1
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến
Ngày nay, khi cơng nghệ thơng tin càng phát triển thì việc phải ứng dụng
công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực
giáo dục đào tạo, công nghệ thông tin đã và đang được ứng dụng trong công tác
quản lý, giảng dạy, học tập. Mặt khác, với sự hỗ trợ của công nghệ, giáo viên sẽ
trở thành những người mở đầu trong công cuộc cải cách giáo dục trên toàn thế
giới.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, cơng nghệ thơng tin có tác dụng mạnh
mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. Công nghệ thông tin là
phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”.
Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trị quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của công nghệ thông tin thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho công
nghệ thông tin. Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học
theo hướng dẫn học như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương
pháp dạy học ở các môn”. Nhưng làm thế nào để ứng dụng công nghệ thông tin
hiệu quả trong các tiết dạy. Đặc biệt là đối với bộ môn Lịch sử - một môn học
tương đối là trừu tượng với nhiều hình ảnh liên quan, nhiều tư liệu lịch sử không
thể hiện hết trong các bài học của sách giáo khoa. Đó là vấn đề mà bất cứ một
giáo viên nào cũng gặp khó khăn khi giảng dạy môn Lịch sử. Nhất là trong giai
đoạn đổi mới sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát
huy năng lực của học sinh lại khó thêm khó.
Vì những lí do trên, tơi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Biện pháp ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học môn Lịch sử lớp 5 theo hướng phát triển
năng lực” nhằm chia sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm mà bản thân có được
trong quá trình giảng dạy.
2. Mục tiêu của sáng kiến
Mục tiêu, nhiệm vụ mà đề tài này hướng tới chính là khơi dậy năng lực tư
duy sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh trong giải quyết các vấn đề.
Hình thành cho học sinh năng lực thuyết trình, tự tin đứng trước lớp trình
bày một sự kiện, diễn biến lịch sử.
Giúp giáo viên có một số biện pháp để dạy tốt hơn phân môn Lịch sử. Đồng
thời trang bị, cung cấp cho học sinh những biện pháp để học tốt môn Lịch sử, từ đó
khơi dậy niềm đam mê và yêu thích lịch sử. Điều đó góp phần tạo cho học sinh
biết quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, bồi dưỡng lịng u nước, tự hào, ghi
nhớ cơng ơn của tổ tiên, những người có cơng với Tổ quốc.
3. Phạm vi của sáng kiến
- Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học môn Lịch sử ở lớp 4, 5.
2
- Không gian: Sáng kiến được áp dụng tại lớp 5C, trường Tiểu học Tú Mịch.
- Thời gian: Sáng kiến được thực hiện từ năm học 2021 - 2022, từ tháng
9/2021 đến tháng 3/2022.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được thực
hiện ở tất cả các trường tiểu học trong cả nước. Đây là con đường giúp học sinh
tiếp cận với tri thức mới, nhằm thay đổi cách dạy học truyền thống “thầy giảng trò
nghe, thầy đọc trò chép”.
Theo quan điểm dạy học mới, dạy học là quá trình học sinh tự khám phá, tự
tìm ra chân lí. Phương pháp dạy mơn Lịch sử cũng khơng nằm ngồi định hướng
đó, đặc trưng nổi bật của nhận thức lịch sử là con người khơng thể tri giác trực tiếp
những gì thuộc về q khứ. Lịch sử là những việc đã diễn ra, là hiện thực trong q
khứ, nó tồn tại khách quan khơng thể phán đốn, suy luận. Vì vậy nhiệm vụ tất yếu
của dạy môn Lịch sử là phải tái hiện lại bức tranh lịch sử, cho học sinh tiếp cận
những thông tin từ sử liệu, tiếp xúc những chứng cứ, những dấu vết của quá khứ.
Tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các nhân vật, sự
kiện lịch sử. Đây là môn học không chỉ có tác dụng quan trọng trong việc phát
triển trí tuệ mà cịn giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho thế hệ trẻ.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) chỉ rõ: “Để nền giáo dục phát
triển bền vững, xây dựng lớp thế hệ trẻ có đủ đức, tài” thì bên cạnh các mơn khoa
học tự nhiên, cần coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là
Tiếng Việt, Lịch sử và Địa lý. Nhưng trong thực tế, một bộ phận giáo viên và cả
học sinh vẫn còn những nhận thức chưa đúng về mơn Lịch sử, xem nhẹ vai trị
của Lịch sử, thờ ơ với môn học này dẫn đến chất lượng dạy và học không cao.
Như vậy muốn đào tạo con người phát triển tồn diện thì vấn đề cấp thiết là thay
đổi cách dạy, cách học môn Lịch sử.
2. Cơ sở thực tiễn
Dân tộc Việt Nam có một lịch sử lâu đời với nhiều thành tựu và chiến công
huy hoàng rất đáng tự hào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân u
của mình. Như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Đã là người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử nước mình vì đó là
đạo lí mn đời của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”. Thông qua môn Lịch Sử học
sinh tiếp nhận những nét đẹp của đạo đức, của đạo lí làm người Việt Nam; vì chính
đó là cái gốc của mọi sự nghiệp lớn hay nhỏ của dân tộc không phải chỉ ở thời xưa
mà cả ngày nay và mai sau.
Xuất phát từ thực tiễn dạy và học lớp 4, lớp 5 nhiều năm tôi nhận thấy
rằng khi dạy phân môn Lịch sử, giáo viên và học sinh học phương pháp dạy
3
học cũ, thụ động, chưa tích cực trong học tập. Trong thời đại phát triển của
công nghệ thông tin giáo viên đã áp dụng vào dạy học nhiều nhưng kết quả
chưa được cao. Nhiều giáo viên chỉ biết đưa ra những hình ảnh minh họa cho
bài dạy nhưng khơng biết khai thác hình ảnh đó như thế nào hoặc chưa biết
làm các hiệu ứng khi dạy các kiểu bài có lược đồ, sơ đồ, chiến dịch... để làm
cho giờ dạy có hiệu quả.
