Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.72 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 9:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
HỌC VIÊN THỰC HIỆN : ĐÀO MẠNH LONG
STT : 53
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 4
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 – K20
GVHD : T.S BÙI VĂN MƯA
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 5/2011
DANH SÁCH NHÓM 4
STT Họ và Tên
49 Nguyễn Thị Bích Liên
50 Phan Hoài Linh
51 Trần Ngọc Linh
52 Đào Thị Bích Loan
53 Đào Mạnh Long
54 Trương Bảo Long
55 Đỗ Hữu Lộc
56 Nguyễn Văn Luận
57 Nguyễn Thanh Luận
58 Nguyễn Viết Mạnh
59 Trương Công Minh
60 Trương Quang Minh Nhóm trưởng
61 Đoàn Thị Minh
62 Trần Đăng Minh
63 Đoàn Thanh Nam


K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 2
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
64 Nguyễn Vũ Thành
65 Nguyễn Thành Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử khoảng 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng Triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài, đa
dạng với nhiều trường phái khác nhau, phát triển và ảnh hưởng khác nhau theo
từng khu vực địa lý. Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc đến nền Triết học Thế Giới là
hai nền Triết học: Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại. Đây là hai nền Triết học
đặt nền móng cho nền văn minh Thế Giới.
Nền Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng,
bản hợp xướng của Triết học Phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên
tiềm tàng của Triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống Triết học
Phương Tây sau này. Chính vì vậy F. Enghen đã khẳng định: “Không có cơ sở
văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì tuyệt nhiên không có Châu Âu hiện đại”.
Bên cạnh đó, khi xem xét đến văn minh Châu Á phải kể đến văn minh Trung
Quốc. Có thể nói văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 3
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
nhân loại, là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết Triết học lớn có ảnh hưởng lớn đến
nền văn minh Châu Á cũng như toàn Thế Giới. Xét về lịch sử phát triển và phạm
vi ảnh hưởng của Triết hoc cổ đại Trung Quốc chúng ta cũng có thể nói: “Nếu
không có Triết học Trung Quốc cổ đại thì không có Trung Quốc, Việt Nam và
một số nước Châu Á ngày nay”.
Sự ra đời và phát triển của hai nền Triết học này có ảnh hưởng hết sức to lớn
đến nhân loại, là cội nguồn của nền Triết học vĩ đại ngày nay. Nó đã trở thành
Thế Giới quan và phương pháp luận khoa học, từ đó đưa ra những nguyên lý

khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo Thế Giới, là tiền đề cho sự
phát triển văn minh nhân loại. Xét trên nhiều khía cạnh chúng ta thấy hai nền
Triết học này tuy hình thành ở những hoàn cảnh, vùng địa lý khác nhau và hình
thành những học thuyết Triết học khác nhau nhưng đồng thời cũng có những
điểm tương đồng không thể phủ nhận được.
Vì những lý do trên mà Nhóm 4 đã chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác
biệt giữa Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để tìm
hiểu và cũng để có cái nhìn sâu sắc hơn về hai nền Triết học này.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp chúng ta hiểu lý
giải được nguồn gốc, quá trình và xu hướng phát triển của hai nền Triết học, hiểu
được lịch sử tư tưởng từ các học thuyết nổi tiếng của những nhà Triết học Hy lạp
và Trung Quốc thời bấy giờ cũng như sự tương quan giữa chúng.
Với mục đích như trên, nội dung đề tài được cô đọng trong 2 chương:
− Chương 1: Giới thiệu khái quát về Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết
học Trung Quốc cổ đại:
+ Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển
+ Các đặc điểm cơ bản
+ Các trường phái Triết học tiêu biểu
− Chương 2: Đánh giá và so sánh giữa 2 nền Triết học Hy Lạp cổ đại
và Trung Hoa cổ đại
+ Các đặc điểm tương đồng
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 4
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
+ Các điểm khác biệt
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 5
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI
QUÁT VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

1.1.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, nhiều đồng
bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông
nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải, giao thương phát triển. Hy
Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia có nền công - thương nghiệp sớm phát
triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Thế kỷ VIII – VI TCN, thời
kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt, năng xuất lao động
tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được củng cố. Xu hướng
chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét.
Về nguồn gốc, từ sự phát triển về kinh tế, xã hội mạnh mẽ đã phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ, hình thành chế độ chiếm hữu
nô lệ. Lao động bị phân hóa, đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay, điều này thúc đẩy sự hình thành của tầng lớp tri thức biết xây dựng và sử
dụng hiệu quả tư duy lý luận để ra đời nghiên cứu triết học và khoa học và phát
triển mạnh mẽ.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Đặc đểm 1: Phát sinh và phát triển trên cơ sở kinh tế của xã hội chiếm hữu nô lệ
nên nó thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô
thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng cố vai
trò thống trị và khẳng định vị trí cấp cao. Triết học Hy Lạp có sự phân chia và
đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu
thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 6
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Đặc điểm 2: Xuất hiện phép biện chứng chất phác, duy vật sơ khai. Các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”, họ nghiên cứu và sử
dụng phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, tìm ra chân lý, bảo vệ
quan điểm của mình. Họ đã phát triển ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng
chưa trình bày chúng như một hệ thống chặt chẽ.
Đặc điểm 3: Do những nhà triết học của Hy Lạp đồng thời cũng là nhà khoa học

