Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.01 KB, 15 trang )

3. Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong thương mại quốc tế
3/1 Tín dụng xuất khẩu
Nhà nước hoặc tư nhân dành cho nước ngoài những khoản tín dụng để mua hàng của nước
mình. Có các loại tín dụng xuất khẩu sau: 1) Tín dụng do người xuất khẩu trực tiếp cấp cho
nhà nhập khẩu nước ngoài; 2) Tín dụng do 1 số cơ quan tín dụng trực tiếp cấp cho nhà
nhập khẩu nước ngoài; 3) Tín dụng do chính phủ cấp cho nước ngoài.
3/2 Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu
Nhà nước đảm bảo sẽ gánh vác mọi rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu
nước mình dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Bảo đảm tín dụng xuất khẩu khiến cho
nhà xuất khẩu yêu tâm và mở rộng xuất khẩu và góp phần tăng giá hàng hoá.
3.3/ Trợ cấp xuất khẩu
Đó là những ưu đãi về mặt tài chính mà Nhà nước dành cho nhà xuất khẩu khi họ xuất
được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của biện pháp này là nhằm tăng thu
nhập của nhà xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hoá
ra nước ngoài.
3.4 Bán phá giá hàng hoá (Dumping)
Bán phá giá hàng hoá là xuất khẩu hàng hoá theo giá cả thấp hơn giá cả sản xuất hoặc theo
giá rẻ mạt nhằm mục đích đánh bại đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hoá và cuối cùng đạt được lợi nhuận tối đa. Điều kiện bán phá giá 1
loại hàng hoá nào đó là phải lũng đoạn được mặt hàng đó ở thị trường trong nước để tránh
nguồn hàng nhập khẩu trở lại. Nguồn bù vào những tổn thất do bán giá rẻ gồm: 1) Lợi
nhuận thu được do bán giá cao ở thị trường trong nước; 2) Trợ cấp xuất khẩu của Nhà
nước; 3) Lợi nhuận thu được sau khi đã chiếm lĩnh thị trường ngoài nước. Đặc điểm của
bán giá gia hiện nay là phần lớn do chính phủ tiến hành và tổn thất do Ngân sách của chính
phủ gánh chịu.
3.5/ Bán phái giá hối đoái (Exchange Dumping)
Bán phá giá hối đoái thể hiện ở việc xuất khẩu hàng hoá với giá thấp hơn giá của đối thủ
cạnh tranh do sử dụng lợi nhuận phụ thêm thu được từ sự mất giá của đồng tiền (sự đánh
sụt giá đồng tiền của nước đó so với đồng tiền của nước khác). Khác với bán phá giá hàng
hoá, trong phá giá hối đoái, giá bán không thấp hơn giá cả sản xuất. Giá bán ra thị trường
nước ngoài có thể cao hơn giá của thị trường nội địa và bán phá giá hối đoái xảy ra với tất