Mơn Lịch sử là mơn học tương đối khó với các em học sinh lớp 4, lớp 5.
Nhưng hiện nay, khơng ít giáo viên vẫn cịn xem nhẹ, khơng coi trọng mơn Lịch sử
vì nghĩ rằng đó chỉ là môn phụ. Mặt khác môn Lịch sử vẫn chưa lôi cuốn được các
em khiến các em chỉ học thuộc lịng đối phó, để trả bài, trong đầu thì trống rỗng,
khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng khái qt hóa cịn
yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm mà các nhân vật, mốc lịch sử, sự kiện
lịch sử lại nhiều nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc (dễ nhớ nhưng
lại mau quên).
Nhiều thanh niên không biết Phan Bội Châu là ai, Hàm Nghi là vua nước
Trung Quốc hay anh La Văn Cầu, Phan Đình Giót đã có những hành động dũng
cảm nào và không biết ngày sinh của Hoàng Văn Thụ… Hoặc những sự kiện lịch
sử, chiến dịch mà tên gọi có chút liên quan như Chiến dịch biên giới, Chiến dịch
Điện Biên Phủ, Chiến dịch Việt Bắc ... nhiều khi cũng làm học sinh lúng túng.
Nhiều học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên không biết về các nhân vật, sự kiện lịch
sử được đặt tên cho các khu phố mà họ đang sống. Ngay cả một số em học sinh
cũng không biết tại sao Ải Chi Lăng, đèo Bơng Lau hay di tích Bắc Sơn lại là di
tích lịch sử của tỉnh Lạng Sơn.
Mặt khác, kĩ năng kể, tường thuật các sự kiện lịch sử của học sinh cịn chậm,
chưa lưu lốt vì các em khơng nhớ. Do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình
chung của mơn học. Tinh thần hợp tác trong giờ học chưa cao, nhiều em chưa tự
tin, học thụ động mặc dù bản thân tôi đã chú ý đến việc đổi mới các phương pháp
dạy học. Phải chăng đó là do giáo viên chưa tìm ra được các giải pháp, các phương
pháp hay khi dạy Lịch sử? Các phương pháp mà giáo viên thường sử dụng cịn
mang tính truyền thống, chưa phát huy hết tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong
học tập của học sinh. Cách thức tổ chức cho học sinh học tập còn lúng túng, chủ
yếu là giáo viên giảng giải, thuyết trình. Vì thế giờ học không sôi nổi, học sinh cảm
thấy nhàm chán, mệt mỏi, uể oải với giờ học Lịch sử, kiến thức không được khắc
sâu nên các em thường rất nhanh quên.
Trước thực trạng đó, tơi đã rất trăn trở trong việc đổi mới phương pháp dạy
học, làm thế nào để các em hứng thú trong học tập? làm thế nào để các em học sử
mà thấy mình như đang sống trong giai đoạn lịch sử đó? làm thế nào để giáo viên
có thể giúp học sinh tái tạo lịch sử? nếu chỉ dựa vào kênh chữ, kênh hình trong
sách giáo khoa, tranh ảnh, lược đồ được cấp thì vẫn chưa thể giúp các em hứng thú
trong các tiết học môn Lịch sử. Đó cũng chính là lí do thúc đẩy tơi chọn đề tài
“Biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Lịch sử lớp 5
theo hướng phát triển năng lực” làm đề tài nghiên cứu.
4
III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Nội dung và những kết quả nghiên cứu của sáng kiến:
Mặc dù đã rất nỗ lực cố gắng vận dụng linh hoạt các phương pháp như:
phương pháp trực quan, phương pháp đàm thoại, phương pháp thảo luận nhóm,
cặp,…nhưng hiệu quả của tiết Lịch sử cịn nhiều hạn chế. Học sinh chưa hứng thú
với môn học, điều đó làm tơi băn khoăn, suy nghĩ phải làm thế nào để khơi dậy sự
hứng thú của học sinh, làm thế nào để khơi dậy niềm đam mê của học sinh, làm thế
nào để khơng khí lớp học trở nên vui vẻ hơn đối với giờ học môn Lịch Sử. Từ
những giải pháp mà bản thân đã thực hiện ở trên cũng như những băn khoăn trăn
trở đó, tơi đã tích cực tìm tịi, nghiên cứu thực nghiệm thêm những giải pháp mới
sau:
1.1. Ứng dụng công nghệ thông tin để dạy các dạng bài có nội dung về
tình hình kinh tế chính trị - kinh tế văn hóa xã hội.
Đây là dạng bài học có tính trừu tượng, khó hình dung đối với học sinh tiểu
học. Với dạng bài này, giáo viên có thể cung cấp tư liệu là đoạn phim, tranh ảnh để
học sinh dễ dàng hình dung hơn bối cảnh lịch sử, sự kiện lịch sử liên quan. Mặt
khác, dạng bài này không chỉ sắp xếp kiến thức thành từng ý gợi mở vấn đề rồi tổ
chức dẫn dắt học sinh tìm hiểu thơng qua đàm thoại, giáo viên cần phải khai thác
triệt để nội dung trong sách giáo khoa, trong các tài liệu tham khảo để làm cho bài
giảng thêm phong phú, sinh động.
Ví dụ: Khi dạy “Bài 11: Vượt qua tình thế hiểm nghèo”.
Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm đơi để tìm hiểu tình hình
nước ta sau cách mạng tháng Tám như thế nào. Sau đó đại diện một số cặp báo
cáo. Giáo viên nhận xét, chốt ý và có thể giới thiệu thêm một số hình ảnh của nước
ta sau cách mạng tháng Tám. Đó chính là hình ảnh về nạn đói và nạn dốt sau cách
mạng tháng Tám.