tự nhiên, nên họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết
luận triết học, chứa đựng hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan. Do trình
độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ,
phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên
sơ lược để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới.
Đặc điểm 4: Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, sự hình thành,
bản chất con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về con người, quá trình đấu tranh giữa tri thức khoa học và tín
ngưỡng, giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ
giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn
có nhiều bất đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là
tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
1.1.3. Các trường phái triết học Hy Lạp tiêu biểu
1.1.3.1 - Chủ Nghĩa Duy Vật :
a) Trường phái Milê: xuất phát từ giai đoạn đầu hình thành, do 3 nhà triết học
duy vật là Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng vào thế kỷ 6, TCN, nhằm
làm sáng rõ bản nguyên vật chất của thế giới. Talét chủ trương giải thích giới tự
nhiên không phải bằng niềm tin mà bằng sự kiện quan sát; ông kết luận: Nước là
yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật. Theo Anaximăngđrơ, apeiron là
nguồn gốc của vạn vật. Còn theo Anaximen, không khí có thể biến đổi thành mọi
thứ và tạo ra vạn vật. => duy vật giản đơn, chất phác, thô sơ; nhưng có ý nghĩa
vô thần, chống lại thế giới quan thần thoại hiện giờ.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 7
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
b) Trường phái Hêraclít : nổi trội nhất trong thời kỳ hình thành, do Hêraclít xây
dựng vào thế kỷ 6, TCN. Hêraclít coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật đều
từ lửa mà ra, rồi sau đó sẽ mất đi để quay về với lửa, nhưng tuỳ theo độ của lửa
mà vạn vật có thể chuyển hóa – thay đổi trạng thái. Hêraclít đã nêu lên các phỏng
đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Các luận
điểm cốt lõi của phép biện chứng đều đã được ông đề cập đến dưới dạng danh

ngôn, tỷ dụ. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Hêraclít
vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.
c) Trường phái đa nguyên: do Empêđốc và Anaxago xây dựng, Empêđốc thừa
nhận sự tồn tại của 4 khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa;
chúng chịu sự tác động của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù, vũ trụ luôn vận
động trải qua 4 giai đoạn. Anaxago cho rằng vạn vật phải được sinh ra từ các hạt
giống – cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng loại. Hạt giống cực
nhỏ và có thể phân chia đến vô tận. Mỗi sự vật vật chất chứa đựng trong mình
mọi hạt giống của các sự vật khác nhưng nó chỉ bị quy định bởi tính chất hạt
giống của chính nó =>duy vật khi giải thích thế giới vật chất. Nus –linh hồn của
thế giới, là động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay thế nhau. Nus đưa thế giới
thoát ra khỏi sự hỗn độn để đi vào quá trình biến hóa của mình, và qua đó nhận
thức bản thân thế giới=> quay về duy tâm.
d) Trường phái nguyên tử luận : do Lơxíp xây dựng và Đêmôcrít hoàn thiện dựa
trên thuyết nguyên tử (hai thực thể nguyên tử và chân không tụ lại tạo thành vật
chất): là một hệ thống quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán. Đêmôcrít có quan
điểm về nhận thức bao gồm cảm tính và lý tính, coi trọng lý tính sáng suốt, coi
nhẹ cảm tính từ giác quan. Đem lại các phương pháp nhận thức logic như qui
nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa. Ngoài ra, theo ông đạo đức là : Hiểu biết là
cơ sở của đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình,
không hại người. Hạnh phúc là trạng thái mà trong đó con người sống hưởng lạc
với tâm hồn thanh thản. Chính trị, xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước chủ
nô, lấy chế độ cộng hòa làm nền tảng chính trị, lấy chuẩn mực đạo đức và pháp
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 8
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
lý làm cơ chế hoạt động. Phát triển nền thương mại và sản xuất thủ công hướng
theo tình thân ái, tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, nô lệ phải tuân
theo lệnh ông chủ. Nhu cầu vật chất con người là động lực phát triển xã hội.
1.1.3.2 - Chủ Nghĩa Duy Tâm:
Hình thành trong trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy

lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan – thế giới ý
niệm của Platon.
a) Trường phái Pytagore :
Là nhà triết học, toán học uyên bác, ông cho rằng “con số” là bản nguyên
của thế giới, là bản chất của vạn vật. Thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh
hồn =>đặt nền móng ban đầu cho duy tâm cổ đại. Ông cũng bàn đến các mặt đối
lập của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô
hạn. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học, vật lý, sinh học và
đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội.
b) Trường phái Êlê :
Xênôphan (Xénophane): cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng
trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của
muôn loài. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của
vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát
cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn
mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Pácmênít (Parménide): sự vật không ngừng biến đổi từ dạng này sang
dạng khác, chỉ khác nhau ở cách thức biểu hiện của sự tồn tại, và tồn tại không
hề thay đổi, đó cũng là bản chất của sự vật, được nhận thức bởi tư duy lý tính.
Nhận thức lý tính đòi hỏi con người phải dùng trí óc để khám phá nguồn gốc, bản
chất của thế giới.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 9
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Dênông (Zénon): bảo vệ trường phái Êlê. Ông đưa ra những apôri nghĩa là
tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh
rằng “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và
vận động của thế giới là không thực.
c) Trường phái duy tâm khách quan :
Xôcrát (Socrate): không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn
nghiên cứu về con người, đạo đức:“Con người hãy nhận thức về chính mình”.

Platông (Platon): nhà triết học duy tâm khách quan: học thuyết về ý niệm, đưa ra
hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Nhận thức
của con người là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm
biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn
tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được
bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất,
cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Do vậy, theo ông duy tâm quyết
định duy vật.
Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức
là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá
trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật
của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã
quên trong quá khứ. Theo Platon tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn
toàn đúng đắn (tri thức ý niệm, hồi tương) và tri thức mờ nhạt (nhận thức cảm
tính, lẫn lộn, không có chân lý). Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước
lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát
triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết
các mâu thuẫn xã hội.
1.1.3.3 - Chủ Nghĩa Nhị Nguyên :
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Socrat, Platông là Triết gia Aristote học trò xuất sắc của Platông. Cống hiến nổi
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 10
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
bật của Aristote là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của
Platông. Ông công nhận tự nhiên tồn tại khách quan, đặt nền móng cho khoa học
lôgíc thời cổ đại, tam đoạn luận, vật lý học  duy vật trong tự nhiên; mặt khác
ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi
hình thức là tư duy, lý tính, suy nghĩ, thượng đế – thuyết nguyên nhân, không có
linh hồn bất tử nhưng có linh hồn lý tính bất diệt- tinh thần quyết định vật chất->
duy tâm trong xã hội, con người. Nhưng do hạn chế lịch sử và xuất thân là nhà tư

tưởng của giai cấp chủ nô quý tộc nên về mặt chính trị ông chỉ bảo vệ lợi ích cho
tầng lớp này, bảo vệ tầng lớp trung lưu, khinh miệt nô lệ, về mặt triết học ông là
nhà nhị nguyên luận.
1.2. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.2.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á. Trên lãnh thổ
Trung Hoa có hai con sông lớn chảy qua: sông Hoàng Hà ở phía bắc và sông
Trường Giang ở phía nam tạo nên hai miền Bắc Nam với nhiều khác biệt, nền
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, định canh, định cư.
Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều nhà Hạ (~thế kỷ XXI -
thế kỷ XVI TCN) do Hạ Vũ đặt nền móng, tồn tại tới thời vua Kiệt thì bị diệt
vong. Thời này, người Trung Quốc chỉ mới biết dùng đồng đỏ, thế giới quan thần
thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần.
Những tư tưởng triết học đã xuất hiện; và trải qua 2 vương triều nhà Thương (còn
gọi là Ân, thế kỷ XVI - thế kỷ XII TCN) do Thành Thang thành lập, tồn tại tới
thời vua Trụ thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc sống định canh, định
cư; biết dùng đồng thau, khai khẩn ruộng đất và thực hiện đường lối tỉnh điền;
ma thuật được thay bằng tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và thần xã – tắc; và Vương
triều nhà Chu (~thế kỷ XII - 221 TCN) do Văn Vương thành lập, tồn tại hơn 8
thế kỷ trải qua thời Tây Chu đóng đô ở Cảo Kinh, trước 771 TCN và thời Đông
Chu đóng đô ở Lạc Ấp. Thời Tây Chu, đất nước Trung Quốc tương đối ổn định.
Nhưng sang thời Đông Chu, khi đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 11
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
nhân về ruộng đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước
đó đã làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Đó là tầng lớp địa chủ
mới đang lấn át và xung đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Do vậy, xã hội rơi
vào tình trạng rối ren; các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Sự tranh
giành địa vị xã hội của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào
tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời này bao gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân thu

