Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

VĂN hóa PHÁP LUẬT VN HIỆN NAY NHÌN từ mối QUAN hệ 221027 163714

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 145 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
===

VĂN HĨA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
NHÌN TỪ MỐI QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

Chủ nhiệm đề tài: TS. LÊ THỊ HỒNG VÂN

TP. HCM - 2010
1


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 5
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................7
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của đề tài ....................................................8
4. Mục tiêu của đề tài ...........................................................................................9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................9
6. Dự kiến sản phẩm nghiên cứu của đề tài và khả năng ứng dụng ...................10
7. Cấu trúc của cơng trình nghiên cứu ...............................................................11
CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM VĂN HÓA – VĂN HÓA PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY .............. 12
1.1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa pháp luật................................................12
1.1.1. Giới thuyết về khái niệm về văn hóa........................................................12
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa ............................................................................ 12


1.1.1.2. Đặc trƣng và biểu hiện của văn hóa .................................................. 15
1.1.1.3. Vai trị của văn hóa đối với sự phát triển .......................................... 18
1.1.2. Giới thuyết về văn hóa pháp luật ............................................................................. 19
1.1.2.1. Khái niệm văn hóa pháp luật............................................................. 19
1.1.2.2. Biểu hiện của văn hóa pháp luật ....................................................... 22
1.2. Thực trạng của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay ............................... 24
1.2.1. Ý thức và hành vi ứng xử không thƣợng tôn pháp luật.......................... 26
1.2.1.1. Vi phạm trong lĩnh vực giao thông ................................................... 26
1.2.1.2. Vi phạm trong quản lý xây dựng....................................................... 31
1.2.1.3. Vi phạm trong bảo vệ mơi trƣờng và vệ sinh an tồn thực phẩm ..... 34
1.2.1.4. Sự gia tăng các hành vi bạo lực và ứng xử “luật rừng” .................... 41
1.2.2. Tính hiệu lực của các thiết chế thực thi pháp luật và văn bản pháp luật 50
1.2.2.1. Thực trạng chất lƣợng của bộ máy công quyền ................................ 50
2


1.2.2.2. Thực trạng về chất lƣợng xét xử của tòa án ...................................... 60
1.2.2.3. Thực trạng về chất lƣợng văn bản pháp luật ..................................... 71
1.3. Đánh giá chung về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay .......... 84
1.3.1.Thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay - bức tranh xám màu. 84
1.3.2. Các nguyên nhân trực tiếp ........................................................................85
CHƢƠNG 2: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐẾN
VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................ 88
2.1. Sự tác động của văn hóa nơng nghiệp lúa nƣớc ................................................ 90
2.1.1. Tính cộng đồng ..................................................................................... 90
2.1.2. Lối ứng xử trọng tình nhẹ lý ...................................................................................... 95
2.1.3. Lối sống trọng lệ hơn luật và ứng xử “phép vua thua lệ làng” ................98
2.1.4. Tƣ duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính.......................................105
2.2. Sự tác động của tƣ tƣởng Nho giáo ......................................... ………… 108
2.2.1. Nho giáo và tƣ tƣởng trong đạo lý hơn pháp lý .....................................108

2.2.2. Nho giáo và truyền thống “vô tụng” ......................................................110
2.3. Phật giáo với tƣ tƣởng hiếu hòa, nhân ái, vị tha .......................................117
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO VĂN HÓA PHÁP LUẬT
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ............................................................................................. 121
3.1. Các giải pháp nền tảng có tính chiến lƣợc ................................................ 117
3.1.1. Thanh lọc, tẩy trừ những tiêu cực, lạc hậu của văn hóa truyền thống .. 122
3.1.1.1. Thay đổi tƣ duy tiểu nơng tùy tiện, chủ quan, cảm tính.................. 122
3.1.1.2. Thay đổi thói quen ứng xử của văn hóa làng . ................................ 122
3.1.2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại ....................................................... 125
3.1.2.1. Tạo điều kiện cho sự phát triển ý thức về quyền cá nhân ............... 125
3.1.2.2. Xây dựng ý thức và thói quen sử dụng pháp luật ........................... 126
3.2. Các giải pháp cụ thể và cấp bách......................................................................... 127
3


3.2.1. Xử lý nghiêm minh, triệt để và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.127
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật.......128
3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực ngành Luật vừa hồng vừa chuyên…….……. 130
3.2.4. Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân…….....….……….131
KẾT LUẬN………………………………….………………………….…....132

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Cơng cuộc đổi mới đất nƣớc hiện nay đặt chúng ta trƣớc nhiều mục tiêu
và nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, trong đó có mục tiêu xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền, lấy pháp luật làm nền tảng điều tiết các hành vi cá nhân và các quan hệ xã
hội, hƣớng đến một xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, những năm gần

đây, Nhà nƣớc đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật,
cùng với việc tuyên truyền, phổ biến để pháp luật đi vào đời sống, nhằm từng
bƣớc hình thành nếp sống và thói quen hành xử tôn trọng pháp luật. Nhƣng thực
tế cho thấy, văn hóa ứng xử với pháp luật trong xã hội ta hiện nay còn nhiều tiêu
cực, biểu hiện từ các hành vi ứng xử với pháp luật của mỗi cá nhân trong đời
sống hàng ngày cho đến trình độ vận dụng công cụ pháp luật của Nhà nƣớc trong
quản lí xã hội cũng nhƣ việc thực thi pháp luật trong thực tế… Hệ quả là, thói
quen khơng tn thủ pháp luật, coi thƣờng pháp luật, lách luật, lối ứng xử tùy tiện
với pháp luật… đang tồn tại và biểu hiện rất phổ biến, không chỉ với dân thƣờng
mà ngay cả đối với những cán bộ, công chức trong các cơ quan cơng quyền; thậm
chí, cả với những ngƣời đang nắm giữ cán cân công lý của xã hội. Theo đó là sự
gia tăng đến mức báo động các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật.
Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là “ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” đang là
nỗi bất bình của tồn xã hội. Thực trạng ấy đang từng ngày làm ơ nhiễm bầu
khơng khí tinh thần của xã hội, làm suy giảm đáng kể lịng tin của ngƣời dân đối
với tính nghiêm minh của pháp luật, dẫn đến coi thƣờng kỉ cƣơng phép nƣớc. Đó
cũng chính là những biểu hiện của một đời sống văn hóa pháp luật khơng lành
mạnh, một thái độ ứng xử văn hóa khơng thƣợng tơn pháp luật.
1.2. Trong bối cảnh xã hội mà sự vi phạm pháp luật trở nên phổ biến và đáng
báo động nhƣ hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền
càng đặt ra cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Trong nhiều bƣớc đi và giải
pháp có tính chiến lƣợc và đồng bộ, cần phải coi việc xây dựng một nền văn hóa
pháp luật tích cực, lành mạnh nhƣ một nhiệm vụ có tính nền tảng cần đƣợc đƣa
lên vị trí ƣu tiên trong chiến lƣợc phát triển. Văn hóa pháp luật vừa là một lĩnh
5


vực biểu hiện của văn hóa xã hội, nhƣng cũng đồng thời là sản phẩm của văn hóa
xã hội, chịu sự tác động của các yếu tố xã hội nhƣ phƣơng thức sản xuất, các hệ

