Tiểu luận
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ
đại
Mục lục
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................. 3
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3
3. Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại...................................................................... 3
3.1 Về tự nhiên........................................................................................................................ 3
3.2 Về kinh tế........................................................................................................................... 4
3.3 Về chính trị - xã hội........................................................................................................... 4
3.4 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp.......................................................................... 6
4. Tư tưởng triết học của Đémocrite và Platon....................................................................... 6
4.1 Tư tưởng triết học Đémocrite............................................................................................. 6
4.2 Tư tưởng Triết học Platon.................................................................................................. 9
5. Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại là sự đấu tranh giữa trường phái Đémocrite và
trường phái Platon............................................................................................................. 12
Kết luận.................................................................................................................................... 18
NTH-Võ Tiến Lâm
Page 2
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của triết học nhân loại triết học Hy Lạp là khúc mở đầu cho giai
đoạn phát triển của triết học phương tây, trong đó triết học cổ đại Hy Lạp với những nhà triết
học xuất chúng như Đémocrite và Platon là khởi nguồn cho mọi sự phát triển của triết học.
Tìm hiểu triết học Hy Lạp cổ đại khơng gì hơn là tìm hiểu tư tưởng triết học của Đémocrite và
Platon, tìm hiểu sự đấu tranh giữa hai trường phái triết học duy vật và duy tâm.
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong giai đoạn triết học Hy lạp cổ đại. Với
phương pháp nghiên cứu là phương pháp lịch sử và đối chiếu. Bài nghiên cứu quy mô như một
bài thu hoạch nên các vấn đề được đề cập mang tính khái quát.
3. Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
3.1 Về tự nhiên
Hy Lạp cổ đại chính là cái nơi của nền triết học phương Tây. Đây là quốc gia rộng lớn có
khí hậu ơn hịa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng (Balcans), miền ven biển phía Tây Tiểu
Á và nhiều hịn đảo ở miền Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực. Bắc , Nam và Trung bộ.
Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như
Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho
việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đơng của bán đảo Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải
cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung
chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven
biển Tiểu Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự
nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nơ lệ có một
nền cơng thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có
nhiều triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ.
3.2 Về kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vơ cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả và lòng nhiệt
thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở rộng các mối
bang giao và phát triển kinh tế.
Thế kỷ VIII – VI BC, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ
nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ sắt được dùng phổ
biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩmdồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố.
Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao động trong nông nghiệp, giữa nghành trồng trọt
và ngành chăn nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ
nét. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII BC là lực đẩy
quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận. Engels đã nhận xét: “Phải có
những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao động lớn lao
hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước Hy Lạp giàu có. Nếu
khơng có chế độ nơ lệ thì cũng khơng có quốc gia Hy Lạp, khơng có khoa học và cơng nghiệp
Hy Lạp”.
3.3 Về chính trị - xã hội
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa ra làm hai
giai cấp xung đột nhau là chủ nơ và nơ lệ. Lao động bị phân hóa thành lao động chân tay và lao
động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm
trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử
Hy Lạp cổ đại.
Thành bang Athen nằmở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý
thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của
triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô
dân chủ Athen.
Thành Sparte nằm ở vùng bình ngun, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông nghiệp.
Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã xây dựng một
thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến tranh
khốc liệt kéo dài hàng chục nămvà cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Athen. Cuộc chiến
tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước Hy
Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại
vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, khơng có ngơn ngữ chung, khơng có quyền hạn,
khơng được tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía
Bắc Hy Lạp đã đem qn xâm chiếm tồn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II BC, Hy Lạp một
lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng
lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa.
Engels đã nhận xét “khơng có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì khơng có
Châu Âu hiện đại được”. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu bn bán, trao đổi hàng hóa mà các
chuyến vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên thường xun. Chính vì thế tầm nhìn
của họ cũng được mở rộng, những thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người
Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp
đón nhận, “Những người Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu khơng hiểu biết gì về Ai Cập”.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán lạn với
những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn
minh phương Tây hiện đại.
Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất phong phú, những
tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc sống sôi động, lao động
bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng tự nhiên, xã hội của người Hy
Lạp cổ đại.
Về nghệ thuật, đã để lại các cơng trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị.
Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá nghiêm tại thành
bang Athen.
Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học, thiên văn, vật lý… được các nhà khoa
học tên tuổi như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra. Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại
đã để lại một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
3.4 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và cũng là điểm
xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc trưng sau:
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nơ thống trị.
