà thần kinh học về sử dụng kỹ thuật chẩn đoán hiện đại (chụp cắt lớp vi
tính, chụp cộng hưởng từ và những xét nghiệm cần thiết khác) hay quyết định
những phương cách can thiệp loại trừ khối u trong hộp sọ (quang tuyến liệu pháp,
phẫu thuật sọ não...).
Những triệu chứng chung của đau đầu do u não là gì?
Bất kể vị trí u ở khu vực nào trong não, đau đầu cũng đều mang những tính
chất chung như xuất hiện dội lên thời gian gần đây, dùng thuốc giảm đau thông
thường không có hiệu quả; cường độ và thời khoảng đau đầu dần càng tăng; tính
chất đau đầu: nhức nhối, đau tức, không đau nhói theo mạch nẩy; đau tăng lên bởi
một số yếu tố cơ học (gắng sức thể lực, ho, rặn, đại tiện...), thay đổi tư thế đầu đột
ngột, đau tăng khi đứng hơn là nằm. Thời gian đau: lúc đầu thường phần lớn xảy
ra vào những giờ sáng sớm, sau này có thể đau cả về đêm. Thức giấc dậy, bệnh
nhân đau đầu kéo dài vài phút hoặc vài giờ, sau đó dịu dần. Khi áp lực nội sọ đã
tăng, ở giai đoạn muộn hơn, đau đầu có thể tăng nhanh dần, xuất hiện đột ngột, trở
nên trầm trọng, rồi nhanh chóng đau tới mức độ dữ dội nhất, sau đó mấy phút lại
hết đau, có tính chất từng hồi. Trong thời gian đau cực điểm, có thể xuất hiện rối


loạn tâm thần (lú lẫn, hành động không tự chủ được, nói linh tinh...). Thoát vị
hạnh nhân não có thể xảy ra, biểu hiện lâm sàng bằng triệu chứng co cứng mạnh ở
vùng cổ gáy. Định khu đau đầu, nói chung thường cố định ở khu vực tồn tại khối
u. Chỉ có trường hợp khối u nằm ở vùng giữa hai bán cầu hay ở một vị trí đặc biệt
thì khu trú đau đầu có thể ở cả hai bên, nhưng trội ở một bên hoặc có khi ở bên đối
diện với khối u. Ở giai đoạn muộn, khi đã xuất hiện hội chứng tăng áp nội sọ thì
đau đầu dần lan toả ra toàn bộ đầu.
Đau đầu liên quan đến vị trí khối u như thế nào?
- U dưới lều tiểu não (u hố sọ sau) thường rất hay sinh ra đau đầu. Đau trội
rõ ở trong gáy, thường hay khu trú ở bên có tổn thương và kèm theo co cứng các
cơ ở gáy cùng bên, làm cho gáy phải giữ "tư thế bất tiện". Chứng đau đầu này
thường hay đau tăng trội lên vào buổi sáng, luôn kèm theo nôn và chóng mặt, là
những dấu hiệu định hướng quan trọng cho chẩn đoán. Khám đáy mắt, có thể thấy
một yếu tố chẩn đoán quan trọng; ứ phù đĩa thị do có tăng áp nội sọ sớm. Chụp
động mạch sống nền, thường có hình ảnh các mạch máu bị đẩy gián tiếp.
- U bán cầu tiểu não biểu hiện bằng những triệu chứng khu trú tiểu não và
nôn. Muộn hơn, khi u phát triển, di lệch chèn vào những cấu trúc ở khu vực giữa
hai bán cầu thì các biểu hiện lâm sàng sẽ giống như những u đường giữa, gây nên
những triệu chứng nghẽn tắc đường lưu thông dịch não - tủy.
- U thùy gian của tiểu não là loại u đường chính giữa, thường có triệu
chứng cả hai bên, khi u phát triển to thì thường đè vào não thất số IV.
- U não thất IV cũng thuộc loại u đường chính giữa, có thể gây ra nôn nhiều
do vị trí u gần trung tâm nôn (nhân của dây thần kinh số X). Các u não thất IV cỡ
lớn hầu như đều gây cứng gáy và co rút đầu theo một tư thế cố định (nghiêng phải,
nghiêng trái, cúi đầu xuống, ngửa đầu ra sau, buộc bệnh nhân phải nằm một
chiều), nhưng thường không gây đau đầu. Đau đầu chỉ xảy ra trong hội chứng
Brun với biểu hiện các triệu chứng: khi người bệnh đang nằm mà ngồi dậy thì xuất
hiện cơn chóng mặt đột ngột kèm theo đau đầu, nôn mửa, khó thở, có khi ngất đi.
- U thân não, thường là u hành tủy hoặc cầu não Varole, không có hội
chứng tăng áp nội sọ, chỉ tê liệt nửa người bên đối diện, thương tổn nhiều nhân

dây thần kinh sọ não và thường không gây đau đầu.
- U lỗ chẩm có triệu chứng đau đầu nổi bật khu trú ở phía sau đầu và cổ kéo
dài hàng tháng, hàng năm. Đau đầu dữ dội, trội lên khi gắng sức như ho, hắt hơi
hay những gắng sức tương tự. Những u này có thể gây nên tắc nghẽn cách hồi
dòng lưu thông dịch não - tủy, giống như những u não thất.
U trên lều tiểu não

Hình ảnh khối u não trên phim MRI.
Trong u bán cầu đại não, đau đầu có tỷ lệ tương đối ít hơn, chỉ gặp trong
30-40% trường hợp, có khi tới 52%. Đó là vì tầng trên lều hộp sọ có dung tích lớn
hơn và khối u phát triển dễ dàng ở đó lâu dài, lại xa hệ thống não thất. Do vậy nên
có nhiều triệu chứng thần kinh xuất hiện trước khi đau đầu như: những cơn động
kinh có ổ (động kinh cục bộ) hay động kinh toàn bộ (động kinh cơn lớn), hội
chứng rối loạn cảm giác, giác quan, hay mất ngôn ngữ đã dần dần phát triển từ lâu.
Trường hợp u ép vào hành khứu sẽ gây nên chứng mất ngửi. Nói chung, đau đầu
của u bán cầu đại não thường ở vị trí trán - thái dương, hay thái dương- đỉnh và
cùng bên với khối u. Khi khám, dùng ngón tay ấn mạnh có thể gây đau chính ngay
tại chỗ đối chiếu với khối u. Ghi điện não thường cho những dấu hiệu quý và sớm
dưới thể tổn thương khu trú kiểu sống chẩm (tổn thương chẩm) hay sóng nhọn.

×