tƣ tƣởng, văn hóa, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán… Sự hình thành văn
hóa pháp luật của một quốc gia, do vậy, khơng thể khơng bị chi phối bởi những
đặc trƣng văn hóa truyền thống. Nói cách khác, q trình hình thành nên một nền
văn hoá pháp luật cũng nhƣ thái độ của con ngƣời trong việc sử dụng pháp luật
đều có thể tìm thấy nguyên nhân sâu xa trong tập quán sản xuất, nếp sống và
những thói quen sinh hoạt…
Việt Nam là một quốc gia đã có lịch sử cả ngàn năm tồn tại và phát triển trên
nền tảng của phƣơng thức sản xuất nông nghiệp lúa nƣớc tiểu nông và tƣ tƣởng
Nho giáo, nơi mà các chuẩn mực điều chỉnh hành vi của xã hội dựa trên cơ sở
của luật tục hơn là luật pháp, đạo lý hơn là pháp lý, nay chuyển sang cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và xây dựng nền kinh tế thị trƣờng. Đây chính là một lực cản
rất lớn trong quá trình hội nhập, phát triển kinh tế và cao hơn là xây dựng một
nhà nƣớc pháp quyền. Bởi vậy, việc nhận diện văn hóa pháp luật Việt Nam hiện
nay nếu không chỉ ra đƣợc những căn nguyên sâu xa từ nền tảng văn hóa truyền
thống đứng sau những hiện tƣợng tiêu cực trong những hành vi ứng xử với pháp
luật thì khó có thể tìm ra những giải pháp có tính chiến lƣợc để xây dựng một nền
văn hóa pháp luật Việt Nam tích cực, lành mạnh, tạo nền tảng để thực hiện thành
công công cuộc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay.
1.3. Nếu văn hóa đƣợc coi là nền tảng, là nội lực của sự phát triển thì văn hóa
pháp luật là nền tảng, là nội lực để thực hiện thành công công cuộc xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền trong giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập tồn
cầu hóa ở nƣớc ta hiện nay. Để mục tiêu xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc
ta đƣợc thực hiện thành công, việc xây dựng, tạo lập một nền tảng văn hóa pháp
luật lành mạnh và tích cực đang đƣợc đặt ra nhƣ một nhiệm vụ cấp thiết. Một
trong những giải pháp có tính nền tảng để thực hiện mục tiêu đó, theo chúng tơi,
phải bắt đầu từ việc giáo dục, trang bị những kiến thức về văn hóa ứng xử với
pháp luật, trƣớc hết cho chính những ngƣời hoạt động trong ngành pháp luật, bởi
họ không chỉ có vai trị làm gƣơng, đại diện cho văn hóa ứng xử tích cực đối với
pháp luật, mà quan trọng hơn, họ cịn có sứ mệnh “hƣớng đạo” trong việc xây
6



dựng một nền văn hóa pháp luật lành mạnh, tích cực trong điều kiện và hoàn
cảnh của nƣớc ta hiện nay. Bởi vậy, trong nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo của
trƣờng Đại học Luật, cùng với việc truyền thụ kiến thức pháp lý, không nên, và
không thể coi nhẹ việc giáo dục tình cảm, đạo lý và thái độ ứng xử nhân văn ngay
trong môi trƣờng điều chỉnh của pháp luật, bởi lẽ, việc nắm vững và áp dụng
đúng các điều luật khơng hồn tồn đồng nghĩa với việc hành xử một cách có văn
hóa với pháp luật.
Với tất cả những lý do đó, chúng tơi thực hiện đề tài này với mục đích trƣớc
hết, và trực tiếp nhất, là trang bị cho sinh viên ngành Luật những kiến thức về
văn hóa ứng xử với pháp luật, giúp họ ý thức đƣợc mối quan hệ bản chất giữa
văn hóa với pháp luật và lý giải đƣợc thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện
nay từ những căn nguyên sâu xa của nền tảng văn hóa truyền thống. Trên cơ sở
đó để khi ra trƣờng họ biết cách hành xử có văn hóa trong nghề nghiệp, có ý thức
và trách nhiệm trong việc xây dựng một xã hội có nền văn hóa pháp luật tích cực,
lành mạnh để hội nhập và phát triển.
2. Lịch sử vấn đề
Những năm gần đây, khi nhân loại ngày càng ý thức sâu sắc hơn về vai trị
của văn hóa với tƣ cách là nền tảng của sự phát triển thì các nghiên cứu về văn
hóa đang trở thành một vấn đề đƣợc quan tâm đặc biệt. Trong xu thế chung ấy, ở
nƣớc ta, trong hơn một thập niên trở lại đây, việc nghiên cứu văn hóa đã khơng
chỉ dừng lại ở những nghiên cứu cơ bản nhƣ: bản chất của văn hóa, cấu trúc, vai
trị và chức năng của văn hóa, tác động của văn hóa đối với các lĩnh vực của đời
sống xã hội… mà đang có xu hƣớng ngày càng đi vào chuyên sâu, gắn với các
lĩnh vực ứng dụng thực tiễn nhƣ: văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa
thẩm mỹ, văn hóa du lịch, văn hóa kinh doanh… Trong đó, văn hóa pháp luật
cũng là một lĩnh vực nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn cao, thu hút đƣợc sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Cho đến nay, đã có khá nhiều hội thảo và cơng
trình nghiên cứu về văn hóa pháp luật đã đƣợc thực hiện và công bố nhƣ: Xây

dựng ý thức và lối sống theo pháp luật [60]; Văn hóa pháp luật [48]; Văn hóa tư
pháp [53]; Văn hóa pháp lý với sự nghiệp đổi mới ở nước ta [15]; Xây dựng nhà
nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa Việt Nam [47]; Văn hóa pháp lý Việt
7


Nam [56]. Ngồi ra cịn có những bài báo, những cuốn sách chuyên khảo, những
hội thảo khoa học dù không trực tiếp đặt vấn đề nghiên cứu văn hóa pháp luật
nhƣ một đối tƣợng khảo sát độc lập nhƣng cũng đã đề cập đến những khía cạnh,
đƣa ra những cứ liệu đánh giá về thực trạng của đời sống pháp luật ở nƣớc ta hiện
nay nhƣ: vấn đề thực thi pháp luật, hiệu quả của pháp luật, vấn đề giáo dục ý thức
tuân thủ pháp luật,…
Các nghiên cứu trên đây, ở những mức độ khác nhau đã hƣớng sự quan tâm
vào các vấn đề:
1. Chỉ ra thực trạng và lý giải nguyên nhân trực tiếp tạo nên thái độ ứng xử
với pháp luật trong xã hội ta hiện nay.
2. Phân tích vai trị của việc xây dựng ý thức tơn trọng pháp luật trong công
cuộc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền.
3. Đề xuất các giải pháp để xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật ở
nƣớc ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong số các cơng trình nghiên cứu trên đây chƣa có cơng trình
nào khảo sát cụ thể về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay dựa trên
tƣ liệu là các bài báo đƣợc đăng tải trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng
trong khoảng thời gian 3 năm lại nay. Cũng chƣa có cơng trình nào đi sâu nghiên
cứu và lý giải nguyên nhân của thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay
từ sự chi phối của văn hóa truyền thống nhƣ một đối tƣợng nghiên cứu độc lập.
Bởi vậy, đề tài nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm những vấn đề nghiên cứu mà
những ngƣời đi trƣớc cịn bỏ ngỏ, đó là:
- Khảo sát để nhận diện thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam
hiện nay dựa trên các cứ liệu là những bài báo đƣợc đăng tải trên các phƣơng tiện

thơng tin báo chí (những tờ báo có uy tín) trong khoảng 3 năm gần đây.
- Nghiên cứu sự tác động, chi phối của các đặc trƣng văn hóa truyền thống
đến văn hóa pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài: nhận diện thực trạng tiêu cực trong văn
hóa pháp luật ở Việt Nam hiện nay và lý giải nguyên nhân từ sự chi phối của
các đặc trƣng văn hóa truyền thống.
8