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật - duy tâm,
biện chứng - siêu hình, vơ thần - hữu thần.
- Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau,
nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật,
hiện lại xảy ra trong nó.
- Đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác, hoang sơ.
4. Tư tưởng triết học của Đémocrite và Platon
4.1 Tư tưởng triết học Đémocrite
Đémocrite (460-370 tr.CN) sinh trưởng trong một gia đình chủ nơ dân chủ ở Ápđerơ
(Hy Lạp). Ông đã đến Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ, nên đã có dịp tiếp xúc với nền văn hố phương
Đơng cổ đại. Ơng am hiểu tốn học, vật lý học, sinh vật học cũng như mỹ học, ngôn ngữ
học và âm nhạc v.v. Ơng có đến 70 tác phẩm nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học nói trên.
Ơng được Mác và Ăng -ghen coi là bộ óc bách khoa đầu tiên của người Hy Lạp.
Đémocrite là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp. Thuyết nguyên tử
là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật. Ngồi ra, ơng cịn có nhiều đóng góp
quý giá về lý luận nhận thức.
a. Thuyết nguyên tử
Thuyết nguyên tử đã được Lơxíp (Leucippe) nêu lên từ trước. Nhưng phải đến Đémocrite học
thuyết đó mới trở lên chặt chẽ. Theo ơng, vũ trụ được cấu thành từ hai thực thể đầu tiên:
nguyên tử và chân không.
Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, khơng nhìn thấy được, khơng thể phân chia
nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn và vận động không ngừng.
Nguyên tử không khác nhau về chất, chúng có mùi vị, âm thanh và mầu sắc. Ngun tử chỉ
khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết hợp của chúng. Có những ngun tử
hình cầu, hình tam giác, hình móc câu, hình lõm v.v., nhờ đó chúng mới có thể bám dính
được với nhau. Mọi vật thể đều do sự kết hợp giữa các nguyên tử nên nếu tách rời chúng ra thì
vật thể bị tiêu diệt.
Linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu, nhẹ, và nóng tạo nên. Khi
người ta chết, linh hồn sẽ khơng còn; chúng rời thể xác và tồn tại như những nguyên tử khác.
Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với Đémocrite, chân không cũng cần thiết như
nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận động được. Nếu tất cả là đặc sệt các ngun tử thì sẽ
khơng có điều kiện cho vận động. Khác với ngun tử có kích thước, hình dáng, chân khơng
thì vơ hạn và khơng có hình dáng.
Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng, khi thì tản
ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau tạo thành một cơn xốy
trịn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những nguyên tử nhỏ, nhẹ ra ngồi chu vi, cịn
những ngun tử to, nặng quy vào tâm, nhờ đó các hành tinh, kể cả trái đất được hình thành.
Những hành tinh xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo
ra.
Những phán đoán trên đây về nguyên tử tuy còn nhiều điểm hạn chế (hạt vật chất nhỏ
nhất, khơng thể phân chia được), nhưng nó đã khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, vũ
trụ là vô cùng, vô tận. Hơn nữa, mặc dù Đémocrite chưa giải thích được nguyên nhân của vận
động, nhưng ông đã gắn liền vận động với nguyên tử, và nó cũng vơ cùng, vơ tận như ngun
tử. Đó là một đóng góp hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên và triết
học duy vật. Chính vì quan niệm duy vật và vơ thần ấy, ông đã bị tầng lớp thống trị coi là phủ
nhận thần linh và trục xuất ông khỏi quê hương.
b. Lý luận về nhận thức
Đémocrite đã có cơng đưa lý luận nhận thức lên một bước mới. Ông và tiếp theo ông là
Arixtốt, kể cả Platon đã rất chú ý đến nhận thức lý tính, đến lơgíc học. Theo ông, nhận thức của
người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật tác động vào các giác quan mà ta có cảm giác về
chúng. Những cảm giác này có nội dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ
là sự phản ánh cái vỏ bên ngồi của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi vì, nó
chỉ phản ánh được mùi vị, âm thanh, mầu sắc, hình dáng của sự vật, mà không phản ánh được
nguyên tử và chân không. Hơn nữa, mọi nguyên tử đều giống nhau về chất, bản thân chúng
khơng có mùi vị, mầu sắc, âm thanh và khơng trông thấy được. Bởi vậy, những cảm giác này
chỉ là chủ quan của con người. Theo ông, muốn nhận thức được nguyên tử và chân không, tức
là muốn nhận thức bản chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải
biết quy nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý tính. Do đó, ơng chia nhận
thức làm hai dạng: dạng nhận thức "mờ tối"(nhận thức cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ”.