Hình 1: Nhân dân qun góp - phát
gạo
Hình 2: Những lớp học 'có một
khơng hai' thời bình dân học vụ.
5
Cũng từ những hình ảnh đó, giáo viên cho học sinh liên hệ thực tế tại nhà
trường, lớp học (Hằng năm nhà trường phát động phong trào quyên góp Hũ gạo
tình thương, Thực hiện tuần lễ học tập suốt đời). Đồng thời giáo dục các em về
tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết và tinh thần học tập.
Sau khi học sinh nắm được tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám
(Khó khăn chồng chất: Các đế quốc, các thế lực phản động chống phá cách mạng;
lũ lụt, hạn hán, nơng nghiệp đình đốn dẫn tới nạn nói, nạn dốt... trong tình thế
“Nghìn cân treo sợi tóc”) và nắm được Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gì để giải
quyết nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm (Lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “Ngày
đồng tâm”, Kêu gọi tăng gia sản xuất với khẩu hiệu: “Không một tấc đất bỏ
hoang!”, “Tấc đất tấc vàng”, phát động “Tuần lễ vàng”, phát động phong trào
xóa nạn mũ chữ; Ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo...). Ở phần nội dung này, tôi đã
tìm được một video tư liệu bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng sau cách
mạng tháng Tám của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đoạn phim giới thiệu rõ nét vì sao
phải xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về
tài chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó, giúp học sinh nắm rõ hơn về kết quả
của những biện pháp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra, nhằm giúp đất nước
khắc phục khó khăn (từng bước đẩy lùi “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm).
Hoặc khi dạy “Bài 21: Nhà máy hiện đại đầu tiên của nước ta”
GV hướng dẫn HS nắm được bài: Tôi cũng tổ chức cho học sinh thảo luận
nhóm đơi để tìm hiểu nhiệm vụ và hồn cảnh ra đời của nhà máy cơ khí Hà Nội?
sau đó đại diện một số cặp báo cáo, giáo viên nhận xét, chốt ý.
Khi HS đã nắm được nhiệm vụ và hoàn cảnh ra đời của nhà máy cơ khí Hà
Nội? (Sau hiệp định Giơ-ne-vơ miền Bắc bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã
hội làm hậu phương lớn cho cách mạng miền Nam; Đảng và Chính phủ quyết định
xây dựng một nhà máy cơ khí hiện đại ở miền Bắc, làm nịng cốt cho ngành cơng
nghiệp nước ta; nhà máy Cơ khí Hà Nội ra đời).
Tiếp đến, tơi cho HS tìm hiểu q trình xây dựng và những đóng góp của
nhà máy cơ khí cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc (Từ tháng 12/1955 đến
tháng 4/1958; địa điểm phía tây nam thủ đơ Hà Nội với diện tích 10 000 mét
vng; quy mơ lớn nhất khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ; nước giúp đỡ xây
dựng: Liên Xô; các sản phẩm: máy phay, máy tiện, máy khoan ... tiêu biểu là tên
lửa A12). Sau phần này, tôi đã sưu tầm được đoạn phim giới thiệu về cơng ty Cơ
khí Hà Nội. Cơng ty Cơ khí Hà Nội chính là nhà máy Cơ khí hiện đại đầu tiên của
nước ta, đoạn phim giới thiệu rõ nét về nhiệm vụ và các sản phẩm của nhà máy.
Qua đó giúp HS hiểu được tầm quan trọng của nhà máy (giúp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh bảo vệ tổ quốc).
1.2. Ứng dụng CNTT để tường thuật diễn biến lịch sử
Phương pháp chủ đạo của dạng bài này là miêu tả kết hợp với lược đồ,
bản đồ để tìm hiểu diễn biến. Học sinh thường quan sát lược đồ kết hợp nghe giáo
viên trình bày về diễn biến của cuộc kháng chiến hay chiến thắng đó,việc làm này
6
không gây hứng thú cho học sinh, nhiều em rất sợ khi thầy giáo gọi lên trình bày
lại diễn biến, dù chỉ là nêu lại các ý chính của sự kiện mà tạo nên tâm lý sợ sệt, e ngại.
Để khắc phục khó khăn đó, tơi đã tạo hiệu ứng cho các lược đồ này để tập
trung sự chú ý của học sinh và giúp các em nắm được những sự kiện chính của
bài. Trước hết là hiệu ứng cho phần chú giải, màu sắc, hình dạng mũi tên, vị trí
các địa danh,…trên lược đồ. Sau đó, tơi tạo hiệu ứng di chuyển hoặc xuất hiện
các mũi tên cho phù hợp với diễn biến của cuộc kháng chiến, khởi nghĩa hay
chiến dịch,…
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy với cách làm này, học sinh theo dõi
tập trung cao hơn, hứng thú hơn. Và bước đầu, học sinh đã có thể nắm chắc trình
tự của các sự kiện chính, dần dần các em nắm chắc hơn phần diễn biến. Đối với
đối tượng là học sinh trên chuẩn, các em đã biết thuật lại diễn biến của cuộc
kháng chiến, khởi nghĩa, chiến dịch,…tương đối chính xác.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về cuộc phản công ở kinh thành Huế, tôi kể cho học
sinh nghe kết hợp dùng các hình ảnh minh họa đã sưu tầm trên mạng như sau:
Hình ảnh súng thần công
Lược đồ chiến trường Huế
Cách khác, tôi tạo hiệu ứng xuất hiện các chấm đỏ (tương ứng mỗi chấm đỏ
xuất hiện trên màn hình là một địa danh – nơi xảy ra cuộc phản công cho đến khi
kết thúc). Cùng với hiệu ứng trên lược đồ là lời thuyết trình của giáo viên về diễn
biến của cuộc khởi nghĩa.