cả hàng hoá 1 cách tự động.
Cơ chế hoạt động của bán phá giá hối đoái là lúc đầu đồng tiền mất giá trong nước, sau đó
dần dần phá giá đồng tiền trong nước đối với ngoại tệ (mất giá so với ngoại tệ), sức mua
của đồng tiền trong nước cao hơn ở thị trường nước ngoài do đồng tiền mất giá đối ngoại
cao hơn mất giá đối nội. Trong thời điểm đó các doanh nghiệp sản xuất thanh toán nguyên
liệu, tiền lương.... với số lượng đơn vị tiền tệ được ấn định trước khi phá giá đồng tiền.
Đồng thời trong xuất khẩu thành phẩm, với số ngoại tệ thu được số lợi nhuận ngoại ngạch
nhiều hơn bình thường. Để đẩy mạnh xuất khẩu, nhà xuất khẩu có thể bán hàng của mình
trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn của đối thủ cạnh tranh bằng cách thu hẹp phần
lợi nhuận ngoại ngạch.
Bán phá giá hối đoái có thể tiếp tục cho đến khi mất giá trong nước tăng bằng mất giá đối
ngoại của đồng tiền. Đồng thời tiền của nước mà hàng hoá xuất sang không bị phá giá hoặc
phá giá ở mức thấp. Bán phá giá hối đoái chỉ có thể xảy ra trong môi trường: 1) Mất giá
đối ngoại của đồng tiền phải cao hơn mất giá đối nội; 2) Các nước nhập khẩu hàng hoá của
nước có đồng tiền không đồng thời phá giá đồng tiền của mình, hoặc phá giá ở mức thấp
hơn; 3) Các nước không dùng những biên pháp chống phá giá hoặc không áp dụng bán phá
giá hối đoái.
3.6/ Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu khác
a/ Miễn giảm thuế và hoàn lại thuế: Nhà nước quy định miễn giảm thuế quan đối với việc
nhập khẩu những nguyên liệu sản xuất và hoàn lại thuế cho nhữung hàng đã được xuất
khẩ. Trên cơ sở miễn giảm đó mà có thể giảm giá thành và tăng năng suất cạnh tranh của
hàng xuất khẩu.
b/ Chính sách chiết khẩu: Đây là nghiệp vụ cho vay của ngân hàng dưới hình thức mua kỳ
phiếu hay hối phiếu chưa đến hạn. Thực tế chính là nghiệp vụ của ngân hàng cho người
mua vay thông qua người bán. Nếu lãi chiết khấu hạ thì giá hàng cũng hạ, khả năng cạnh
tranh của hàng hoá tăng lên và mở rộng được xuất khẩu. Để đẩy mạnh được xuất khẩu,
chính phủ thông qua ngân hàng h
ạ mức lãi chiết khấu để mở rộng xuất khẩu.
Về mặt xuất khẩu, cần hạn chế khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như
các hoạt động chế biến gây tác hại nặng lên môi trường. Bên cạnh đó, cần khuyến khích và

tạo điều kiện cho các mặt hàng xuất khẩu thân thiện với môi trường. Ví dụ, dựa trên thế
mạnh nông nghiệp truyền thống, có thể định hướng/hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất thực
phẩm hữu cơ (organic foods) để xuất khẩu vào các thị trường đầy tiềm năng như Nhật Bản.
Sản xuất thực phẩm hữu cơ vừa thân thiện với môi trường vừa có giá trị xuất khẩu cao
hơn.
Về mặt nhập khẩu, cần phải tránh các công nghệ cũ đang bị các nước khác loại bỏ và tìm
cách bán tháo. Bên cạnh đó, cần khuyến khích nhập khẩu các công nghệ phục vụ cho quá
trình phát triển các ngành công nghiệp phù hợp với phát triển bền vững, chẳng hạn như
điện gió và năng lượng mặt trời.
Thứ nhì, trong các nỗ lực mở rộng giao thương thông qua con đường ký kết các hiệp định
thương mại tự do song phương, Việt Nam cần chú tâm (a) chọn lựa những đối tác vừa có
thể đưa lại lợi ích thương mại và vừa phục vụ mục tiêu chiến lược ngoại giao như Mỹ, Ấn
Độ, Nga… (b) đòi hỏi đối tác xóa bỏ những rào cản đối với các mặt hàng mà mình đang có
lợi thế so sánh và để đáp lại thì có thể nhượng bộ mạnh tay hơn đối với các mặt hàng đã bị
hàng nhập khẩu các nước khác chiếm lĩnh. Ví dụ, đối với một số mặt hàng đang bị nhập
khẩu từ Trung Quốc chiếm lĩnh thị phần thì có thể linh hoạt dành những ưu đãi thuế quan
đối với các mặt hàng này trong lúc thương lượng một hiệp định với Ấn Độ. Nếu được như
vậy thì nhập khẩu từ Ấn Độ sẽ cạnh tranh với nhập khẩu Trung Quốc trên thị trường Việt
Nam thay vì cạnh tranh với các mặt hàng nội địa khác mà Việt Nam đang cố gắng phát
triển.
Thứ ba, Việt Nam cần sử dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá, và chống bán trợ
giá để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà sản xuất trong nước khi tình thế đòi hỏi
phải như thế. Theo đó, Chính phủ cần tạo điều kiện thông tin tốt về ba biện pháp này để
các nhà sản xuất trong nước nắm rõ luật lệ nhằm tạo ra những áp lực cần thiết khi họ phải
gánh chịu những hậu quả nặng nề của nhập khẩu ồ ạt.
Đừng nên sợ sẽ bị trả đũa, miễn là áp dụng các biện pháp này phù hợp với luật lệ. Thực tế
cho thấy là các nước đang phát triển ngày càng mạnh dạn hơn trong việc sử dụng chúng.
Dùng luật lệ để bảo vệ quyền lợi của mình là một việc cần phải làm nếu như muốn trở nên
vững vàng hơn trong các quan hệ thương mại quốc tế.
TS. Trần Lê Anh (Đại học Lasell, Mỹ)-SaigonTimesOnline