Theo ơng, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng tin cậy hơn. Mặt tích cực trong quan điểm
trên đây là ở chỗ, ông coi đối tượng của nhận thức là thế giới khách quan do nguyên tử và chân
không tạo ra. Tuy chưa nhận thức được sự chuyển hố giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính, nhưng ơng đã thấy được vị trí của từng dạng nhận thức, đặc biệt là nhận thức lý tính. Song
mặt hạn chế trong quan niệm này là ở chỗ, ơng coi các thuộc tính khách quan của sự vật như
âm thanh, mùi vị, mầu sắc chỉ là những quy ước chủ quan của con người. Hạn chế này đã mở
đường cho những quan niệm duy tâm cho rằng chất tách rời sự vật, chất có trước và chất có sau
của sự vật v.v.
Từ chỗ coi trọng vai trị của nhận thức lý tính, Đémocrite đã có một cơng lao to lớn nữa
đối với triết học, đó là lơgíc học (Tác phẩm "Bàn về lơgíc học" (Canon); tác phẩm này đã bị
thất lạc, người ta chỉ biết về nó một cách gián tiếp qua lời của Arixtốt, Platon). Theo đó thì
ơng đã nêu ra nhiều vấn đề về lơgíc học như định nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy
nạp, giả thiết.v.v, trong đó phương pháp quy nạp có vị trí nổi bật. Arixtốt đã coi Đémocrite là
tiền bối của mình về lơgíc học, là người đầu tiên nghiên cứu lơgíc của khái niệm, lơgíc quy
nạp.
c. Quan niệm về con người
Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên bằng lửa trong cơ
thể; nó cũng được cấu tạo từ các ngun tử hình cầu giống như lửa và có tốc độ vận động lớn
hơn các nguyên tử khác.
Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của q trình biến
đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của nhiệt độ.
Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng về khả năng có thể học được bất kỳ cái gì nhờ
có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp.
Đémocrite đứng trên lập trường vơ thần phủ nhận thượng đế và thần linh; thần chỉ là sự nhân
cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con người.
d. Quan điểm chính trị - xã hội
Đémocrite đứng trên lập trường của chủ nô dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Aten chống lại
chế độ chuyên chính. Ơng cho rằng “cái nghèo trong chế độ dân chủ cũng quý hơn cái hạnh
phúc của công dân dưới thời quân chủ y như là tự do quý hơn nô lệ”. Nhưng do xuất thân từ
tầng lớp chủ nô nên ông chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nơ và cơng dân tự do; cịn nơ lệ phải
biết tuân theo người chủ.
Ông coi nhà nước là trụ cột của xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp
luật
hay các chuẩn mực đạo đức.
Tóm lại, triết học Đémocrite là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao các quan
điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của Hêraclít) trước đó, đưa
triết học của ơng trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại.
4.2 Tư tưởng triết học Platon
Platon (427 - 347 TCN) xuất thân trong một gia đình chủ nơ q tộc ở A-ten. Tên thật
của ông là Aristôclơ. Theo Arixtốt, lúc đầu Platon là học trị của Cratin (người theo thuyết
tương đối), sau đó là học trị của Xơcrát (nhà triết học duy lý, duy tâm chủ nghĩa). Khi Xơcrát
bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống lại chế độ dân chủ chủ nô, Platon rời Aten đến sống ở
miền nam nước Italia. Trong thời gian này ơng có liên hệ với phái Pitago và Ơclít. Sau này ơng
trở lại Hy Lạp, lập trường dạy học ở Aten, gọi là Viện hàn lâm (Académie). Đây là trường Đại
học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, học trò rất đơng, trong đó có nhà triết học nổi tiếng Arixtốt.
Ngót 40 năm giảng dạy và trước tác, ơng đã để lại 34 thiên đối thoại và nhiều bức thư triết học.
Tác phẩm "Nước cộng hồ" (République) có vị trí đặc biệt trong triết học của ông.
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy vật đương thời.
Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học, Lênin đã chỉ ra sự đối lập giữa đường
lối duy vật của Đémocrite và đường lối duy tâm của Platon. Tư tưởng triết học của Platon chịu
ảnh hưởng sâu sắc các yếu tố duy tâm trong triết học của Pitago và Xơcrát.