(722-481 TCN) và Chiến quốc (403-221 TCN). Thực trạng đó của xã hội làm
xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về
trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử
gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh"
(trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Cuối thời Chiến
quốc , với sự lãnh đạo của Tần Thủy Hoàng, nhà Tần đã tiêu diệt các nước khác,
thống nhất giang sơn, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu
tiên của xã hội Trung Quốc.
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại
Một là, triết học Trung Quốc cổ đại chủ yếu tập trung giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đạo đức -chính trị - xã hội của thời đại đặt ra. Bởi đây là thời
kỳ đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đặc biệt quan tâm, tìm cách lý
giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện tượng xã hội
biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại.
Hai là, triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc
biệt là nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con
người một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt
động trong điều kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Để lại triết lý: nhân –
nghĩa –trí –học, tu thân –trị gia –tề quốc.
Ba là, triết học Trung Quốc cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 12
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
quanh vấn đề con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất
(Thiên - Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ
nền triết học này.
Bốn là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết
học Trung Quốc cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ
những tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình

1.2.3. Các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại tiêu biểu
1.2.3.1 - Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành :
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ,
cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của 2
thái cực (lực lượng) đối lập nhau là âm và dương. Nhưng hai thế lực Âm -
Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau.
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của
vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau,
tương sinh, tương khắc với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ.
Tóm lại, bằng lý luận Âm dương và lý luận Ngũ hành, Âm dương gia đã
đứng trên quan điểm duy vật chất phác để giải thích một cách máy móc sự phát
triển của thế giới. Chúng có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và
mục đích luận trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. Ngoài ra, chúng
còn góp phần tạo nên cơ sở lý luận dẫn tới những phát minh về thiên văn, lịch
pháp, y học trong lịch sử Trung Hoa cổ trung đại.
1.2.3.2 - Nho gia :
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người
sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Nho gia nguyên thuỷ là triết lý của
Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người quân tử vá cách thức trở thành người
quân tử, cách cai trị đất nước. Đồng thời chứa đựng nhiều giá trị nhân bản và toát
lên tinh thần biện chứng sâu sắc. Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 13
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau:duy vật và
duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng-Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất
trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
1.2.3.3 - Đạo gia :
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN), học thuyết
của ông được Dương Chu và Trang Chu thời chiến quốc hoàn thiện và phát triển
theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được

khảo cứu chủ yếu qua Đạo Đức kinh và Nam hoa kinh. Tư tưởng cốt lõi của Đạo
gia là học thuyết về “Đạo” với những tư tưởng biện chứng, cùng với học thuyết
“Vô vi” về lĩnh vực chính trị - xã hội.
1.2.3.4 - Mặc gia :
Do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 TCN) sáng lập thời Xuân
Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong
ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc). Tư tưởng triết học trung
tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên mệnh". Theo quan niệm này
thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do định mệnh của Trời mà là do
người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được
nghèo đói. Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết
về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh
nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
1.2.3.5 - Pháp gia :
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng
những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo
đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói
đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế
độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương
thời. Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử(280-233 TCN). Phép trị quốc của
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 14
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội
dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách
đó.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 15
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ SỰ
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA HAI NỀN
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRUNG HOA

CỔ ĐẠI
2.1. ĐÁNH GIÁ SỰ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA HAI NỀN TRIẾT HỌC
2.1.1 Tư tưởng triết học chịu sự tác động từ điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã
hội
Triết học Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại cùng ra đời dựa trên những
thành tựu rực rỡ của các lĩnh vực văn hóa và khoa học tự nhiên, gắn bó mật thiết
với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm
xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất. Tuy
Hy Lạp cổ đại và Trung quốc cổ đại có điều kiện tự nhiên và lịch sử không giống
nhau nhưng tất cả điều ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và sự phát triển của Triết
học.
Bên cạnh đó, cả hai nền Triết học này cùng ra đời trong bối cảnh xã hội có
sự phân chia giai cấp, địa vị xã hội ngày càng rõ nét.
2.1.2 Sự tương đồng khi nghiên cứu về con người, đạo đức nhân sinh quan,
đặt vai trò con người ở vị trí trung tâm.
Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, sự hình thành, bản
chất con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác
nhau về con người, quá trình đấu tranh giữa tri thức khoa học và tín ngưỡng, giữa
chủ nghĩa duy vật và duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn
và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn có nhiều bất
đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao
quý nhất của tạo hóa.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 16
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Triết học Trung Quốc cổ đại cũng bàn nhiều về vấn đề con người, đặc biệt
là nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con người
một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt động trong
điều kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Để lại triết lý: nhân –nghĩa –trí –học,
tu thân –trị gia –tề quốc.
Nhìn chung triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Hy lạp cổ đại đều coi