Lưu ý: Là một câu chuyện, nên giáo viên cần hướng dẫn học sinh tường
thuật bằng lời nói khơng chỉ lưu lốt rõ ràng, mà cịn phải thể hiện tình cảm của
mình theo kịch tính của câu chuyện. Mở đầu bài tường thuật, giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh trình bày với nhịp độ vừa phải, nói diễn cảm để thu hút người
khác vào ngay câu chuyện. Trình bày tình tiết các sự kện, diễn biến thông qua từ
ngữ gợi cảm, gợi tả thể hiện âm thanh, màu sắc, cử chỉ, động tác của con người cụ
thể, với ngữ điệu nói cao dần, giáo viên tạo cho học sinh xúc động sâu sắc về
những gì mà các em hình dung được, tạo cho các em cảm giác dường như đang
7
sống, tham dự, chứng kiến sự kiện đang xảy ra. Đến chỗ tình tiết phát triển cao thì
phải hơi lên giọng, nhịp điệu vừa phải nhưng cần thiết nhấn mạnh những từ ngữ có
hình ảnh để khắc sâu như: Làm cho học sinh hồi hộp theo dõi câu chuyện; Khi tình
tiết giảm đi thì nhịp điệu nói phải hơi nhanh, hơi hạ giọng. Kết thúc phải nói với
nhịp độ vừa phải, hạ giọng và nhấn mạnh khi trình bày về kết quả tốt đẹp của trận
chiến đấu, gây ấn tượng sâu sắc cho học sinh.
Hoặc bài: “Chiến thắng biên giới thu – đông năm 1950”
Nếu chỉ cho học sinh mô tả trận chiến trên lược đồ trong sách thì chỉ theo
dõi được trong nhóm, cịn các nhóm khác khơng thể nhận xét được nhóm bạn. Bởi
vậy giáo viên có thể sử dụng hình ảnh trên máy chiếu để học sinh mô tả, nhận xét
lẫn nhau, đồng thời giới thiệu đồn Đông Khê cho học sinh quan sát.
Đồn Đông Khê
Lược đồ chiến dịch biên giới thuđơng 1950
Qua hình ảnh trên máy, học sinh thấy được đồn Đông Khê là một cứ điểm
được xây dựng bằng đá tạo thành các lô cốt chắc chắn, từ đó học sinh cảm nhận
được anh La Văn Cầu thực hiện nhiệm vụ bộc phá vào lô cốt phía đơng bắc cứ
điểm Đơng Khê.
Cách khai thác các hình ảnh trên máy như vậy học sinh sẽ được theo dõi
diễn biến của sự kiện lịch sử trên màn hình, giống như đang được xem một bộ
phim với hình ảnh sinh động nên các em sẽ dễ nhớ, dễ hiểu và hứng thú học tập.
Còn đối với “Bài 17: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ”
GV cần kết hợp trực quan với tường thuật để tái hiện 3 đợt tấn công của
quân ta vào Điện Biên Phủ (sử dụng lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ - giáo
viên vừa tường thuật vừa chỉ trên lược đồ) cụ thể như sau:
Tôi tạo hiệu ứng cho nội dung phần chú giải xuất hiện trước để học sinh xác
định rõ hơn khi theo dõi diễn biến. Sau đó là hiệu ứng các mũi tên tương ứng trong
lược đồ, xuất hiện theo lời giảng của giáo viên. Ở đây, tôi lựa chọn hiệu ứng xuất
hiện và “nhấp nháy” bằng cách bấm chuột để phù hợp với tốc độ trình bày của giáo
viên. Khi thấy những mũi tên trên lược đồ di chuyển, các em rất hào hứng và tập
8
trung hơn khi tơi trình bày phần diễn biến. Đối với đối tượng học sinh đại trà có
thể trình bày một cách đơn giản diễn biến của trận chiến, còn với học sinh trên
chuẩn thì biết cách kể lại một cách chi tiết hơn, sinh động hơn. Khi yêu cầu học
sinh trình bày diễn biến, giáo viên có thể quay lại slide và để học sinh thao tác với
máy tính. Các em vừa trình bày nội dung vừa thao tác với các hiệu ứng. Điều đó
giúp các em hào hứng hơn trong giờ học vì em nào cũng muốn được lên sử dụng
máy.
1.3. Ứng dụng CNTT để miêu tả một sự vật lịch sử
Đối với bài học về nhân vật lịch sử, việc đầu tiên tơi làm là tìm hình ảnh
(tranh vẽ hoặc chân dung) nhân vật lịch sử đó để giúp học sinh hình dung về diện
mạo của nhân vật. Sau đó là những thơng tin liên quan đến nhân vật lịch sử đó
(Sinh ra khi nào? Ở đâu? Làm gì? Có đặc điểm, tính cách gì nổi bật? Đời sống nội
tâm, tư tưởng, tình cảm thế nào? Tài năng, đức độ ra sao?....)
Ví dụ: Khi dạy Bài 6: Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Ở hoạt động 1
tìm hiểu về quê hương, gia đình và thời niên thiếu của Nguyễn Tất Thành. Nếu
thầy cô chỉ kể chuyện giới thiệu theo sách mà khơng có hình ảnh minh họa thì học
9
sinh sẽ khó hình dung về hình ảnh q hương, gia đình và Nguyễn Tất Thành thời
niên thiếu. Bởi vậy tơi đã sử dụng hình ảnh tư liệu kết hợp với kể chuyện.