Ngồi những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trị của ý thức xã hội trong
việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học của ông tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm
thời cổ đại.
a. Học thuyết về ý niệm
Như đã nói ở trên, Platon chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý trong triết học
Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về con số của trường phái
Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xơcrát). Vì vậy ơng xem nhẹ vai trị của nhận thức cảm tính,
tuyệt đối hố vai trị của nhận thức lý tính, của khái niệm. Từ đó ơng chia thế giới thành hai
loại: thế giới của những ý niệm (khái niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính.
Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt đối, bất biến, nó là
cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Cịn thế giới các sự vật cảm tính là tồn tại
không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm.
Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ thế giới các ý
niệm như thế nào, Platon đã đưa ra ví dụ "Hang động" như sau: Ở ngoài cửa của một cái hang
tối có một đồn người đi qua; ánh sáng mặt trời chiếu vào cửa hang làm cho bóng của đồn
người được in lên vách đá. Nếu nhìn lên vách hang bên trong, người ta sẽ thấy những bóng
người đi qua. Những bóng này chỉ là hình ảnh của đồn người, chứ khơng phải bản thân đồn
người. Thế giới các sự vật cảm tính cũng vậy, nó chỉ là cái bóng của ý niệm đã có từ trước mà
thơi.
Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platon cho rằng ý niệm là cái
có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự vật chỉ là cái có sau, là cái bắt chước,
cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm.
Từ thế giới quan trên đây, Platon đã quan niệm một cách duy tâm, thần bí về linh hồn.
Theo ơng, thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa và khơng khí, nó chỉ là nơi trú
ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con người là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được
Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được tạo ra, mỗi linh hồn trú ngụ ở một vì sao trên trời, sau
đó dùng cánh bay xuống trần gian và nhập vào thể xác con người. Khi nhập vào thể xác con
người thì nó quên hết mọi quá khứ, do đó nhận thức của con người chỉ là sự hồi tưởng lại
những gì mà linh hồn đã có nhưng bị lãng quên.
b. Lý luận về nhận thức
Từ cách giải quyết duy tâm khách quan như trên về mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của
triết học, khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, Platon cũng rơi vào quan niệm
duy tâm, thần bí.
Theo ơng, đối tượng của nhận thức khơng phải là các sự vật cảm tính khách quan bên ngoài,
mà là thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính khơng phải là nguồn gốc của tri thức; tri thức chân
thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính, được thể hiện ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự
vật đều có một ý niệm về nó; sự vật có thể mất đi, nhưng ý niệm về sự vật khơng bao giờ mất.
Ví dụ cái nhà có thể sụp đổ, hư nát, khơng cịn là cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái niệm
nhà) thì khơng mất.
Bằng cách nào để có được nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Bằng cách hồi tưởng lại
những gì linh hồn đã trải qua, nhưng khi nhập vào thể xác con người nó đã bị lãng quên. Tóm
lại, Platon đã quy tồn bộ q trình nhận thức thành q trình hồi tưởng của linh hồn bất tử, rất
thần bí.
c. Học thuyết về chính trị - xã hội
Trong tác phẩm Nước cộng hồ (Chính thể cộng hồ), Platon chia linh hồn làm ba bộ phận: lý
tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ phận ấy là ba hạng trong xã hội.
Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái. Hạng này lý tính giữa vai trị chủ đạo, thích
hợp với việc lãnh đạo nhà nước. Hạng thứ hai, là những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ
tràn đầy xúc cảm gan dạ, biết phục tùng lý trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh
của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ ba, là đại chúng, gồm những người nông dân, thợ thủ
công và thương nhân. Hạng này linh hồn của họ không đi xa hơn những khát vọng cảm tính
thích nghi với lao động chân tay, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống của nước cộng
hồ. Vì vậy, cơng lý là ở chỗ mọi người phải sống đúng vị trí của mình.
Để duy trì trật tự xã hội, Platon cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết, nhưng ba hình
thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua chúa xây dựng trên khát vọng
làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. Hai là, nhà nước quân phiệt của một số ít
người giầu có, áp bức số đơng, đưa đến tội ác. Ba là, nhà nước dân chủ đem lại quyền lực cho
số đơng; đó là một nhà nước tồi tệ.
Platon nêu lên mơ hình một nhà nước mà ơng cho là lý tưởng, đó là nhà nước cộng hồ.
Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải được duy trì, bởi vì nó
hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự tồn tại của nhà nước lý tưởng phải dựa
trên sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phân công hài hoà giữa các nghề trong xã hội. Để
khắc phục sự phân chia giàu nghèo, cần xố bỏ gia đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa
vào các cơ quan giáo dục riêng, lựa chọn những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để trở
thành vệ binh. Các nhà thông thái, triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ binh này.