- Giới hạn phạm vi khảo sát thực trạng là những bài báo đƣợc đăng tải trên
các tờ báo có uy tín viết về những biểu hiện tiêu cực trong văn hóa ứng xử với
pháp luật trong thời gian 4 năm trở lại đây.
4. Nhiệm vụ của đề tài
4.1. Chỉ ra và phân tích thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật ở Việt Nam
hiện nay.
4.2. Lý giải nguyên nhân từ sự chi phối của nền tảng văn hóa truyền thống.
4.3. Từ góc nhìn văn hóa để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp
luật trong công cuộc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu chủ yếu sau đây:
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại:
Để nhận diện thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, chúng tôi đã sử
dụng phƣơng pháp khảo sát, thống kê, phân loại trên nguồn cứ liệu là các bài báo
đƣợc đăng tải trên các tờ báo in và báo điện tử có uy tín trong khoảng 3 năm lại
nay. Trong số gần 400 bài báo liên quan đến văn hóa ứng xử với pháp luật đã
đƣợc sƣu tầm, thống kê, chúng tôi đã lựa chọn hơn 200 bài để khảo sát và phân
loại theo các lĩnh vực là những điểm nóng gây nhiều bức xúc trong dƣ luận, đó
là:

a) Hành vi ứng xử với pháp luật: vi phạm trong lĩnh vực giao thông; trong
quản lý xây dựng; bảo vệ mơi trƣờng và vệ sinh an tồn thực phẩm; bạo lực và
“luật rừng” (ở cả hai phía: ngƣời dân và công chức trong các cơ quan công
quyền).
b) Hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp luật: hệ thống văn bản pháp luật;
chất lƣợng nguồn nhân lực của các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật; tính hiệu
lực của các thiết chế pháp luật.
5.2. Phương pháp đồng đại: đƣợc sử dụng để phân tích, lý giải các nguyên nhân
xã hội đang chi phối đến văn hóa ứng xử với pháp luật của xã hội ta hiện nay.
5.3. Phương pháp lịch đại: đƣợc sử dụng để nghiên cứu sự chi phối của các đặc
trƣng văn hóa truyền thống đến văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
9


5.4. Phương pháp phân tích, so sánh: đƣợc dùng để mổ xẻ, soi xét các nguyên
nhân trực tiếp và gián tiếp chi phối đến các hành vi pháp luật từ nhiều phía, nhiều
chiều.
5.5. Phương pháp hệ thống: đƣợc sử dụng để liên kết, xâu chuỗi các yếu tố trong
sự chi phối, liên đới lẫn nhau trong cả hai tƣơng quan đồng đại và lịch đại.
6. Dự kiến sản phẩm nghiên cứu của đề tài và khả năng ứng dụng
6.1. Đối với nhiệm vụ đào tạo chuyên ngành Luật: sản phẩm nghiên cứu sau khi
nghiệm thu đề nghị đƣợc chỉnh lý, bổ sung thành một chƣơng trong nội dung
môn Đại cương văn hóa Việt Nam để giảng dạy cho sinh viên hệ đào tạo cử nhân
Luật. Qua đó để:
6.1.1. Tạo sự gắn kết giữa một môn học thuộc khối kiến thức cơ sở ngành
với kiến thức chuyên ngành Luật, để việc giảng dạy mơn Đại cương Văn hóa Việt
Nam thể hiện đặc thù riêng của trƣờng Luật, qua đó nhằm nâng cao tính ứng
dụng thực tiễn của mơn học.
6.1.2. Bổ sung thêm những kiến thức về văn hóa pháp luật – một mảng
kiến thức rất cần thiết trong việc hành nghề Luật, nhƣng hiện chƣa đƣợc giảng

dạy trong chƣơng trình đào tạo cử nhân Luật, cụ thể là:
- Trang bị cho sinh viên những tri thức về văn hóa ứng xử với pháp luật
cũng nhƣ ý thức một cách sâu sắc về vai trị của văn hóa pháp luật trong việc xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay.
- Nhận diện đƣợc thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay và lý
giải đƣợc những căn nguyên của thực trạng ấy từ sự chi phối của các đặc trƣng
văn hóa truyền thống, qua đó nhằm gắn kết những tri thức cơ sở ngành với các tri
thức chuyên ngành, giúp sinh viên biết vận dụng những kiến thức về văn hóa Việt
Nam vào việc lý giải những vấn đề trong thực tiễn ứng xử với pháp luật.
- Việc bổ sung những kiến thức về văn hóa pháp luật nhằm góp phần nâng
cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Luật một cách toàn diện, vừa
“hồng”, vừa “chuyên”, bởi những tri thức chuyên sâu về pháp luật không đồng
nghĩa với chất lƣợng văn hóa trong thái độ ứng xử với pháp luật. Việc giáo dục
văn hóa ứng xử với pháp luật cho sinh viên Luật, vì vậy, trƣớc hết để nâng cao
chất lƣợng văn hóa trong hành xử pháp lý cho những ngƣời hành nghề luật, để họ
10


góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội có nền văn hóa pháp luật cao,
khơng chỉ bằng chính những hành vi mẫu mực của chính mình để “hƣớng đạo”,
nêu gƣơng, mà quan trọng hơn, họ cịn có khả năng phổ biến, giáo dục văn hóa
pháp luật cho nhiều ngƣời khác.
6.2. Đối với thực tiễn pháp luật:
Đề tài sau khi hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chịu
trách nhiệm soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật và thực thi pháp luật cũng
nhƣ những ai quan tâm tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa với pháp luật và
thực trạng của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
7. Cấu trúc của cơng trình nghiên cứu:
Cấu trúc của cơng trình nghiên cứu gồm phần mở đầu, phần kết luận và phần nội
dung gồm 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Khái niệm văn hóa pháp luật và thực trạng văn hóa pháp luật Việt
Nam hiện nay
Chƣơng 2: Sự tác động của văn hóa truyền thống đến văn hóa pháp luật Việt
Nam hiện nay
Chƣơng 3: Các giải pháp để nâng cao văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo.

11


CHƢƠNG 1
KHÁI NIỆM VĂN HÓA PHÁP LUẬT
VÀ THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật là một bộ phận, một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa dân
tộc, vì vậy để hiểu văn hóa pháp luật trƣớc hết không thể không bắt đầu từ việc
giới thuyết khái niệm văn hóa với vai trị là cơng cụ lý thuyết nền tảng.
1.1.1. Giới thuyết về khái niệm văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là gì? Đó là một câu hỏi mà nhân loại đã tốn không ít giấy mực với
hàng trăm câu trả lời từ những góc nhìn, những cách tiếp cận khác nhau. Định
nghĩa đầu tiên về văn hóa gắn liền với tên tuổi của nhà nhân chủng học nổi tiếng
ngƣời Anh - Edward Burnett Tylor (1832-1917). Trong cơng trình nghiên cứu
Văn hóa ngun thủy (1871), ơng viết: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng
về tộc người học nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh
với tư cách là một thành viên của xã hội” [16, 13].
Định nghĩa này của E.B.Tylor vẫn thƣờng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu văn hóa
trên thế giới dẫn ra nhƣ một mẫu mực có tính kinh điển, trong đó quan niệm văn
hóa bao gồm một tổng thể những thành quả sáng tạo của con ngƣời.