trọng vấn đề con người. Con người được xem là tinh hoa cao quý nhất của tạo
hóa.
2.1.3 Quan niêm về chính trị - xã hội:
Triết học Trung Quốc cổ đại và Triết học Hy Lạp cổ đại phần lớn đều phát triển
dựa trên tinh thần đề cao, bảo vệ giai cấp thống trị đang tồn tại lúc bấy giờ.
Triết học Hy Lạp cổ đại: Đềmôcrít luôn xuất phát từ quan điểm duy vật để
bảo vệ quyền lợi của tần lớp chủ nô. Theo ông, chế độ dân chủ chủ nô phải gắn
liền với nền thương mại và sản xuất thủ công, nhưng nó củng phải gắn liền với
tình thân ái, với tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, chứ không phải
của nô lệ. Nô lệ cần phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Platông cho rằng có
ba bộ phận cấu thành linh hồn con người cảm giác, ý chí và lý trí nên trong xã
hội có 3 loại người. Loại thứ nhất bao gồm các triết gia – những người mà bộ
phận lý trí trong linh hồn đóng vai trò chủ đạo. Loại thứ hai bao gồm các chiến
binh – những người mà bộ phận ý chí trong linh hồn họ đóng vai trò chủ đạo.
Loại thứ ba bao gồm nông dân, thợ thủ công, thương gia… những người mà bộ
phận cảm xúc trong linh hồn đóng vai trò chủ đạo. Nô lệ không được coi là con
người mà là động vật biết nói, do không có lý trí nên nô lệ không có nhận thức,
không có đời sống đạo đức nên nằm ngoài vòng chính trị. Arixtốt cho rằng sứ
mạng của nhà nước là đảm bảo cho mọi người trong cộng đồng một cuộc sống
hành phúc, mức độ phúc lợi xã hội ngày càng cao nhưng ngoại trừ nô lệ bởi vì nô
lệ không phải là con người mà chỉ là công cụ sống biết nói.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 17
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Triết học Trung Quốc cổ đại: Nho Giáo với quan niệm tam cương: quân -
thần, phụ - tử, phu – phụ trong đó mối quan hệ quân - thần quan trọng nhất
“Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung”, nho giáo chủ trương xây dựng xã hội
đại đồng dựa trên các quan hệ kinh tế - xã hội, không xuất phát từ sản xuất vật
chất, không dựa vào quần chúng nhân dân bị trị, chỉ dựa trên các quan hệ đạo
đức – chính trị - xã hội xuất phát từ việc giáo dục, rèn luyện nhân cách cá nhân
cho tầng lớp thống trị. Pháp gia chủ trương lấy pháp luật làm căn bản trong việc

cai trị đất nước, chủ trương nhà cầm quyền không phải chú trọng nhiều đến việc
tu thân theo nghĩa là đặt ra luật pháp cho rõ ràng và ban bố cho mọi người cùng
biết để tuân theo nghiêm chỉnh.
2.2. ĐÁNH GIÁ SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI NỀN TRIẾT HỌC
2.2.1 Đối tương nghiên cứu:
Triết học Trung Quốc cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ
giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên
nhân hợp nhất”. Lấy con người làm đối tượng nghiên cứu mang tính hướng nội.
Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan và trong ý
niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có
đầy đủ trong ta”. Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong lòng ta, lòng ta là vũ trụ.
Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ - kinh dịch thì biết đến cùng cái tính của
con người thì cũng có thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất: trời có chín
phương, con người có chín khiếu. Bát quái trong thuyết âm dương là: Càn –
khôn, chấn – tốn, cấn – đoài, khảm – ly tượng trưng cho 8 yếu tố vật chất tạo
thành vũ trụ đối lập nhau là: Trời – đất, sấm – gió, núi – hồ, nước – lửa; tượng
trưng cho quan hệ gia định: cha – mẹ, con trai cả – con trai giữa, con gái giữa –
con gái út, con trai út – con gái cả; tượng trưng cho tính khí con người: tính kiên
nghị - tính ghen tuông, tính phản trắc – tính lừng khừng, tính tháo vác – tính hay
chê, tính hay lo – tính hoạt bát…
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 18
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Đối với Triết học Hy Lạp cổ đại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con
người là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới khách quan.
Triết học Hy Lạp đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại.
Một số trường phái nếu có đề cập đến con người thì cũng chỉ thông qua đó để cố
giải thích thế giới. Pytago cho rằng bản nguyên thế giới là con số. Trật tự các con
số được quy định bởi trật tự của vạn vật, trong đời sống phải cố vạch ra trật tự
các con số từ trong trật tự của sự vật (trật tự những điều ác, điều thiện….) để
khám phá ra trật tự thần thánh. Điều ác nhất định sẽ xảy ra nếu người ta không