Quan niệm về một nhà nước lý tưởng trên đây của Platon chứa đựng nhiều mâu thuẫn.
Một mặt, ông muốn xoá bỏ tư hữu, mặt khác, ông lại chủ trương duy trì sự bất bình đẳng giữa
các hạng người. Một mặt, ơng đề cao hình thức cộng hồ, mặt khác ơng lại ra sức bảo vệ lợi
ích của giai cấp chủ nô quý tộc, chống lại nhà nước dân chủ Aten. Nhà nước mà ông coi là lý
tưởng, thực chất chỉ là sự biện hộ cho giai cấp chủ nô quý tộc. Đúng như nhận xét của Mác, nó
chỉ là lý tưởng hố chế độ đẳng cấp của Aicập vào Aten mà thôi.
5. Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại là sự đấu tranh giữa trường phái Đémocrite và
trường phái Platon
Trong thời kỳ sơ khai, triết học Hy Lạp cổ đại ra đời thay thế cho thần thoại; lý trí thay
thế sự tưởng tượng trong việc giải đáp các vấn đề thế giới quan , bản thể luận . Lúc này các thị
quốc đầu tiên bắt đầu hình thành .Chế độ chiếm hữu nơ lệ cũng dần thay thế cho chế độ thị tộc
.Cách giải thích thế giới của thần thoại khơng cịn được tin tưởng mà con người muốn tìm
kiếm một lời giải đáp nghiêm túc , hợp lý cho những vấn đề của sự tồn tại và nhận thức . Tiêu
biểu cho thời kỳ này là các nhà triết học của các trường phái như : Mi let , Pithagore ,
Héraclite, Elée …Vì có những tri thức về khoa học nên các nhà triết học thời kỳ này ít chịu
ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại và trở thành những người đầu tiên bước vào con đường
chinh phục thế giới , lí giải và khám phá nguồn góc sự sống một cách khoa học hơn. Ở giai
đoạn cực thịnh, thời kỳ rực rỡ nhất của triết học Hi Lạp cổ đại cũng là thời kỳ rực rỡ của nền
dân chủ Athene . Giai đoạn này Hi Lạp xuất hiện những nhà triết học vĩ đại có ảnh hưởng sâu
rộng đến tồn bộ q trình phát triển của triết học Hi Lạp và của cả châu Âu sau này như
Socrate , Đémocrite , Platon , Aristote . Họ quan tâm nghiên cưus một khía cạnh gần gũi đó là
con người . Con người có vị trí như thế nào trong thế giới ? Số phận của họ rồi sẽ ra sao ? Ý
nghĩa về sự tồn tại của họ ? Họ có năng lực và phương tiện nào để nhận thức ? Có vai trị gì
trong tiến trình phát triển của lịch sử ? Mối quan hệ của họ với thế giới xung quanh ? Rất nhiều
câu hỏi liên quan đến con người đã được các nhà triết học đặt ra và đi tìm câu trả lời .Vì thế ,
chủ nghĩa duy tâm ra đời , triết học Hi –La cổ đại bước vào một cuộc tranh luận mới : cuộc
tranh luận giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm . Và đã trở thành hiện tượng phổ biến
trong lịch sử phát triển của triết học .
a. Đấu tranh về tư tưởng chính trị
Nội dung cơ bản của sự phát triển ở Hi-La cở đại là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm , phản ánh cuộc đấu tranh giũă tầng lớp chủ nô dân chủ tiến bộ trong
những điều kiện lịch sử thời đó và tầng lớp chủ nơ q tộc . Triết học Hi-La cổ đại cũn phản
ánh cuộc đấu tranh gia cấp giữa chủ nô và nô lệ . Chế độ nơ lệ là hình thức áp bức tàn nhẫn , vơ
nhân đạo nhất so với tất cả mọi hình thức áp bức , bóc lột . Người nơ lệ là tải sản sở hữu của
chủ nô ; họ là những “cơng cụ” biết nói , bị đối xử như súc vật , khơng có một thứ quyền hạn
nào , khơng được tham gia vào các hoạt động xã hội , chính trị và văn hố . Bị áp bức, những
người nơ lệ đã đứng lên đấu tranh địi quyền lợi , nhưng chưa có sự thắng lợi nào . Tuy nhiên ,
chế độ áp bức , bóc lột nơ lệ cũng là cơ sở kinh tế trên con đường phát triển của Hi-La cổ đại
.Có chế độ đó , giai cấp chủ nơ Hi Lạp mới có thể thốt li được cuộc đời lao động chân tay
vất vả để xây dựng triết học, khoa học và nghệ thuật . Ăngghen đã cho rằng , phải có những
khả năng của chế độ nơ lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao động lớn lao hơn
trong nông nghiệp và công nghiệp , mới xây dựng được nước Hi Lạp cổ giàu có . Nếu khơng
có chế độ nơ lệ thì cũng khơng có quốc gia Hi Lạp , khơng có khoa học và nghệ thuật Hi Lạp .