Sau cơng trình nghiên cứu của E.B.Tylor, việc nghiên cứu văn hóa đã đƣợc
triển khai và mở rộng theo nhiều hƣớng khác nhau, cùng với đó là sự ra đời của
rất nhiều định nghĩa văn hóa từ những góc độ tiếp cận khác nhau. Trong cuốn
Văn hóa: tổng thuật có phê phán các quan điểm và định nghĩa, hai nhà văn hóa
ngƣời Mỹ là A.L.Kroeber và Cluc Khohn đã thống kê đƣợc, tính đến năm 1952,
trên các sách báo phƣơng Tây đã có khoảng 150 định nghĩa về văn hóa. Cịn theo
nhà nghiên cứu Phan Ngọc, đến năm 1994, trên thế giới đã có trên 400 định nghĩa
về văn hóa.
Ở Việt Nam hiện cũng đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa văn hóa, trong đó
có thể nêu một số định nghĩa tiêu biểu:
12


- Trong cơng trình nghiên cứu Việt Nam văn hóa sử cương xuất bản lần đầu
tiên vào năm 1938, học giả Đào Duy Anh quan niệm: “Hai tiếng văn hóa chẳng
qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của lồi người cho nên ta có
thể nói rằng: văn hóa tức là sinh hoạt” [1, 13].
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng định nghĩa về văn hóa nhƣ sau: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [69, 431].
- Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội” (Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 1999, tr. 10).
Số lƣợng phong phú các định nghĩa về văn hóa đã phản ánh những góc độ
tiếp cận khác nhau, đồng thời cũng cho thấy tính chất phức tạp của vấn đề. Tuy

nhiên, phần đông các quan niệm đều thống nhất khi cho rằng, văn hóa là sản
phẩm tất yếu của xã hội, đƣợc hình thành trong hành trình sống của mỗi cộng
đồng, khi nó là hệ quả của sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên
và xã hội, đƣợc kết tinh và hiện diện trong mọi hành vi sáng tạo của con ngƣời,
đƣợc biểu hiện qua tất cả những sản phẩm vật chất và tinh thần do con ngƣời làm
ra, từ công cụ sản xuất và các vật dụng sinh hoạt thiết yếu hàng ngày cho đến các
sản phẩm nghệ thuật; từ tri thức khoa học cho đến kinh nghiệm sống… Không
chỉ hiện diện trong các sản phẩm vật chất và tinh thần do con ngƣời làm ra, văn
hóa đồng thời lại cũng đƣợc hàm chứa ngay trong cái phƣơng thức mà con ngƣời
tạo ra các sản phẩm đó. Văn hóa cũng là một thành tố có mặt trong các mối quan
hệ xã hội giữa con ngƣời với con ngƣời, dù đó là quan hệ kinh tế hay tôn giáo,
quan hệ pháp luật hay các quan hệ đời thƣờng… Văn hóa cũng đồng thời là bản
thân các năng lực cấu thành nhân cách con ngƣời, từ trí tuệ đến đạo đức; từ tâm
hồn đến tình cảm; từ ý chí đến các năng lực sáng tạo…, tất cả đã hình thành nên
13


lối sống, thói quen, phong tục tập quán, cách tƣ duy, ứng xử, qua đó phản ánh
kiểu sống, lối suy nghĩ, cách hành xử của con ngƣời trong một môi trƣờng sinh
thái - nhân văn cụ thể, làm nên diện mạo riêng của mỗi cộng đồng.
Nhƣ vậy, văn hóa phản ánh phƣơng thức sống của một cộng đồng, đƣợc hình
thành nhƣ là hệ quả tất yếu của sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự
nhiên và xã hội. Tổng hợp tất cả những phƣơng diện trên, văn hóa bao trùm lên
tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống con ngƣời, biểu hiện ở kiểu sống, “kiểu nhân
vi”, ở phƣơng thức sinh hoạt của con ngƣời, làm nên những nét riêng tiêu biểu và
có tính bền vững, tất cả đều góp phần làm nên đặc trƣng riêng của một dân tộc,
tạo ra sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Khi văn hóa là một hiện tƣợng phổ quát của nhân sinh, là cái “vô sở bất tại”
(khơng đâu khơng có), khi nó liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống
con ngƣời, đƣợc biểu hiện vô cùng phong phú và đa dạng, từ vật chất đến tinh

thần, từ vật thể đến phi vật thể, từ hữu hình đến vơ hình thì mọi góc độ tiếp cận
đều khó có thể bao quát hết đƣợc phạm vi của nó, cả về phƣơng diện định tính
lẫn định lƣợng. Và cũng do mỗi lĩnh vực hoạt động của con ngƣời đều có sự hiện
diện của văn hóa nên gần đây ngƣời ta đã quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu và
nhận diện văn hóa theo các lĩnh vực chun ngành nhƣ: văn hóa chính trị, văn
hóa đạo đức, văn hóa kinh doanh, văn hóa ẩm thực, văn hóa du lịch, văn hóa
thẩm mỹ, văn hóa giao tiếp, văn hóa giao thơng, văn hóa pháp luật, …
Khơng thể phủ nhận đƣợc rằng, trong di sản văn hóa của một dân tộc / cộng
đồng bao giờ cũng kết tinh những giá trị tinh hoa đóng vai trị là nền tảng, cốt lõi,
làm điểm tựa để nuôi dƣỡng và bảo tồn sức sống của một dân tộc, bởi con ngƣời
ở đâu và bao giờ, trong hành trình sống của mình cũng ln hƣớng đến những giá
trị tích cực, cũng ln khát khao vƣơn tới chân – thiện – mỹ. Nhƣng mặt khác
cũng cần thấy rằng, nếu nhƣ văn hóa là một kiểu ứng xử đặc trƣng của một cộng
đồng trƣớc những thách thức khác nhau của những điều kiện tự nhiên và xã hội,
thì sự ứng xử có thể thế này hoặc thế kia, có mặt tốt cũng có mặt xấu, có tích cực
và cũng có tiêu cực, nhất là khi những điều kiện tự nhiên và xã hội không phù
hợp hay đối lập với các nhu cầu và lợi ích của con ngƣời. Điều đó cũng có nghĩa
rằng, trong diện mạo văn hóa của mỗi cộng đồng khơng chỉ gồm những mặt tích
14


cực, giá trị mà cịn có những nhƣợc điểm, hạn chế. Thêm vào đó, cái đƣợc coi là
có giá trị văn hóa cũng khơng phải là những giá trị hằng hữu, bất biến, mà còn
đƣợc xem xét tùy thuộc vào các góc nhìn và các tiêu chí đánh giá khác nhau. Xét
từ phƣơng diện đồng đại, cùng một đặc trƣng văn hóa nhƣng có thể có giá trị xét
trên tiêu chí này mà lại khơng có giá trị, thậm chí phản giá trị xét từ góc nhìn
khác. Ví dụ, tính cộng đồng có giá trị khi nó tạo nên tinh thần đoàn kết, tƣơng
thân tƣơng ái, lối sống sẻ chia, đùm bọc – một truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta, nhƣng xét trên phƣơng diện bảo vệ quyền cá nhân hay quan hệ với pháp luật
thì đây lại là nguyên nhân tạo nên nhiều hạn chế và những ứng xử tiêu cực. Xét

trên phƣơng diện lịch đại, các thƣớc đo giá trị cũng không phải bất biến, vĩnh
cửu, bởi vậy, một đặc trƣng văn hóa nào đó ở giai đoạn này thì có giá trị tích cực
nhƣng ở giai đoạn khác thì lại trở thành phản giá trị, thành lực cản khi nó khơng
cịn phù hợp để thích nghi trong bối cảnh mới.
Bởi vậy, việc nghiên cứu, nhận diện văn hóa của một dân tộc cần có một cái
nhìn tồn diện và biện chứng, trong đó khơng chỉ hƣớng đến việc khẳng định
những mặt tích cực, giá trị mà còn cần phải nhận diện cả những nhƣợc điểm,
những tiêu cực, hạn chế khi nó cũng là một phần tất yếu trong hành trang tinh
thần của một dân tộc.
1.1.1.2. Đặc trưng và biểu hiện của văn hóa
Là một hình thái ý thức xã hội, văn hóa cũng nhƣ các hình thái ý thức xã hội
khác, đều là sản phẩm của một thực tiễn xã hội cụ thể, và đến lƣợt mình, nó lại
phản ánh, tác động trở lại thực tiễn xã hội ấy. Tuy nhiên, trong tƣơng quan với
các hình thái ý thức xã hội khác, văn hóa là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt.
Tính chất đặc biệt ấy đƣợc xác định bởi ba đặc trƣng tiêu biểu: tính đa diện và
tổng hợp, tính hệ thống, tính truyền thống.
Trƣớc hết, văn hóa là một hình thái ý thức xã hội có tính đa diện và tổng hợp,
bởi nó thẩm thấu và hiện diện trong mọi hoạt động sống của con ngƣời. Văn hóa
do khơng tồn tại nhƣ một lĩnh vực độc lập, khơng có giá trị tự thân, nên cũng
chính vì vậy mà nó hiện diện khắp nơi, khơng đâu khơng có, thẩm thấu vào tất cả
mọi phƣơng diện của đời sống xã hội. Văn hóa do đó là một khái niệm có tính
tổng hợp - đó là dấu ấn về lối sống của một cộng đồng in dấu lên mọi hoạt động
15