Quê Bác
Thân phụ của Nguyễn Tất Thành là
cụ Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929)
Nguyễn Tất Thành
Thân mẫu của Nguyễn Tất Thành là
cụ Hoàng Thị Loan (1868-1900)
Khi miêu tả giáo viên phải diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, thể hiện thái độ, tình
cảm của mình đối với sự vật miêu tả. Khi miêu tả những sự vật phức tạp, ngữ điệu
của giáo viên phải chậm hơn lúc tường thuật, có những chỗ ngắt giọng ngắn, thỉnh
thoảng giáo viên đặt câu hỏi “tại sao” để học sinh suy nghĩ (song không nhất thiết
yêu cầu các em phải trả lời). Cách giảng như vậy khơng đơn điệu, buồn tẻ mà khơi
gợi sự tị mò, hiểu biết của học sinh. Các em theo dõi một cách hứng thú, phát huy
được năng lực tư duy và tiếp thu sự kiện một cách dễ dàng.
Trên cơ sở khai thác những nội dung đó giáo viên giáo dục tư tưởng, tình
cảm, thái độ cho học sinh về lịng biết ơn, sự khâm phục, kính phục đối với nhân
vật lịch sử.
10
1.4. Ứng dụng CNTT để tìm hiểu tài liệu tham khảo, hình ảnh lịch sử.
Lịch sử là những nội dung, những sự kiện của quá khứ. Bởi vậy không
phải ai cũng nhớ, không phải ai cũng biết. Khi dạy cho học sinh cũng đồng
nghĩa với việc ta trở lại quá khứ, mặt khác có những nội dung ( như chiếu Cần
Vương, bản Tuyên ngôn Độc lập, hiệp định Pa-ri ...) thầy và trò chưa một lần
được đọc, làm sao mà dạy, làm sao mà học. Khơng cịn cách nào khác là tra cứu
trên mạng rồi tải về trình chiếu cho HS đọc qua.
Ví dụ khi dạy bài 3: “Cuộc phản cơng ở kinh thành Huế”
Ở hoạt động tìm hiểu về “Phong trào cần vương” GV hướng dẫn HS tìm
hiểu nội dung bài theo cặp và báo cáo, GV nhận xét, chốt lại. HS nắm được Sau
khi cuộc phản công ở kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết đã làm gì? (Sau
khi cuộc phản cơng ở kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm
Nghi lên vùng rừng núi Quảng Trị để tiếp tục kháng chiến. Tại đây, ông đã lấy
danh nghĩa vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cả nước đứng
lên giúp vua). Sau phần này tơi đã lên mạng tải hình ảnh chiếu Cần Vương để trình
chiếu cho HS xem rồi cho HS đọc qua nội dung.
Chiếu Cần Vương
1.5. Ứng dụng cơng nghệ thơng tin để tổ chức trị chơi trong dạy học
môn Lịch sử.
Môn Lịch sử là một môn học khó nhớ, học sinh lúc nào cũng căng thẳng để
suy nghĩ. Chính vì vậy, giáo viên cần thay đổi khơng khí lớp học giúp cho giờ
học đạt hiệu quả hơn. Phương pháp tích cực để thay đổi khơng khí giảm bớt căng
thẳng cho học sinh chính là tổ chức trị chơi học tập, có thể sử dụng cơng nghệ
thơng tin để tổ chức các trò chơi sau: Trò chơi “Buộc dây cho bóng”, trị chơi “Ai
nhanh, ai đúng”, trị chơi “Ơ chữ kì diệu”, “Rung chng vàng”,…
11
Ví dụ trị chơi “Ai nhanh, ai đúng” được tổ chức như sau:
Mục đích của trị chơi “Ai nhanh, ai đúng” là giúp học sinh nhớ nhanh được
các sự kiện lịch sử, thời gian và địa danh lịch sử ngay sau khi học Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời.
Giáo viên cần chuẩn bị các câu hỏi liên quan trong phạm vi bài học, các câu
hỏi và đáp án đều được chuẩn bị đủ trên giáo án điện tử.
Cách tiến hành: Chơi theo tổ, mỗi tổ được lựa chọn câu hỏi 3 lần, trả lời
đúng 1 câu trong 10 giây được 10 điểm, nếu đội lựa chọn không trả lời được đội
kia giành quyền trả lời, nếu đúng được 10 điểm, sai bị trừ 5 điểm. (Trị chơi này có
thể áp dụng cho tất cả các bài học khi củng cố kiến thức).
1
2
3
4
5
6
Câu hỏi 1: Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước vào thời gian nào?
Câu hỏi 2: Trên con tàu ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành lấy tên là gì?
Câu hỏi 3: Nêu tên ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam?
Câu hỏi 4: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào thời gian nào?
Câu hỏi 5: Hội nghị thành lập Đảng diễn ra ở đâu?
Câu hỏi 6: Ai là người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam?
Với trò chơi này học sinh có thể chọn bất kỳ ơ chữ nào, khơng nhất thiết
máy móc chọn lần lượt các ơ chữ. Trị chơi này có thể tổ chức chơi cá nhân hoặc nhóm.
Hoặc trị chơi: “Ơ chữ kì diệu” được tổ chức chơi như sau:
- Mục đích: Củng cố kiến thức về thời gian, nhân vật và sự kiện lịch sử về
nội dung Bài 14: Thu – đông 1947, Việt Bắc “mồ chôn giặc Pháp”.
- Chuẩn bị: các ô chữ, các câu hỏi và đáp án trên giáo án điện tử (màn hình)
- Cách tiến hành: Ơ chữ gồm 8 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc. Cả lớp chia
thành 4 đội chơi. Các đội chơi lần lượt chọn từ hàng ngang, giáo viên sẽ đọc gợi ý
về các từ hàng ngang, đội chơi nhanh chóng đưa ra câu trả lời. Nếu sai hoặc sau 30
giây khơng có câu trả lời thì đội khác được quyền đốn. Mỗi từ hàng ngang được
10 điểm, từ hàng dọc được 30 điểm. Trò chơi kết thúc khi có đội tìm ra từ hàng
dọc. Đội nào có điểm cao hơn thì đội đó thắng.