Đémocrite ủng hộ chế độ nô lệ . Ơng coi chế độ nơ lệ hồn tồn hợp đạo lý , cần phải sử dụng
những người nô lệ như các bộ phận trên cơ thể con người . Đémocrite đứng trên lập trường của
phái chủ nô dân chủ chống lại phái chủ nô quý tộc .
Đémocrite giải thích nguồn gốc của sự vận động : chính sự va chạm của nguyên tử vơí
nhau làm cho các sự vật vận động . Vận động của nguyên tử theo chiều hướng thẳng đứng .
Điều này quy định tính tất nhiên , quy luật trong sự vận động của các sự vật . Và từ đó , theo
ơng , khoa học tự nhiên đã phản ánh trật tự xã hội , đó là trật tự của xã hội theo chế độ chiếm
hữu nơ lệ.
Trong khi đó Platon đứng trên lập trường của phái chủ nô quý tộc chống lại phái chủ nơ
dân chủ . Quan điểm chính trị của ơng thể hiện mơ hình xây dựng nhà nước lí tưởng . Nhà
nước lí tưởng theo ơng là nhà nước xây dựng bằng ba đẳng cấp trong xã hội. Mỗi đẳng cấp
tương ứng với một bộ phận trong linh hồn con người . Ơng phê phán tất cả các loại hình nhà
nước đã từng tồn tại trong lịc sử như : nhà nước vua chua hay nhà nước quân chủ mang tính
tước đoạt ; nhà nước quân phiệt mang tính đàn áp ; nhà nước dân chủ , quyền lợi thuộc về số
đông , là đầu mối của mọi sự rối loạ .Ông cho con người về bản chất phải thuộc về nhà nước ,
nếu vượt ra ngồi khn khổ nhà nước , con người không phải là con người phát triển về đạo
đức hoặc đó là động vật hoặc đó là Thượng Đế . Dân cư đều thuộc về nhà nước , nhưng không
phải mọi dân cư . Những người nô lệ không thuộc nhà nước mà chỉ là những cơng cụ biết nói
mà thơi . Những quan điểm triết học của các nhà duy vật như Đémocrite gắn với quan điểm
chính trị là cơ sở lí luận cho hoạt động xã hội của những người tiến bộ trong giai cấp chủ nô
dân chủ. Trái lại , những quan điểm chính trị của phái chủ nơ q tộc và được dùng làm cơ sở
lý luận cho hoạt động của phái này .
b. Đấu tranh về nhận thức luận và logic học
Xu hướng đề cao lý trí xuất phát từ Thales, Pythagore, Heraclite, Parmecide, Anaxagore
được Leucipe và Đémocrite tiếp tục phát triển và đạt đỉnh cao dưới thời Dé mocrite. Ông cho
rằng tồn tại trong thực tế là tồn tại về mặt cảm giác, phân biệt hai dạng nhận thức – nhận thức
mờ tối và nhận thức chân thực tương ứng với hai nấc thang cảm giác và tư duy. Cảm giác đem
lại cho con người những chất liệu thô, thiếu chọn lọc. Dạng nhận thức ấy mới chỉ hướng đến
tồn tại bề ngoài của sự vật, mà chưa đi sâu vào bản chất của nó, chưa phân tích ngun nhân
của những cái do ta tri giác. Những chất liệu thô được tư duy xữ lý, cải biến để trở nên hoàn
thiện hơn. Nhiệm vụ của nhận thức là thong qua tư duy mà vạch ra tính quy luật bên trong, cơ
bản của sự vật. Đémocrite viết : “khi nào nhận thức chân mờ tối khơng cịn đủ sức để thấy cái
quá nhỏ cũng như để nghe, để ngửi, để nắm bắt được bằng xúc giác và vị giác nhưng vẫn
phải đi sâu vào phân tích cái tinh tế hơn (mà tri giác cảm tính khơng nắm nỗi nữa) thì lúc ấy
xuất hiện vai trị của nhận thức chân thực, vì trong tư duy có một cơ quan nhận thức tinh tế
hơn”.