vật chất (cách thức lao động sản xuất, ăn, mặc, ở, đi lại), mọi mặt sinh hoạt tinh
thần (nhận thức, tƣ tƣởng, tơn giáo, phong tục, tín ngƣỡng, ngơn ngữ, nghệ thuật,
giao tiếp ứng xử, lễ hội…), mọi quan hệ gia đình, xã hội (đƣợc qui chế thành đạo
đức, nghi lễ, pháp luật…). Tổng hợp tất cả những điều đó mới làm nên cái diện
mạo riêng trong mô thức ứng xử, trong phương thức sống của một cộng đồng,

khiến cho cộng đồng này không giống với các cộng đồng khác. Do tính đa diện
và tổng hợp, văn hóa nhƣ một bầu khí quyển bao trùm lên cuộc sống của chúng
ta, khiến cho - một cách tự nhiên và tất yếu, mọi ngƣời đều khơng thể sống ngồi
“bầu khí quyển văn hóa” ấy.
Tính đa diện cũng chi phối đến một đặc trƣng khác của văn hóa, đó là tính hệ
thống. Văn hóa do nhiều thành tố hợp thành, nhƣng giữa các thành tố trong cấu
trúc của một nền văn hóa khơng tồn tại nhƣ là những đơn vị rời rạc, riêng lẻ, độc
lập, mà giữa chúng có các mối liên hệ nhiều mặt, nhiều chiều, đan cài, móc xích,
qui định và thẩm thấu vào nhau tạo thành hệ thống, trong đó yếu tố này là nguyên
nhân và hệ quả của những yếu tố khác. Do đó, trong thực tế, khơng thể tách bạch
các thành tố của hệ thống văn hóa vì chúng tồn tại trong sự gắn bó hữu cơ, lồng
vào nhau nhƣ tâm hồn và thể xác, làm thành diện mạo của một nền văn hóa với
một tổng thể các sản phẩm vật chất và tinh thần.
Vì văn hóa có tính hệ thống nên khi khảo sát một hiện tƣợng văn hóa, khơng
thể khơng đặt hiện tƣợng ấy trong tính hệ thống, trong sự chi phối, ràng buộc lẫn
nhau giữa nhiều yếu tố làm nên hệ thống trong các tƣơng quan đồng đại.
Cùng với tính hệ thống, một trong những đặc trƣng tiêu biểu của văn hóa là
tính truyền thống. Nếu văn minh là sản phẩm có tính thời đoạn thì văn hóa là sản
phẩm của tính q trình, đƣợc tích lũy qua nhiều thế hệ, đƣợc kế thừa và trao
truyền từ thế hệ trƣớc sang thế hệ sau. Bởi vậy văn hóa là di sản tinh thần tồn tại
ổn định và có sức sống lâu bền, thẩm thấu trong chiều sâu tâm thức của cộng
đồng để trở thành hành trang tinh thần mà mỗi cộng đồng mang theo khi bƣớc từ
thời đại này sang thời đại khác. Truyền thống của văn hóa của một dân tộc đƣợc
biểu hiện qua các di sản văn hóa, bao gồm hai bộ phận, đó là di sản vật thể (hữu
hình) nhƣ: đền, chùa, lăng tẩm, nhà cửa, công cụ sản xuất, vật dụng… và các di
sản văn hóa phi vật thể tồn tại dƣới dạng tinh thần, ẩn trong chiều sâu tâm thức
16


cộng đồng, đó là những kinh nghiệm tập thể đƣợc lƣu truyền trong qua không

gian và thời gian, đƣợc đúc kết thành mô thức ứng xử xã hội, biểu hiện thông qua
ngôn ngữ, lối sống, ẩm thực, phong tục, tập quán, nghi lễ, pháp luật, nghệ thuật,
… tạo thành nếp sống chung của cộng đồng. Chính mơ thức ứng xử đảm bảo cho
các thành viên trong cộng đồng có sự gắn kết với nhau, tạo nên một nếp sống
chung ổn định và bền vững.
Về biểu hiện của văn hóa, nhà nghiên cứu Phạm Đức Dƣơng đã đƣa ra quan
niệm về một sơ đồ cấu trúc hai tầng bậc: cấu trúc bề mặt và cấu trúc chiều sâu.
Cấu trúc bề mặt gồm hệ thống ký hiệu biểu thị và hệ thống ký hiệu biểu tƣợng,
đó là biến số, yếu tố động của văn hóa; cịn cấu trúc chiều sâu là cái phần chìm,
khó nhìn thấy, nó nằm trong tâm thức của con ngƣời, là yếu tố tĩnh của văn hóa,
đƣợc kết tinh và tồn tại trong tiềm thức của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng
trong suốt hành trình sống. Giải thích về mối quan hệ giữa hai tầng cấu trúc này,
ơng nói: “Cấu trúc chiều sâu là cái kết tinh, lắng đọng nằm ẩn dưới cơ tầng đóng
vai trị định hướng, điều chỉnh mọi sự biến đổi trên cấu trúc bề mặt, quy định bản
sắc văn hóa của mỗi cộng đồng và nhân cách của mỗi cá nhân, định hình nền
văn hóa của mỗi dân tộc trong khơng gian và thời gian [14; 221-236]. Cấu trúc
chiều sâu của văn hóa đó là ý thức, là các năng lực tinh thần của con ngƣời bao
gồm tƣ tƣởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, kinh nghiệm sống và thói quen,
phong tục, tập qn… đƣợc hình thành trong một mơi trƣờng sinh thái và nhân
văn cụ thể. Cấu trúc chiều sâu của văn hóa ẩn chứa trong ý thức, tiềm thức của
con ngƣời, tuy khơng dễ nhận ra, và lại càng khó khăn hơn để có thể mơ tả, nhận
diện, nhƣng đó là nền tảng để hình thành nên các quy tắc hƣớng dẫn tƣ duy, điều
chỉnh hành vi ứng xử và phƣơng thức hành động, cũng nhƣ sự lựa chọn các thang
bậc giá trị trong xã hội và chi phối mọi hoạt động thực tiễn của con ngƣời.
Chính cái cấu trúc chiều sâu khiến cho “văn hóa là cái cịn lại khi ngƣời ta đã
quên đi tất cả”. Bởi vậy, để nhận diện một hiện tƣợng văn hóa, khơng thể giản
đơn chỉ dừng lại ở việc mô tả, liệt kê các hiện tƣợng ở cấp độ bề mặt, tức không
chỉ trả lời câu hỏi “cái gì?”, “nhƣ thế nào?”, mà quan trọng hơn là phải trả lời
đƣợc câu hỏi “tại sao lại nhƣ thế?”, tức là phải chỉ ra đƣợc cái cấu trúc chiều sâu,