WTO là “ngôi nhà chung” lớn thứ 2 sau Liên hợp quốc. WTO được xem như một “Liên
hợp quốc” trong lĩnh vực thương mại với cơ chế giải quyết các tranh chấp dựa trên nguyên
tắc mọi quốc gia thành viên đều có một phiếu bầu như nhau.
WTO là một tổ chức liên chính phủ. Cơ quan cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng các
nước thành viên - nơi thực hiện tất cả chức năng của WTO, quyết định mọi biện pháp cần
thiết để thực hiện chức năng đó. Hội nghị Bộ trưởng còn quyết định tất cả các vấn đề trong
khuôn khổ hiệp định, thỏa thuận đa phương của WTO.
Hội nghị Bộ trưởng họp ít nhất một lần trong 2 năm. WTO thông qua các quyết định bằng
sự đồng thuận, không bỏ phiếu kín. Một số trường hợp cần bỏ phiếu: Sửa đổi một số
nguyên tắc nền tảng như nguyên tắc tối huệ quốc, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia.
WTO được xây dựng trên cơ sở 4 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc;
nguyên tắc đãi ngộ quốc gia; nguyên tắc tiếp cận thị trường (mở cửa thị trường) và nguyên
tắc cạnh tranh công bằng.
Để trở thành thành viên của WTO, phải được 2/3 số phiếu ủng hộ. Nghị định thư phê
chuẩn việc kết nạp thành viên mới sẽ có hiệu lực sau 30 ngày kể từ khi quốc hội của nước
thành viên mới phê duyệt. Điều kiện quan trọng nhất để trở thành thành viên của WTO là
phải được công nhận có nền kinh tế thị trường.
Nhập cuộc
Những cơ hội của VN khi gia nhập WTO được gói gọn trong 6 điểm chính.
Thứ nhất, gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do
tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn với 148 thành viên và vị thế thị trường ngang nhau với
tất cả các quốc gia đó. Hàng hóa thâm nhập thị trường khổng lồ này không gặp bất cứ trở
ngại nào, miễn là không vi phạm những quy chế và cam kết đã ký.
Thứ 2, Việt Nam được đối xử tối huệ quốc vô điều kiện. Thuế nhập khẩu vào các nước
thành viên sẽ giảm đáng kể. Được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập vì là nước đang
phát triển.
Thứ 3, gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tiếp cận và tiếp nhận được nguồn nhân lực, vật lực lớn
từ những nước phát triển là thành viên của WTO.
Điểm thứ 4, cũng rất quan trọng là Việt Nam bình đẳng với các quốc gia thành viên của
WTO, Việt Nam sẽ nâng cao vị thế trong các mối quan hệ quốc tế. Trong việc biẻu hiện