- Nội dung ô chữ và gợi ý cho từng ô chữ:
1. Đây là nơi quân Pháp nhảy dù xuống bị quân ta phục kích. (Chợ Mới)
2.Tháng 10/1947 thực dân pháp tấn công tại nơi này. (Việt Bắc)
3. Tên một trận địa góp phần chiến thắng Việt Bắc. (Mai phục)
4. Đây là nơi giặc rơi vào trận địa mai phục của quân ta. (Bình Ca)
5. Tại đây tàu chiến và ca nơ Pháp bị đốt cháy trên dịng sơng Lơ. (Đoan Hùng)
12
6. Tên một đèo ở căn cứ địa Việt Bắc. (Bông Lau)
7. Tên một thị xã mà quân địch đã nhảy dù xuống. (Bắc Kạn)
8. Thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc vào mùa nào. (Thu đơng)
Thiết kế trị chơi này trên máy chiếu sẽ không mất nhiều thời gian, cả âm
thanh như tiếng vỗ tay khen khi học sinh trả lời đúng. Học sinh có thể tự lựa chọn
câu hỏi.
Trị chơi " Đốn tên nhân vật"
Mục đích: Giúp học sinh nhớ được tên, một số đặc điểm và tính cách tiêu
biểu của các nhân vật lịch sử.
Chuẩn bị: Hình ảnh 1 nhân vật lịch sử, các mảnh ghép có các câu hỏi (trên
máy chiếu).
Cách chơi: Chơi cả lớp hoặc theo nhóm.
Chia ảnh nhân vật thành 6 mảnh ghép ứng với 6 câu hỏi, học sinh tự lựa
chọn mảnh ghép, giáo viên đọc câu hỏi và sau thời gian suy nghĩ là 30 giây học
sinh phải đưa ra câu trả lời. Nếu trả lời đúng một câu hỏi ở một mảnh ghép các
em sẽ được 10 điểm. Sau 6 mảnh ghép học sinh phải đoán được tên nhân vật đó
thì số điểm ở 6 mảnh ghép mới được chấp nhận. Nếu đốn được tên nhân vật lịch
sử đó sẽ ghi được 30 điểm. Học sinh hay nhóm nào được nhiều điểm hơn sẽ
giành phần thắng cuộc.
Tác dụng của trò chơi này: Thể hiện được các mảnh ghép và các câu hỏi
sau mỗi tấm ghép mà giáo án truyền thống khơng thể hiện được. Hơn thế nữa trên
màn hình thể hiện rõ hình ảnh đẹp, dễ quan sát cho học sinh.
Trò chơi: " Đố vui lịch sử" được tổ chức như sau:
Mục đích: Giúp học sinh củng cố về thời gian, nhân vật lịch sử.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị hệ thống câu đó, lời giải trên máy.
Cách tiến hành: Cả lớp cùng tham gia. Cuối giờ học giáo viên lần lượt đưa
ra các câu đố, nếu học sinh nào giơ tay nhanh giành quyền trả lời, trả lời đúng
được thưởng 1 cái bút hoặc vở,…
Ví dụ câu hỏi:
Câu 1:
Thơi đành đắc tội khi quân
Cùng dân ở lại cầm gươm diệt thù.
Câu 2:
Kinh thành đang giấc ngủ say
Bỗng đâu sấm lửa sáng lịng Hương Giang.
Giặc Tây sửng sốt kinh hồng
13
Dàn quân phản kích tiến vào đế Kinh.
Câu 3: Vua nào chống Pháp bị đầy đảo xa?
Câu 4: Đông du khởi xướng, bôn ba những ngày?
2. Thảo luận, đánh giá kết quả thu được.
2.1. Tính mới, tính sáng tạo
Đặc trưng của bộ môn Lịch sử là khôi phục lại cho học sinh những sự
kiện lịch sử, bức tranh lịch sử gần như nó đã tồn tại trong quá khứ. Trên cơ sở đó
hình thành các khái niệm lịch sử, từ đó giúp các em đi sâu vào bản chất của sự kiện
lịch sử. Như vậy, đối tượng học tập của bộ môn lịch sử thuộc về quá khứ, cho nên
thời gian càng lùi xa thì việc nhận thức bản chất sự kiện và hiểu sâu về sự kiện
càng khó. Với các phương pháp giảng dạy truyền thống như đàm thoại, thảo luận
nhóm, cặp,… thì học sinh rất khó hồi tưởng lại các sự kiện lịch sử. Thêm vào đó
học sinh không thể quan sát "trực quan sinh động" đối tượng nghiên cứu như các
môn khoa học tự nhiên, giáo viên khơng thể làm thí nghiệm để sống lại sự kiện,
nhân vật lịch sử như đã từng tồn tại trong quá khứ. Với đặc trưng đó của bộ mơn
thì việc vận dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy lại là một phương pháp rất có
hiệu quả, phát huy được năng lực tư duy sáng tạo, năng lực tích cực chủ động
ở học sinh.
Mặt khác, mỗi bài học lịch sử giờ đây khơng chỉ có kiến thức đơn thuần mà
cịn được tích hợp các video, hình ảnh, bản đồ - lược đồ lịch sử… nhằm làm sinh
động và đa dạng trong việc truyền tải các nội dung kiến thức của bài học đến các
em học sinh. Nếu trước đây, có những bài học phải mất 10 phút để kể lại, ở đây
chỉ chiếu trên máy trong vòng 3- 5 phút mà học sinh không bị nhầm lẫn.
Việc học tập lịch sử thông qua bài giảng điện tử tạo nhiều hứng thú cho các
em trong học tập. Các em được tiếp cận, nhận thức các sự kiện lịch sử và bài học
lịch sử sống động hơn, gần với quá khứ hơn. So với những bài giảng thông thường,
học sinh phải cố gắng hình dung, mường tượng trong đầu những sự kiện, nhân vật
lịch sử mà thầy cơ thuyết giảng, thì với việc học trên bài giảng điện tử học sinh sẽ
được trực quan sinh động với những sự kiện, nhân vật lịch sử một cách cụ thể giúp
kích thích q trình tư duy của học sinh, từ đó nội dung kiến thức lịch sử học sinh
nắm được nhiều hơn và in sâu hơn vào trí nhớ của các em.