17


phải lý giải đƣợc những căn nguyên sâu xa từ trong ý thức, tiềm thức chi phối các
hiện tƣợng bề mặt ấy.
1.1.1.3. Vai trị của văn hóa đối với sự phát triển
Trong nỗ lực tìm kiếm động lực của sự phát triển bền vững, văn hoá hiện đang
là vấn đề đƣợc đặc biệt quan tâm trong việc hoạch định chiến lƣợc phát triển của
mỗi quốc gia, bởi con ngƣời là nhân tố quyết định sự phát triển, nhƣng con ngƣời
trƣớc hết là một thực thể văn hóa. Nền tảng của sự tăng trƣởng bền vững ở ngay
trong tiềm lực con ngƣời, ở năng lực trí tuệ và khả năng sáng tạo của con ngƣời,
ở trong đạo đức và động cơ hành động của con ngƣời, tức là ở trong văn hóa. Nói
đến con ngƣời là nói đến văn hóa; văn hóa là nơi thể hiện sức mạnh bản chất của
con ngƣời, là công cụ điều chỉnh một cách tự nhiên nhất, trên phạm vi rộng lớn
nhất, tinh tế nhƣng cũng mạnh mẽ nhất đối với nhận thức, hành động và cách ứng
xử của con ngƣời. Một khi nhân cách văn hóa là nội lực của con ngƣời, nó “thấm
sâu vào tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con ngƣời”, “xuyên suốt cơ thể xã hội”,
thì triết lý của sự phát triển tất yếu phải đƣợc xây dựng trên nền tảng văn hóa.
Điều này đã đƣợc thể hiện trong Nghị quyết của UNESCO về phát triển: “Khái
niệm phát triển phải bao gồm các nhân tố kinh tế và xã hội, cũng nhƣ các giá trị
đạo đức và văn hóa, qui định sự nảy nở và phẩm giá của con ngƣời trong xã hội.
Nếu nhƣ con ngƣời là nguồn lực của phát triển, nếu nhƣ con ngƣời vừa là tác
nhân lại vừa là ngƣời đƣợc hƣởng, thì con ngƣời phải đƣợc coi chủ yếu nhƣ là sự
biện minh và là mục đích của sự phát triển”, bởi vì “kinh nghiệm của hai thập kỉ
vừa qua cho thấy rằng, trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ phát triển
kinh tế nào, hoặc xu hƣớng chính trị và kinh tế nào, văn hóa và phát triển là hai
mặt gắn liền với nhau”. Chính vì lẽ đó, năm 1988 UNESCO đã phát động “Thập
kỉ thế giới phát triển văn hóa” và đã nhận đƣợc sự hƣởng ứng rộng rãi của các
quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt là từ khi đất nƣớc bƣớc

vào cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập tồn
cầu hóa, Đảng ta ln ý thức sâu sắc về vai trị của văn hóa trong sự phát triển
của xã hội. Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VIII đã ra
Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
18


bản sắc dân tộc”, trong đó khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [68, 55].
Cùng với việc nhấn mạnh vai trị đặc biệt của văn hóa, Nghị quyết còn đề ra
phƣơng châm phải gắn kết những vấn đề văn hóa với những vấn đề kinh tế - xã
hội: “Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội
trên mọi phƣơng diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật kỉ cƣơng… biến thành
nguồn nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển” [70]. Vấn đề càng trở nên cấp
bách hơn trong giai đoạn hiện nay, trƣớc một thực tế đáng lo ngại đã và đang
diễn ra, đó là trong khi mức sống, thu nhập quốc dân ngày càng đƣợc cải thiện thì
đạo đức xã hội lại đang xuống cấp ở mức đáng báo động, lối sống chạy theo đồng
tiền đang chi phối và làm khuynh đảo nhiều giá trị, các tệ nạn xã hội đang gia
tăng ngày càng phức tạp hơn… Đó là những biểu hiện đáng báo động của tình
trạng mất cân đối giữa văn hóa và phát triển. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, trong bối
cảnh Việt Nam ở giai đoạn quá độ hiện nay, nhân tố văn hóa cần phải đƣợc coi là
nền tảng, là nội lực của sự phát triển.
1.1.2. Giới thuyết về văn hóa pháp luật
1.1.2.1. Khái niệm văn hóa pháp luật
Nếu văn hóa là một phạm trù xã hội để chỉ phƣơng thức sống đặc trƣng của
một cộng đồng, biểu hiện thông qua sự ứng xử giữa con ngƣời với môi trƣờng tự
nhiên và xã hội, thì văn hố pháp luật thuộc về lĩnh vực ứng xử xã hội, đó là tổng
thể các hành vi thể hiện sự ứng xử của con ngƣời trong môi trƣờng điều chỉnh
của pháp luật, là sự hiện thực hóa năng lực tinh thần và ý thức của con ngƣời
trong các hoạt động pháp luật. Do đó, văn hóa pháp luật là một lĩnh vực biểu hiện

của văn hóa – văn hóa xứng xử với pháp luật.
Nếu nhƣ các đặc trƣng văn hoá của một cộng đồng xuất hiện cùng với sự
hình thành tổ chức xã hội từ buổi sơ khai, thì văn hố pháp luật hình thành muộn
hơn, khi các qui tắc ứng xử của con ngƣời đƣợc đặt trong sự kiểm sốt của pháp
luật. Nếu văn hóa là một khái niệm đa diện và mơ hồ, thì văn hóa pháp luật với
tƣ cách là một lĩnh vực biểu hiện đặc thù của văn hóa nên cũng là một khái niệm
rất khó minh định. Bởi vậy, hiện nay trong khoa học pháp lý cũng nhƣ trong lĩnh

19


vực nghiên cứu văn hóa chuyên ngành chƣa có một quan niệm thật thống nhất về
văn hóa pháp luật.
Trƣớc hết, về thuật ngữ, hiện nay ở Việt Nam ngƣời ta đang dùng hai thuật
ngữ: văn hóa pháp luật và văn hóa pháp lý. Các tác giả nhƣ Lê Đức Tiết [56]
Trần Ngọc Đƣờng [15], Lê Vƣơng Long [32] dùng thuật ngữ văn hóa pháp lý.
Cịn các tác giả Lê Minh Tâm, Nguyễn Thanh Thập, Vũ Thị Kim Dung [48, 134],
Phạm Duy Nghĩa [38] thì dùng thuật ngữ văn hóa pháp luật. Vậy nên dùng thuật
ngữ nào thì hợp lý hơn?
Trong Từ điển tiếng Việt, từ pháp lý có nghĩa là: “lý luận, nguyên lý về pháp
luật”; còn pháp luật là “những qui phạm hành vi do nhà nƣớc ban hành mà mọi
ngƣời dân buộc phải tuân theo nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và bảo vệ trật
tự xã hội”. Nhƣ vậy, thuật ngữ pháp lý thiên về phƣơng diện lý thuyết, là những
ngun lý, ngun tắc có tính phƣơng pháp luận soi rọi và chi phối mọi hoạt
động pháp luật cụ thể. Còn thuật ngữ pháp luật thiên về chỉ thực tiễn xã hội của
đời sống pháp luật, đó là sự hiện thực hóa những tƣ tƣởng, quan điểm, nguyên lý,
nguyên tắc của pháp luật thông qua việc xây dựng và thực thi pháp luật của nhà
nƣớc cũng nhƣ các hành vi, lối sống và ứng xử của xã hội trong phạm vi điều
chỉnh của pháp luật. Bởi vậy, theo chúng tơi, dùng thuật ngữ văn hóa pháp luật
hợp lý hơn, khi nó bao quát đƣợc thực tiễn xã hội của đời sống pháp luật với tất