Như vậy nhận thức chân thực không phải là duy nhất nhưng đóng vai trị quyết định trong q
trình nhận thức. Nhận thức chân thực hay sự thong thái theo Démocrite là sự phản ánh lý tưởng
mọi cái đang tồn tại, là cơ sở của tính khoa học trong nhận thức thế giới. Đémocrite không
phải là người sang lập ra logic học nhưng ơng đã đặt nền móng cho nó, xem nó là cơng cụ giải
mã tự nhiên. Đémocrite cũng viết một số tác phẩm về logic học, nêu ra hang loạt các quy tắc,
giả thiết, khái niệm, nhấn mạnh vai trò hang đầu của phép quy nạp. Trong tác phẩm“Công cụ
mới” (Novum Organum) Bacon hoan nghênh Đémocrite đã đi sâu vào tận chiều sâu thămthẳm
của tự nhiên, đồng thời than phiền rằng truyền thống tốt đẹp đó đã bịlàm hoen ố vào thời trung
cổ khi người ta chỉ tuyên truyền một cách ồn ào tư tưởng của Platon mà quên đi những giá trị
tinh thần khác.
Đối lập với tư tưởng Démocrite là tư tưởng của Platon, Platon không những nâng tư
tưởng duy tâm lên thành hệ thống, mà còn khẳng định tính tất yếu của sự đối đầu duy vật-duy
tâm trong triết học. Theo Platon, chủ nghĩa duy tâm là một triết học uyển chuyển vì nó thống
nhất với tinh thần và minh luận, còn chủ nghĩa duy vật là một triết học thô thiển, xa lạ, không
tin vào sự linh thiêng của đời sống con người, mà nếu tin thì cũng loại trừ vai trị của thần linh
trong công việc của trần gian, mà nếu cực chẳng đã thừa nhận thần linh thì cũng từ chối mọi
hành vi sung bái. Nguồn gốc và bản chất tồn tại là vấn đề nền tảng trong tư tưởng triết học
Platon. Sự khác nhau cơ bản giữa Platon và Démocrite trong nhận thức luận là cách lý giải
nguồn gốc và cơ sở của quá trình nhận thức. Thế giới khả giác, theo Platon luôn biến đổi, nhất
thời, không bền vững, nên không thể là tồn tại theo đúng nghĩa của từ đó. Tồn tại đích thực
phải bền vững, tự thân đồng nhất, không bịlệ thuộc vào điều kiện không gian, thời gian, vĩnh
cửu. Nó mới là đối tượng của lý trí. Platon cho rằng tri thức khơng phải là một hành vi cảm
giác, không phải là một kiến giải đúng mà là một kết quả được xây dựng trên nền tảng của thực
tại, thể hiện mối quan hệ có tính logic, tính quy luật của những hình ảnh diễn ra ở đó. Lý luận
nhận thức và logic học của Platon chìm đắm trong chủ nghĩa thần bí và duy tâm, nhưng khai
mở phương pháp phân tích khoa học những vấn đề này.
c. Đấu tranh trong quan niệm về con người và xã hội
Trong quan hệ xã hội Đémocrite đánh giá cao long nhân ái, tình bạn. Con người khơng
thể sống thiếu bạn bè, nhưng một người bạn thong minh vẫn tốt hơn nhiều người bạn ngu
đần, một người bạn chân chính đáng giá hơn ngàn người bạn giả dối. Con người thiện, theo
Đémocrite trước hết là con người sống có đức hạnh. Nhưng đức hạnh không phải đạt được
bằng cưỡng chế mà bằng thuyết phục với những chứng lý của trí tuệ, bằng giáo dục, bằng học
vấn. Triết lý đạo đức của Đémocrite xây dựng mẫu người hiền nhân, tương tự mẫu người quân
tử trong triết học nho giáo phương đông. Đémocrite xây dựng học thuyết về tiến bộ lịch sử tự
thân của loài người từ trạng thái thú vật sang trạng thái văn minh. Tôn giáo là sản phẩm của
lịch sử, xuất hiện do nỗi sợ hãi của con người trước các hiện tượng bí hiểm của thiên nhiên.