Nói cách khác, việc áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn Lịch sử
còn làm thay đổi nội dung và phương pháp truyền đạt trong giờ dạy: Nhờ các công
cụ đa phương tiện của máy tính như văn bản, đồ họa, hình ảnh, âm thanh, hoạt
cảnh.... giáo viên sẽ xây dựng được bài giảng sinh động thu hút sự tập trung của
người học, dễ dàng thể hiện được các phương pháp sư phạm như: phương pháp
dạy học tình huống, phương pháp dạy học nêu vấn đề, thực hiện đánh giá và lượng
giá học tập tồn diện, khách quan ngay trong q trình học… tăng khả năng tích
cực chủ động tham gia học tập của người học....
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học đã giúp học sinh được tiếp
cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn hẳn phương pháp đọc - chép truyền
14
thống. Ngồi ra, sự tương tác giữa thầy cơ và học trị cũng được cải thiện đáng kể,
học sinh có nhiều cơ hội được thể hiện quan điểm cũng như chính kiến riêng của
mình. Điều này khơng chỉ giúp các em ngày thêm tự tin mà còn để cho giáo viên
hiểu thêm về năng lực, tính cách và mức độ tiếp thu kiến thức của học trị, từ đó có
những điều chỉnh phù hợp và khoa học.
Từ những mặt tích cực đó tơi nghĩ rằng việc áp dụng cơng nghệ thông tin vào
giảng dạy lịch sử là một điều cần thiết, cần phát huy.
2.2. Khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực của sáng kiến:
a) Khả năng áp dụng hoặc áp dụng thử, nhân rộng:
Sáng kiến “Biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn
Lịch sử lớp 5 theo hướng phát triển năng lực” được áp dụng lần đầu tại lớp 5C
trường Tiểu học Tú Mịch ngay từ đầu năm học 2021 - 2022. Rất thuận lợi về cơ sở
vật chất, nhân lực. Đặc biệt là khơng tốn kém về kinh phí. Chính vì vậy trong
những lần sinh hoạt chuyên môn tổ, tôi đã mạnh dạn đưa ra ý kiến về các giải pháp
ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Lịch sử và đều được cả tổ nhất
trí cao. Do vậy có thể áp dụng với tất cả khối lớp 4 và 5 của trường Tiểu học Tú
Mịch cũng như các đơn vị trường bạn.
b) Khả năng mang lại lợi ích thiết thực.
Cơng nghệ thơng tin đã góp phần hiện đại hóa các phương tiện dạy học, các
phần mềm dạy học đã giúp giáo viên tạo bài giảng phù hợp với nhu cầu của học
sinh, giúp học sinh có nhiều phương pháp tiếp thu kiến thức. Đặc biệt, nó sẽ giúp
cho giáo viên tạo ra một lớp học mang tính tương tác hai chiều: giáo viên – học
sinh, học sinh – học sinh. Do đó, ứng dụng cơng nghệ thơng tin sẽ giúp học sinh
tiếp nhận thông tin bài học hiệu quả hơn và sẽ biến những thơng tin đó thành kiến
thức của mình. Đồng thời, nó cũng phát huy được các năng lực, tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh, khai thác nhiều giác quan của người học để lĩnh hội tri
thức.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học cũng giúp giáo viên bố trí thời
gian giảng dạy hợp lý, có thời gian đầu tư cho quá trình dẫn dắt, tạo tình huống có
vấn đề để kích thích tư duy sáng tạo và kiểm tra đánh giá học sinh. Học sinh có thể
dễ dàng hình dung và có khái niệm chính xác về các hình ảnh, sự vật, hiện tượng
khi tiếp xúc với chúng bằng những hình ảnh trực quan (hình ảnh, đoạn phim…).
Nhìn chung, sử dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy Lịch sử đã đổi mới
được phương pháp dạy học một cách tích cực, hiệu quả.
Qua thực tế áp dụng cho thấy phương pháp này đã đem lại nhiều hiệu quả
cao trong dạy học như:
- Tạo ra tính trực quan, sinh động giúp các em dễ dàng nắm bắt kiến thức,
hiểu sâu kiến thức.
- Khơi dậy niềm đam mê, u thích học mơn Lịch sử ở học sinh.
15
- Xố bỏ cảm giác khơ khan giáo điều trong các giờ học Lịch sử để môn học
này trở nên gần gũi với các em hơn.
- Kết quả thực tế cho thấy đa số các em học sinh đều tỏ ra hứng thú với
phương pháp này, tạo ra sự tập trung chú ý cao độ, từ đó giúp các em khắc sâu biểu
tượng về sự kiện hiện tượng lịch sử, các em có thể thuộc bài ngay tại lớp. Học sinh
nắm vững, vận dụng tốt kiến thức kỹ năng, học bài, làm bài rất tốt.
Tóm lại, cùng một thời lượng như nhau, nhưng so với phương pháp dạy học
truyền thống là phấn trắng bảng đen thì giờ học bằng bài giảng điện tử giúp các em
thu nhận được kiến thức và kĩ năng nhiều hơn, sinh động, sâu sắc và chắc chắn
hơn. Hầu như khơng có học sinh nào tỏ ra chán nản, lười biếng học tập hoặc học
với tâm trạng đối phó, thụ động. Bởi vậy kết quả sau mỗi tiết học hết sức khả quan:
Hơn 81% học sinh trong lớp có thể trả lời ngay được những câu hỏi cơ bản của bài
học.