cả những biểu hiện phong phú và đa dạng của nó, và hiển nhiên, đằng sau thực
tiễn xã hội của pháp luật là sự chi phối của những tƣ tƣởng, quan điểm, nguyên
lý, nguyên tắc của pháp luật.
Về khái niệm văn hóa pháp luật, trong cơng trình nghiên cứu Văn hóa pháp
luật và phát triển văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả Nguyễn
Thanh Thập [48, 47] và Vũ Thị Kim Dung [48, 134] đã đƣa ra các định nghĩa
nhƣ sau: “Văn hóa pháp luật là những giá trị nhân đạo, tiến bộ, tích cực của
pháp luật trong xã hội, được thể hiện thông qua các bộ luật, các điều luật. Đồng
thời các giá trị đó cịn được thể hiện trong các hoạt động pháp luật, thẩm thấu
vào nhận thức và hành động của mỗi cá nhân, biến thành nhu cầu thường trực
trong ứng xử của họ”. Còn tác giả Lê Minh Tâm [48] thì cho rằng: “Văn hóa
pháp luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng
20


tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, bao gồm hệ thống qui phạm pháp luật được ban
hành trong các thời kì lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lý,
nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen
tích lũy được trong q trình xây dựng và thực thi pháp luật…” [48, 147].
Nhƣ vậy, với các định nghĩa trên đây, khái niệm văn hóa pháp luật chỉ đƣợc
hiểu đồng nghĩa với những mặt tích cực của đời sống pháp luật, theo đó, văn hóa
pháp luật chỉ có đƣợc trong một mơi trƣờng pháp luật tiến bộ, lành mạnh và giàu
tính nhân văn, trong đó pháp luật vừa có sức mạnh và tính hiệu lực cao, đồng thời
cũng là một chuẩn mực ứng xử đƣợc tuân thủ một cách tự nhiên, tự nguyện.
Tuy nhiên, nếu quan niệm văn hóa là tất cả những gì thuộc về phƣơng thức
sống của một cộng đồng, với tất cả những ƣu điểm và nhƣợc điểm nhƣ là hệ quả
tất yếu của sự thích nghi và ứng phó với các điều kiện tự nhiên và xã hội, thì văn
hóa pháp luật cũng đƣợc hình thành và tồn tại một cách khách quan và tất yếu
trong những môi trƣờng xã hội đƣợc điều chỉnh bởi các qui phạm pháp luật.
Trong môi trƣờng điều chỉnh của pháp luật, hành vi pháp luật là hành động có ý

thức của con ngƣời, đó có thể là hành vi hợp pháp, tức phù hợp qui phạm pháp
luật, nhƣng cũng có thể là hành vi bất hợp pháp, tức là trái với qui định của pháp
luật. Dù hợp pháp hay khơng hợp pháp, tích cực hay tiêu cực, nhƣng khi nó đƣợc
thực hiện thƣờng xuyên, phổ biến đến mức nhƣ một thói quen tự nhiên, tất yếu
thì khi đó nó đã trở thành một ứng xử “văn hóa”. Do vậy, theo chúng tơi, cũng
nhƣ văn hố nói chung, khái niệm văn hóa pháp luật cần đƣợc hiểu không đồng
nghĩa với những hành vi ứng xử tích cực với pháp luật mà cịn bao hàm cả những
hành vi ứng xử tiêu cực của cá nhân/cộng đồng trong những mơi trƣờng điều
chỉnh của pháp luật.
Tóm lại, văn hóa pháp luật là sự ứng xử của con người trong môi trường
những điều chỉnh của pháp luật, bao gồm tri thức, tư tưởng, quan điểm, thái độ,
kinh nghiệm và thói quen, được tích lũy trong q trình xây dựng và thực thi
pháp luật, được biểu hiện qua văn bản pháp luật, hệ thống các thiết chế thực thi
pháp luật và hành vi ứng xử với pháp luật.
Vì văn hóa pháp luật là một bộ phận, một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa xã
hội, do đó, việc nghiên cứu văn hóa pháp luật của một quốc gia ở một giai đoạn
21


cụ thể địi hỏi chúng ta phải đặt nó trong mối tƣơng quan và sự liên hệ với các
lĩnh vực khác của văn hóa nói chung cũng nhƣ với mọi mặt của đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội.
1.1.2.2. Biểu hiện của văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật là một thành tố, một bộ phận, một lĩnh vực biểu hiện đặc
thù của văn hóa xã hội, đó là lĩnh vực ứng xử với pháp luật, bởi vậy nó cũng
mang những đặc trƣng chung của văn hóa. Tuy nhiên, nói đến văn hóa là nói đến
sự tự do, tự nguyện, là thói quen trong sự lựa chọn hành vi, trong khi đó thì pháp
luật lại là cơng cụ điều chỉnh xã hội có tính áp đặt, cƣỡng bức. Bởi vậy, nếu pháp
luật đƣợc thực hiện dựa trên sự cƣỡng bức thì nó chƣa trở thành hành vi mang
tính văn hóa. Nói cách khác, các hành vi ứng xử với pháp luật (dù tích cực hay

tiêu cực) chỉ trở thành cái văn hóa khi ngƣời ta thực hiện các hành vi ấy trên tinh
thần tự do, nhƣ một thói quen tự nhiên và tất yếu. Theo đó, một xã hội có nền văn
hóa pháp luật cao là một xã hội mà trong đó các qui phạm pháp luật đƣợc đối xử
nhƣ là chuẩn mực của đạo đức và lƣơng tâm, tức là khi pháp luật khơng cịn là
một cơng cụ cƣỡng bức mà đƣợc thực thi một cách tự nhiên, tự nguyện.
Xét về mặt kết cấu, văn hóa pháp luật là bộ phận cấu thành của một nền văn
hóa nói chung. Nếu các đặc trƣng văn hóa của một dân tộc đƣợc biểu hiện qua
các sản phẩm vật chất, các sản phẩm tinh thần, các thói quen trong lối sống và
hành vi ứng xử, thì cũng có thể nhận diện văn hóa pháp luật qua các phƣơng diện
biểu hiện nhƣ: ý thức pháp luật, hệ thống và các thiết chế pháp luật, lối sống và
hành vi ứng xử với pháp luật.
a) Ý thức pháp luật (luật trong suy nghĩ và thái độ): “Là tổng thể những học
thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối
quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp
luật cần phải có; thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay khơng hợp pháp
trong trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động
của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội” [7, 421]. Ý thức pháp luật phản
ánh:
- Trình độ hiểu biết về pháp luật, đó là các tri thức, tƣ tƣởng, quan điểm về
pháp luật, là trình độ nhận thức và mức độ am hiểu pháp luật của các tầng lớp
22


nhân dân, kể cả bộ phận cán bộ công chức trong các cơ quan có chức năng trực
tiếp áp dụng, thi hành và bảo vệ pháp luật.
- Thái độ đối với pháp luật: đó là tâm lý, tình cảm, niềm tin, ý thức tôn trọng
và tự giác chấp hành hay coi thƣờng pháp luật; thái độ lạc quan / bi quan, hy
vọng / thất vọng, quan tâm / thờ ơ, nhiệt tình / lãnh đạm... đối với pháp luật. Một
xã hội có văn hóa pháp luật cao khi các thành viên xã hội có trình độ hiểu biết về
pháp luật, có ý thức tơn trọng pháp luật, có thái độ tích cực phản ứng, lên án