hiểu đúng và làm theo trật tự thần thánh. Trường phái ÊLê, Xênôphan cho rằng
không phải thần thánh sáng tạo ra con người, mà chính con người sáng tạo ra các
vị thần theo trí tưởng tượng và hình tượng của mình “Nếu như bò, ngựa và sư tử
có tay và biết vẽ hay biết nặng tượng như con người thì chúng sẽ căn cứ vào bản
thân mình để vẽ hoặc nặng ra tượng về Thượng đế giống như mình để tôn thờ…”
Triết học Trung Quốc cổ đại đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người
với người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ
nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai cấp trống trị cho
nên nghiên cứu con người không phải là để giải phóng con người mà là để cai trị
con người, không thấy quan hệ giữa người với người trong lao động sản xuất.
Đổng Trọng Thư đề cập đến mối quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, nếu xếp
theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang
của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ thể hiện rõ sự phân tầng
trong xã hội. Khổng tử lấy Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu… làm chuẩn
mực đạo đức. Lão Tử xây dựng thuyết “Vô Vi” là sống và hành động theo lẽ tự
nhiên, thuần phác, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và ngược
với bản tính tự nhiên. Trang Tử xây dựng quan niệm nhân sinh thoát tục – vị ngã –
toàn sinh nghĩa là phải yên theo thời mà ở thuận, vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý…
Triết học Hy Lạp cổ đại họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề
cao cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người về
mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc để giải
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 19
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
phóng con người. Pytago cho rằng linh hồn con người bất tử, tồn tại độc lập với
thể xác và chịu chi phối bởi luật luân hồi, giải thoát linh hồn ra khỏi sự ràng buộc
của thể xác là mục đích của cuộc sống. Nhận thức là chức năng của linh hồn và
nhờ vào sự mách bảo của thần thánh, thần thánh tạo ra trật tự vũ trụ. Pácmênít
cho rằng, tồn tại là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong thế
giới, theo Pácmênít có hai cách nhận thức thế giới là nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính. Nhận thức cảm tính là nhận thức thông qua các giác quan chỉ mang

lại sai lầm, ảo giả, không thể khám phá ra bản chất đích thực của thế giới. Nhận
thức lý tính thông qua hoạt động trí óc khám phá ra bản chất đích thực của thế
giới – cái tồn tại, nghĩa là phát hiện ra chân lý. Platông cho rằng con người là sự
kết hợp giữa thể xác khả tử (được cấu thành từ đất, nước, lửa, không khí) và linh
hồn bất tử (được thượng đế tạo ra). Linh hồn con người bao gồm ba bộ phận:
cảm giác, ý chí và lý trí; trú ngụ tạm thời ở ba chổ trong cơ thể (từ rốn trở xuống,
trong lồng ngực, trong đầu óc) hoạt động theo ba khía cạnh (dục vọng, tình cảm,
nhận thức), thể hiện ba phẩm hạnh (điều độ, can đảm, khôn ngoan), trong đó chỉ
có lý trí là bất tử.
2.2.2 Quá trình hình thành và phát triển.
Triết học Trung Quốc cổ đại ít thấy có những bước nhảy vọt về chất có
tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Nội
dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi sâu vào
từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở nhân – lễ –
chính danh, nhưng có cải biên về một phương diện nào đó ví như Lễ thời tiền
Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến thành tam cương ngũ thường,
đời Tống biến thành chữ Lý… Âm Dương Gia với lý luận âm dương là hai yếu
tố, hai khuynh hướng đối lập không tách rời nhau, ôm lấy nhau, xoắn vào nhau.
Đạo Gia thì cho rằng Đạo sinh ra vạn vật, nhờ đức mà thể hiện, khi mất đi là lúc
vạn vật quay về với Đạo. Đạo sinh ra Một – khí thống nhất, Một sinh ra Hai –
âm dương đối lập, Hai sinh ra Ba – trời, đất, người, Ba sinh ra vạn vật, như vậy
Âm Dương cũng được phát triển ở Đạo Gia với bản chất không đổi so với Âm
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 20
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Dương Gia nhưng nó được lý giải theo một chu trình khác, phát triển bên cạnh
nhiều yếu tố khác. Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một
trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng của trật tự đó là thiên mệnh. Khổng
Tử cho rằng con người có tính người, tính người do trời phú. Khi đến Mặc Gia
thì yếu tố Trời hay ý trời được Mặc Tử phát triển thêm bên cạnh yếu tố Quỷ thần,
các yếu tố này luôn giám sát chặt chẽ mọi hành vi của con người để khen thưởng

những việc làm nhân nghĩa hay trừng phạt những hành động độc ác một cách
công minh.
Triết học Hy Lạp cổ đại ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường
phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại. Trường
phái duy vật nhất nguyên Milê, Talét giải thích thế giới có nguồn gốc từ nước
Anaximăngđrơ là apeiron, Anaximen là không khí. Những quan niệm triết học
duy vật của trường phái Milê tuy còn mộc mạc, thô sơ nhưng có ý nghĩa vô thần
chống lại thế giới quan thần thoại đương thời và chứa đựng những yếu tố biện
chứng chất phác. Trường phái duy vật nhất nguyên Hêraclít thể hiện rõ các tư
tưởng biện chứng chất phác thông qua các phỏng đoán thiên tài về quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, tuy các quan niệm biện chứng chưa được
trình bày như một hệ thống nhưng hầu hết các luận điểm cốt lõi được Hêraclít
trình bày dưới dạng danh ngôn, tỷ dụ hay những phát biểu mang tính triết lý sâu
sắc. Trường phái duy vật đa nguyên Empêđốc khởi nguyên của vũ trụ là bốn yếu
tố đất, nước, lửa, Anaxago cho rằng khởi nguyên thế giới là các hạt giống, các
hạt giống có thể sinh sôi nảy nở nhờ vào một động lực đó là Nus – trí tuệ thuần
túy hay linh hồn của thế giới. Trường phái nguyên tử luận là đỉnh cao của triết
học duy vật hy lạp cổ đại, Lơxíp là người đầu tiên nêu lên các quan điểm về
nguyên tử, Đêmôcrít là người phát triển quan niệm này thành một hệ thống chặt
chẽ và có sức thuyết phục. Mặt dù vẫn còn nhiều hạng chế nhưng Đêmôcrít đã
nâng chủ nghĩa duy vật Hy Lạp lên đỉnh cao đủ sức đương đầu chống lại trào lưu
duy tâm đang thịnh hành lúc bấy giờ, cụ thể là trào lưu duy tâm của Platông.
Trường phái duy tâm ngụy biện của Platông với thuyết ý niệm. Trường phái duy
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 21
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
vật siêu hình Arixtốt đã cố gắn khắc phục sự đối lập giữa hai khuynh hướng nhất
nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm, ông đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại lên
đỉnh cao cực thịnh.
2.2.3 Sự phân chia ra cac trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng
Triết học Trung Quốc cổ đại đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy

tâm biện chứng, siêu hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi
sâu vào những nội dung cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là
duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất
quán, thiếu triệt để của triết học. Các trường phái triết học ít đấu tranh với nhau
mà có tính kế thừa nhau. Âm Dương gia xuất hiện đầu tiên thời nhà Thương với
lý luận âm dương và lý luận ngủ hành đứng trên quang điểm duy vật chất phát.
Nho Gia với Khổng Tử dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
giữa chủ nghĩa vô thần và hữu thần. Duy vật: có chỗ ông coi sự biến đổi của trời
như là một quy luật, là trật tự của vạn vật: “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn
thay đổi, muôn vật vẫn sinh ra”. Đứng bên bờ sông nhìn dòng nước chảy, Khổng
Tử tự hỏi: “Trôi chảy mãi thế ư? Ngày đêm không ngừng lại”. Duy tâm: Ông
cho trời là một lực lượng vô hình quyết định số phận của mỗi người và sự thịnh
sang của mỗi thời đại (Vua dân tế trời). Mỗi cá nhân sự sống chết, phú quý hay
nghèo hèn là do Thiên mệnh quy định, phú quý không thể cầu mà có được, do
vậy bất tất phải cầu. Tin ở Mệnh trời “Thiên mệnh”, sống chết có mệnh, giàu
sang tại trời. Sống theo mệnh trời, tuân theo mệnh trời thì sống, làm những điều
nhân điều thiện thì có thể biến nguy thành an. Trời như một vị thần có nhân cách,
mắc tội với trời thì cầu cũng vô ích. Mặc gia cho rằng, ý trời luôn muốn mọi
người yêu thương nhau, nhưng sự giàu – nghèo, thọ – yểu, hành phúc – bất
hạnh… lại là do nhân tạo, thuyết tam biểu cho rằng: cái gì lỗ tai, con mắt không
cảm thấy là không có. Muốn xác định cái gì đó đúng hay sai, cần phải xem nó có
cái gốc (căn cứ lịch sử) như thế nào, có cái nguồn (ý kiến của trăm họ) hay
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 22
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
không. Do coi thường nội dung khách quan của kinh nghiệm con người mà
thuyết tam biểu dựa trên quan điểm duy giác, từ bỏ duy vật đến với duy tâm và
cuối cùng rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm cực đoan. Đạo Gia với Lão Tử dùng
Đạo để giải thích thế giới, Đạo được hiểu như là cái tự nhiên tĩnh mịch, yên lặng,
mộc mạc, hỗn độn, mập mờ, thấp thoáng, không có đặt tính, không có hình thể,
Đao là nguồn gốc sinh ra vạn vật, là quy luật của mọi cái đã, đang và sẽ tồn tại.