Để chứng minh cho hiệu quả của biện pháp, tôi đã tiến hành dạy khảo sát
chất lượng ngay từ tháng 9 không ứng dụng công nghệ thơng tin và tháng 10 trở đi có
ứng dụng cơng nghệ thông tin tại lớp 5C, vào cuối mỗi giờ học tôi cho các em trả lời
một số câu hỏi vào phiếu. Kết quả như sau:
TSHS: 11 em, trong đó 1 học sinh trẻ hịa nhập (câm điếc bẩm sinh).
Khơng ứng dụng cơng nghệ thơng tin
Có ứng dụng cơng nghệ thông tin
(tháng 9)
(tháng 10 đến tháng 3)
Số HS hiểu bài
Số HS không hiểu
bài
Số HS hiểu bài
Số HS không hiểu bài
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4
36,4
7
63,6
9
81,8
2
18,2
Nhận thấy được ưu điểm đó nên trong suốt cả một năm học tơi đã tích cực
ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào dạy học môn Lịch sử. Các em rất hứng thú, say
mê khám phá, lĩnh hội kiến thức.
III – KẾT LUẬN
Qua thực hiện việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở tiểu học
trong năm học qua cùng với những nội dung và biện pháp đã trình bày ở trên, tôi
nhận thấy:
- Trong giờ học đã tăng cường thêm được nhiều kiến thức cơ bản, giáo
viên có nhiều thời gian hơn để khai thác nội dung bài dạy.
- Vai trò người thầy chuyển hẳn sang vai trò chủ đạo, hướng dẫn. Giáo viên
có thể sử dụng câu hỏi, đáp án kiểm tra ngay trên máy với nhiều dạng, nhiều
chiều có tính hệ thống, logic, vừa kích thích được sự tìm tịi khám phá của học
sinh, học sinh lại vừa kiểm tra đánh giá được kết quả làm bài của mình. Giáo viên
phát huy được cao độ các phương pháp hiện đại khác như nêu vấn đề, thảo luận, bài
16
tập trắc nghiệm….làm cho học sinh hứng thú học tập, giờ học sôi nổi, đồng thời
củng cố kiến thức cho học sinh.
- Việc ứng dụng CNTT vào dạy học có thể thấy đây như một luồng khí mới
thổi hồn vào mơn Lịch sử. Các em đam mê, u thích bộ mộn Lịch sử hơn.
- Học sinh tham gia giờ học rất tích cực, sơi nổi, hứng thú, say mê học tập.
Hơn thế nữa, việc được tiếp xúc nhiều với công nghệ thơng tin trong lớp học
cịn mang đến cho các em những kỹ năng tin học cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên
ghế nhà trường. Đây sẽ là nền tảng và sự trợ giúp đắc lực giúp học sinh có sự sáng
tạo trong các buổi thuyết trình trước lớp, đồng thời tăng cường khả năng tìm kiếm
thơng tin cho bài học của các em. Các em sẽ làm quen được với các hình thức tự học
như học online, học qua cầu truyền hình.
Việc vận dụng khéo léo, linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp
và kỹ thuật dạy học của giáo viên đã góp phần hình thành và phát triển năng lực
học sinh, thái độ học tập của các em cũng có sự thay đổi rõ rệt, tiết học trở lên sơi
động bởi sự hăng say góp ý xây dựng bài, số lượng các em sẽ yêu thích, mơn học
nhiều hơn. Từ đó, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng của bộ môn
Lịch sử ở trường Tiểu học.
Tuy nhiên, để mang lại cho học sinh một tiết học như vậy, mỗi giáo viên lại
phải nỗ lực rất nhiều trong việc chuẩn bị bài soạn so với phương pháp truyền
thống, phải có trình độ chun mơn vững vàng, phải có trình độ về cơng nghệ
thơng tin và khả năng ứng dụng nó vào việc soạn giáo án, thiết kế các bài lên lớp
sao cho phong phú, sinh động, logic, sáng tạo, tận dụng được tối đa các trang thiết
bị hiện đại mà nhà trường sẵn có. Để làm tốt được việc này cần phải có một quá
trình nghiên cứu, tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ,
tích lũy kinh nghiệm và tâm huyết. Bởi vì nếu khơng nắm vững chun mơn
nghiệp vụ và có những phương pháp dạy học hay, sáng tạo thì rất dễ dẫn đến việc
lạm dụng lẫn tác dụng ngược tới quá trình dạy học của giáo viên và lĩnh hội tri
thức của học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi về Biện pháp ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học môn Lịch Sử lớp 5 theo hướng phát triển
năng lực. Trong giảng dạy, mỗi người đều có ý tưởng riêng của mình nhưng cũng
đều nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và học, phát triển toàn
diện nhân cách học sinh. Một lần nữa tôi mong nhận được sự góp ý, bổ sung để
kinh nghiệm giảng dạy của tơi đạt hiệu quả cao hơn, góp phần nhỏ bé đưa sự
nghiệp giáo dục của trường phát triển ngày càng cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
TÁC GIẢ
17
Hoàng Thu Hiền
Chu Văn Đệ
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí 5 - NXB Giáo dục
2. Sách giáo viên Lịch sử và Địa lí 5 - NXB Giáo dục
3. Vở bài tập Lịch sử 5 - NXB Giáo dục
3. Các thông tin trên mạng Internet.
19
PHỤ LỤC
Một số hình ảnh được áp dụng trong sáng kiến
Ảnh 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh trao đổi nhóm đơi
20
Ảnh 2: Học sinh trao đổi nhóm đơi
21
Ảnh 3: Học sinh lên chỉ lược đồ tường thuật diễn biến lịch sử
Ảnh 4: Trình chiếu cho học sinh quan sát tranh ảnh
22
23
24
Ảnh 5: Một số sản phẩm phiếu bài tập thảo luận nhóm đơi, cuối giờ học