những hành vi vi phạm pháp luật.
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, bởi vậy nó chịu sự qui định
của tồn tại xã hội, là sản phẩm và cũng là sự phản ánh những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Tuy nhiên, ý thức pháp luật cũng nhƣ ý thức xã hội nói chung,
thƣờng lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Bằng chứng là, khi tồn tại xã hội đã thay đổi
nhƣng ý thức xã hội nói chung và ý thức pháp luật nói riêng vẫn cịn tồn tại dai
dẳng nhƣ là những tàn dƣ của quá khứ đƣợc kế thừa trong hiện tại. Do đó ý thức
pháp luật (đặc biệt là tâm lý pháp luật) là lĩnh vực mà ở đó truyền thống và các
thói quen có một vai trị chi phối khơng nhỏ.
b) Hành vi ứng xử với pháp luật (luật trong hành xử thực tế): là những phản
ứng, cách ứng xử đƣợc biểu hiện ra bên ngoài của con ngƣời trong các mối quan
hệ mà pháp luật điều chỉnh. Hành vi pháp luật đƣợc biểu hiện dƣới hai dạng:
hành vi hợp pháp (phù hợp với qui định của pháp luật) và hành vi không hợp
pháp (vi phạm pháp luật, bất chấp pháp luật, lách luật…). Hành vi ứng xử với
pháp luật là sự biểu hiện ý thức pháp luật (thái độ, tình cảm, niềm tin) của mỗi cá
nhân/cộng đồng trong môi trƣờng điều chỉnh của pháp luật.
c) Văn bản pháp luật và hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật: bao gồm hệ
thống văn bản pháp luật (luật trên giấy) và hệ thống tổ chức và hoạt động của các
thiết chế lập pháp, hành pháp, tƣ pháp , đó cũng là các phƣơng diện hiện thực hóa
của ý thức pháp luật. Trong đó, hệ thống văn bản pháp luật vừa là sản phẩm, vừa
là cơ sở để các thiết chế thực thi pháp luật có thể hoạt động; đến lƣợt mình, các
thiết chế thực thi pháp luật lại là công cụ để hiện thực hóa các văn bản pháp luật.
Theo đó, tính hiệu quả của hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật vừa là thƣớc

23


đo chất lƣợng của văn bản pháp luật, lại vừa thể hiện khả năng, trình độ vận dụng
kiến thức và công cụ pháp luật của nhà nƣớc trong việc quản lý xã hội.
Nhƣ vậy, để nhận diện một nền văn hóa pháp luật cần có một cái nhìn tổng
hợp và bao quát từ tất cả các phƣơng diện trên đây, bởi trong thực tế, ý thức pháp

luật, hệ thống pháp luật và hành vi pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại, là
tiền đề và hệ quả của nhau. Ý thức pháp luật có vai trị chỉ đạo việc xây dựng
chính sách pháp luật và hệ thống pháp luật của nhà nƣớc cũng nhƣ việc thực hiện
hành vi pháp luật của cá nhân. Ngƣợc lại, chính sách và hệ thống pháp luật có vai
trị định hƣớng cho việc giáo dục ý thức pháp luật và hành vi pháp luật. Đến lƣợt
mình, ý thức pháp luật và hành vi pháp luật lại tác động trở lại quá trình phát
triển và hồn thiện chính sách và hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật. Nhƣ
thế, ý thức pháp luật và hành vi pháp luật vừa là thƣớc đo, vừa là bằng chứng thể
hiện hiệu quả xã hội của một chính sách pháp luật và hệ thống pháp luật.
1.1.3. Quan hệ giữa văn hóa với pháp luật
Trong cuộc sống, cả văn hóa và pháp luật đều có chức năng điều chỉnh hành
vi của con ngƣời, bởi vì, mọi tổ chức xã hội đều chỉ có thể duy trì đƣợc sự tồn tại
trên cơ sở của sự thỏa thuận giữa các thành viên trong cộng đồng. Sự thỏa thuận
này đƣợc thể hiện dƣới hai hình thức: luật thành văn - đó là luật pháp, và luật bất
thành văn – đó là các qui tắc cộng đồng biểu hiện dƣới dạng phong tục, tập quán,
lối sống, thói quen…, đƣợc mọi ngƣời tuân thủ một cách tự giác đến mức tự
nhiên, thậm chí nhƣ là vơ thức - đó là văn hóa. Trong mối quan hệ này, “văn hóa
có một ảnh hƣởng khơng thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hóa chính là cuộc
sống, do đó, việc xây dựng pháp luật, theo lẽ tự nhiên, phải dựa trên những kinh
nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có khả năng biến thành văn hóa để điều
chỉnh cuộc sống” (Nguyễn Trần Bạt). Chính vì vậy, kinh nghiệm văn hóa là nền
tảng quan trọng nhất để xây dựng pháp luật.
Đồng thời, cũng chính trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, văn hóa có khả
năng hiện thực hóa những năng lực nhân tính, phát huy vai trò và tăng cƣờng
hiệu quả của pháp luật trong xã hội. Đến lƣợt mình, tính hiệu quả của pháp luật
trong xã hội là chỉ số, là thƣớc đo chất lƣợng Chân – Thiện – Mỹ của một nền
văn hóa. Do đó, để hiểu pháp luật chúng ta phải hiểu thực tiễn xã hội của pháp
24



luật. Hiểu thực tiễn xã hội của pháp luật cũng tức là chúng ta phải hiểu văn hoá
chung của xã hội nơi có sự tồn tại của pháp luật.
1.2. Thực trạng của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay
Trong tiến trình hội nhập và phát triển, Việt Nam đang nỗ lực để thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội nhằm hiện đại hóa đất nƣớc, trong đó xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền đƣợc xác định là một mục tiêu quan trọng. Nhƣng một thực
trạng đáng báo động là văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay đang bộc lộ nhiều
tiêu cực. Cách hành xử không thƣợng tôn pháp luật đang diễn ra hàng ngày, ở
mọi nơi, mọi lúc, với mọi đối tƣợng, dƣới nhiều hình thức biểu hiện đa dạng và
phức tạp. Tình trạng này khơng chỉ diễn ra đối với một bộ phận không nhỏ ngƣời
dân, mà cả các cơ quan cơng quyền, trong đó các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp
luật cũng không phải là ngoại lệ. Đây chính là một lực cản rất lớn trong việc thực
hiện thành công mục tiêu xây dựng nhà nƣớc pháp quyền. Trong bối cảnh ấy,
việc chỉ ra thực trạng văn hóa pháp luật ở nƣớc ta hiện nay để từ đó tìm ra
ngun nhân và các giải pháp khắc phục trở thành một yêu cầu cần thiết và cấp
bách.
Để nhận diện thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, trong phạm vi
hạn chế của đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, chúng tơi khơng có điều kiện
về thời gian và kinh phí để thực hiện sự khảo sát bằng phƣơng pháp điều tra xã
hội học trên các nhóm đối tƣợng, mà chỉ căn cứ trên cứ liệu là những thông tin
đƣợc đăng tải trên báo chí, bởi với hàng trăm tờ báo đƣợc xuất bản hàng ngày, kể
cả báo in và báo điện tử, thì đây là một kênh thơng tin phong phú, đa diện, phản
ánh nhanh nhạy và kịp thời mọi diễn biến của đời sống hàng ngày. Khảo sát qua
công cụ tìm kiếm Googole cũng cho thấy các cụm từ liên quan đến thái độ và
hành vi ứng xử với pháp luật xuất hiện với một số lƣợng rất lớn trên các phƣơng
tiện thơng tin báo chí. Điển hình là các cụm từ nhƣ: “không tuân thủ pháp luật”:
97.100 lƣợt; “coi thƣờng pháp luật”: 1.280.000 lƣợt; “vi phạm pháp luật”: 23.500
lƣợt; “nhờn luật”: 19.600 lƣợt; “thách thức pháp luật”: 204.000 lƣợt; “luật rừng”:
142.000 lƣợt; “lách luật”: 187.000 lƣợt; “phép vua thua lệ làng”: 169.000 lƣợt;
“chạy án”: 184.000 lƣợt, “nạn mãi lộ”: 41.000 lƣợt… Dù những con số này, do

sự trùng lặp có thể là nhiều lần nên khơng thể là căn cứ để có thể đƣa ra những
25


×