Sấm sét, mưa gió, bão tố, lụt lội, núi lữa, nhật thực, nguyệt thực – những hiện tượng đó người
nguyên thủy khơng thể giải thích được nên gán cho các hiện tượng siêu nhiên, sức mạnh thần
linh. Thực ra thần linh chỉ là những ngẫu tượng, nếu có thần linh thì đó là lý trí con người được
thần linh hóa. Mối quan hệ thần linh – con người được Đémocrite rút thành mối quan hệ giữa
con người – tự nhiên, trong đó con người từ chổ bắt chước thế giới tự nhiên đã tạo ra thiên
nhiên cho mình tức xã hội loài người. Học thuyết Đémocrite tạo ra bước đột phá trong triết học
Hy Lạp cổ đại, đặc biệt trong chủ nghĩa duy vật. Giá trị lịch sử của chủ nghĩa duy vật nguyên
tử cổ đại là ở chổ tính triệt để của nó, lần đầu tiên nó dám thách thức mục đích luận của tôn
giáo vốn ngự trị dai dẵng trong ý thức của con người, kích thích sự phát triển của tư duy khoa
học, nhất là khoa học tự nhiên lý thuyết. Những đột phá quan trọng của nguyên tử luận duy
vật càng làm sang tỏ khả năng xây dựng liên minh giữa khoa học và tự nhiên.
Mối quan tâm trong triết học xã hội của Platon là vấn đề đức hạnh với bốn đức hạnh
thường xuyên được nhắc tới là tiết độ, gan dạ, khôn ngoan và công bằng. Tiết độ là đức hạnh
cần có đối với các cơng dân, không phân biệt địa vị xã hội. Gan dạ không nhất thiết là đức
hạnh phổ biến. Chỉ cần một bộ phận cơng dân (các chiến binh) có được để bảo vệ quốc gia.
Khôn ngoan là đặc quyền của các triết gia và vua. Công bằng là đức hạnh xã hội vì nó thể hiện
trong đời sống của từng cá nhân lẫn cộng đồng, đóng vai trị thước đo, sự thẩm định tính chất
của thiết chế nhà nước. Như vậy quan niệm về con người của Platon khác biệt so với quan
niệm về con người của Đémocrite, trong khi Đémocrite đề cao trí tuệ là chuẩn mực chung cho
tồn xã hội thì Platon đề cao giá trị cơng bằng, khái niệm trừu tượng về con người trong xã hội.
Nhà nước Platon là sự thống nhất giữa những thực thể không bản sắc, hồn thành những chức
năng xã hội của mình bất chấp các quyền lợi, đòi hỏi, nhu cầu cá nhân. Trong nhà nước ấy
khơng có tư hữu, mọi cơng dân đều ăn chung, sống trong những doanh trại. Vàng bạc châu báu
không cần thiết. Phụ nữ là tài sản chung, trẻ con sinh ra được giáo dục trong môi trường xã hội.
Chủ nghĩa cộng sản của Platon là chủ nghĩa cộng sản trại lính, phi nhân tính, ấu trĩ, những
trong quan niệm về lao động, giáo dục có một số điểm tích cực.
Kết luận
Lịch sử triết học cổ đại Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đémocrite và đường
lối Platon. Những nhà triết học duy vật cũng là những người vô thần mà đại diện là Đémocrite
bảo vệ những quan điểm khoa học tự nhiên tiên tiến , đề ra hang lạt ý niệm khoa học , trong đó
có học thuyết về cấu tạo nguyên tử của vật chất , phê phán mê tín và những tư tưởng thần học .
Tuy chưa vạch ra hết nguồn gốc của thẩn học và tôn giáo nhưng những tư tưởng của họ đã góp
phần to lớn vào cuộc đấu tranh chống tư tưởng hữu thần của các nhà triết học duy tâm. Còn
những nhà triết học duy tâm với đại diện tiêu biểu Platon , bằng cách này hay cách khác chống
lại những quan điểm khoa học tự nhiên tiên tiến , căm thù chủ nghĩa vô thần , bảo vệ mê tín.
Ăngghen đã đánh giá cao triết học Hi Lạp cổ đại và ông đã nhận định rằng , trong những hình
thái mn vẻ của triết học hi lạp đã có mầm mống của tất cả các loại thế giới quan sau này .
Nếu khơng có Hy Lạp và đế chế La Mã thì khơng có châu âu hiện đại. Triết học Hi-La cổ đại
đã đặt ra những vấn đề về triết học như bản thể luận , nhân sinh quan , chính trị -xã hội, những
mầm mống của thế giới quan sau này , mở ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm , góp phần thúc đẩy sự phát triển của triết học .
Tài liệu tham khảo
[1] Triết học Hy Lạp Cổ Đại: Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999
[2]
Lịch sử triết học: Nxb. Tư tưởng – văn hoá, Hà Nội, 1991, Tập 1.