những vấn đề liên quan đến WTO, đặc biệt trong việc giải quyết những tranh chấp trong
kinh doanh thương mại quốc tế.
Thứ 5, khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, hàng hóa các nước sẽ thâm nhập thị
trường Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không ngừng nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm giá thành nâng cao sức cạnh tranh nhằm tồn tại và phát triển. Điều này, người
tiêu dùng trong nước được hưởng lợi nhiều hơn.
Ngoài ra, gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội hoàn thiện các chính sách kinh tế, các cơ
quan quản lý Nhà nước hoàn thiện hoạt động, tuân thủ quy chế WTO với tiêu chí tự do hóa
thương mại, kiên quyết xóa bỏ những rào cản bất hợp lý trong thương mại quốc tế, góp
phần làm trong sạch bộ máy Nhà nước, nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách kinh tế
của Chính phủ, tạo được hệ thống chính sách minh bạch làm cơ sở thu hút đầu tư nước
ngoài.
Bên cạnh những cơ hội thuận lợi chủ yếu nêu trên, Việt Nam phải đối mặt với những thách
thức rất lớn là cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, trong khi đó, khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp nước ta chưa cao.
Doanh nghiệp yếu về tiềm lực kinh tế cũng như thương hiệu không có khả năng cạnh tranh
sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Hậu quả là số lao động thất nghiệp tăng cao, một gánh nặng
cho xã hội và Chính phủ.
Thách thức lớn thứ 2 khi gia nhập WTO là Việt Nam phải thực hiện hàng loạt những cam
kết, những thỏa thuận đã ký trong những hiệp định thương mại song phương, đa phương
cũng như quy chế WTO, trong khi đó, hệ thống chính sách kinh tế của ta đang trong quá
trình hoàn thiện, chưa đồng bộ.
Kể từ năm 1993 khi Việt Nam bắt đầu bình thường hóa quan hệ với các tổ chức
tài chính quốc tế, nhiều Chính phủ và tổ chức đã nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam.
Các nhà tài trợ đã ngày càng quan tâm nhiều hơn đến Việt Nam và có những động thái
hợp tác tích cực với Chính phủ Việt Nam trong vấn đề này ( vốn ODA cam kết cho Việt
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(31).2009
2
Nam ngày càng nhiều, đề xuất một số sáng kiến: sáng kiến áp dụng mẫu báo cáo tiến độ
thực hiện dự án theo Quyết định 803/2007/QĐ-BKH của nhóm 6 Ngân hàng phát triển

(WB, ADB,SBIC,KFD,EXB Hàn Quốc), sáng kiến “Một Liên hợp quốc” nhằm thúc
đẩy thực hiện chương trình dự án, giảm chi phí giao dịch và nâng cao hiệu quả viện trợ;
sáng kiến hài hòa quy trình và thủ tục ODA trong nội bộ các nước thành viên EU, cụ thể
hóa các cam kết trong tuyên bố Paris thành cam kết Hà Nội, tham gia tích cực các Hội
nghị của các nhà tài trợ, các Hội nghị của các nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt
Nam, v..v…). Đặc biệt là nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong mục tiêu quản lý nợ
công nói chung, nợ nước ngoài và ODA nói riêng. Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam
đã rất chú trọng công tác thông tin ra bên ngoài, tạo điều kiện cho thế giới biết và hiểu
nhiều hơn về Việt Nam, phát triển mạnh mẽ các quan hệ song phương và đa phương,
hoàn thiện dần thể chế pháp lý về ODA. (ban hành Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày
9/11/2006 của Chính phủ về Quy chế pháp lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức, Quyết định số 181/2007/QĐ-TTg ngày 26/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về
Quy chế cho vay lại từ nguồn vốn vay, viện trợ nước ngoài của Chính phủ), tổ chức
nhiều Hội thảo chuyên đề về ODA, thực thi các biện pháp kiểm soát nguồn ODA v.v…)
Những nỗ lực từ cả 2 phía các nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam đã đạt những
kết quả quan trọng. Từ 1993 đến 2005, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với hơn 50 nhà tài
trợ song phương và đa phương cùng 350 tổ chức Chính phủ với hơn 1500 chương trình
dự án. Tình hình nợ của khu vực công nói chung và nợ ODA nói riêng trong giai đoạn
2002- 2006 ( số liệu cuối năm) được phản ánh qua bảng sau:
B ng ả
Tình hình n công và n ODA c a Vi t Nam giai o n 2002 -2006ợ ợ ủ ệ đ ạ
Chỉ tiêu ĐVT 2002 2003 2004 2005 2006
1- GDP Tỷ.đ 535762 613443 715307 839211 974266
2-Tổng nợ công
a-Nợ trong nước
b-Nợ nước ngoài
Trong đó: nợ ODA
Nợ ODA quy đổi ngoại tệ
Tỷ.đ
Tỷ.đ

Tỷ.đ
Tỷ.đ
Tr.USD
179100
34728
144372
133173
8683
249419
71829
177590
166191
10652
311834

×