Lão Tử cho rằng bất cứ sự vật nào cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập,
chúng ràng buột bao hàm lẫn nhau. Lão Tử cũng khẳng định càng tách xa Đạo,
xã hội càng chứa nhiều mâu thuẫn… Phép biện chứng của Lão Tử mang tính chất
máy móc, đơn giản. Vạn vật chỉ vận động tuần hoàn lặp đi lặp lại một cách buồn
tẻ mà không có sự ra đời của cái mới, nghĩa là không có sự phát triển. Nhưng đến
Trang Tử thì biến các yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử thành chủ
nghĩa tương đối và thuyết ngụy biện với quan niệm nhân sinh thoát tục – vị ngã –
toàn sinh đầy tính duy tâm.
Triết Học Hy Lạp cổ đại sự phân chia các trường phái rõ nét hơn và các hình
thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ, duy tâm ngụy biện
đến duy vật siêu hình. Sự đấu tranh giữa các trường phái cũng gay gắt hơn.
Trường phái Milê (TK VI TCN) gồm Talét với giải thích khởi nguyên của vũ trụ
là nước “Nước tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó tạo ra thì không ngừng sinh
ra, biến đổi và mất đi. Thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như một
vòng biến đổi tuần hoàn không ngừng nghỉ mà nước là nền tảng của vòng tuần
hoàn đó”. Anaximăngđrơ là apeiron – là cái vô định hình chứa trong mình những
lực lượng đối lập nhau; chính sự đấu tranh của những lực lượng đối lập này mà
vạn vật có hình thể, tính chất khác nhau được sinh ra và sau đó, các vật đối lập
nhau sẽ hủy diệt nhau để trở về với apeiron…, Anaximen cho rằng không khí có
thể biến thành nước, đất, đá,… hay lửa, Trường phái Milê thể hiện tư tưởng biện
chứng chất phác, phép biện chứng ngây thơ, chứa yếu tố vô thần. Trường phái
nguyên tử luận gồm Lơxíp và Đêmôcrít (TKVI-TKV TCN), Lơxíp cho rằng cái
tồn tại (nguyên tử) cái không tồn tại (chân không) cũng tồn tại, nguyên tử và
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 23
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
chân không là khởi nguyên của thế giới. Nguyên tử là những hạt vật chất cực
nhỏ, không nhìn thấy, không phân chia được, không biến đổi, luôn vận động và
tồn tại vĩnh viễn, sự kết hợp các nguyên tử tạo thành sự vật trong thế giới. Chân
không (không gian trống rỗng) không có kích thước hình dạng, vô tận và duy
nhất. Nguyên tử vận động trong chân không theo luật nhân quả. Trường phái duy

tâm ngụy biện Xôcrát Platông (TKV-TKIV TCN), Xôcrát chú ý đến đạo đức học
duy lý. Ông cho rằng hiểu biết là cơ sở của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của
cái ác, chỉ có cái thiện phổ biến mới là cơ sở của đạo đức. Platông với thuyết ý
niệm chia thế giới ra thành thế giới ý niệm (lý tính, tồn tại trên trời, mang tính
phổ biến, chân thực, tuyệt đối…) và thế giới sự vật (cảm tính, tồn tại dưới đất,
mang tính cá biệt, ảo giả, tương đối…), Trường phái duy vật siêu hình Arixtốt
(TKIV TCN) với thuyết nguyên nhân và thuyết vận động, Arixtốt đã đứng trên
quan niệm duy vật tiến bộ phê phán thuyết ý niệm của Platông ông cũng không
ủng hộ quan điểm duy vật bàn về khởi nguyên vật chất của vũ trụ. Với thuyết
nguyên nhân Ông cho rằng tồn tại nói chung phải xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ
bản: Vật chất (vật liệu), hình thức (hình dạng), vận động (thao tác) và mục đích
(cứu cánh). Trong đó, hình thức và vật chất giữ vai trò quan trọng nhất (nhị
nguyên luận), tuy nhiên, ông lại cho rằng hình thức có vai trò quyết định hơn vật
chất (nhất nguyên luận). Với thuyết vận động Ông cho rằng giới tự nhiên là toàn
bộ các sự vật, quá trình luôn vận động có liên hệ với nhau và được cấu thành từ
một bản thể vật chất. Vận động không thể bị tiêu diệt và cũng không thể tách ra
khỏi sự vật quá trình tự nhiên. Từ các giá trị mà Arixtốt đem lại cho nhân loại
ông trở thành người “khổng lồ” về tư tưởng, mở ra một chân trời khoa học mênh
mông cho phương Tây phát triển và lý trí Hy Lạp nảy nở.
2.2.4 Phương pháp nhận thức và thuật ngữ sử dụng.
Triết học Hy Lạp cổ đại dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản thể”, “vật
chất”. Triết học Trung Quốc cổ đại lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo sắc, hình,
vạn pháp, hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ Để nói về bản chất của
vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ thì Hy Lạp
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 24
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
dùng phạm trù khách thể – chủ thể; con người với tự nhiên, vật chất với ý thức,
tồn tại và tư duy. Triết học Trung Quốc cổ đại lại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí –
khí, hình – thần. Trong đó hình thần là những phạm trù xuất hiện sớm và dùng
nhiều nhất.

Triết học Hy Lạp cổ đại dùng thuật ngữ “biện chứng” siêu hình, thuộc
tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu tranh cái động là chính. Đối với triết
học Trung Quốc cổ đại dùng thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch, vô thường, thường
còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc là vì triết học Trung Quốc
được xây dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì
Triết học Hy Lạp cổ đại dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn
Triết học Trung Quốc cổ đại dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng
xuất phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp
điệu, tính quy luật, tính xoắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi Có
nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các xoắn ốc
Triết học Hy Lạp cổ đại được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa học, gắn
liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở Trung Quốc
cổ đại, triết học gắn với những hiền triết - nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo đức,
chính trị-xã hội.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 25

×