ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
TRẦN THỊ LƯƠNG
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN DƯƠNG NGHIỄM MẬU
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
BÌNH DƯƠNG – 2021
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
TRẦN THỊ LƯƠNG
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN DƯƠNG NGHIỄM MẬU
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN KHA
BÌNH DƯƠNG – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ với tên đề tài Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Dương
Nghiễm Mậu là cơng trình nghiên cứu của tơi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS
Nguyễn Văn Kha. Các số liệu và tài liệu tơi sử dụng là trung thực và có xuất xứ
rõ ràng
Bình Dương, ngày 26 tháng 05 năm 2021
Tác giả luận văn
Trần Thị Lương
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, rèn luyện và hồn thành luận văn này, tơi đã nhận
được sự góp ý quý báu, động viên khích lệ của quý thầy cơ, gia đình bè bạn, với
lịng thành kính sâu sắc, cho tôi được gửi lời cảm ơn tới:
Quý thầy cô cùng Ban giám hiệu trường Đại học Thủ Dầu Một, Bộ phận sau
Đại học, cùng quý thầy cô trong khoa Ngữ văn đã tận tâm truyền đạt tri thức và
giúp đỡ chúng tơi trong q trình tiếp nhận tri thức.
Tơi xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Kha, người ln quan tâm và
khích lệ động viên chúng tơi trong quá trình thực hiện luận văn này. Thầy cũng
là người đưa ra những nhận xét, góp ý, gợi mở động viên tinh thần giúp chúng
tơi hồn thành luậnvăn.
Tơi xin gửi cảm ơn tới tập thể Lớp CH16VH02 đã cùng chúng tôi học tập
rèn luyện, chia sẻ động viên, cùng nhaucố gắng phấn đấu trong quá trình thực
hiện luận văn.
Cuối cùng cho tơi gửi lời biết ơn tới gia đình, bạn bè, ln ủng hộ, khích lệ
tinh thần, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi không ngừng cố gắng trong quá trình
làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Bình Dương, ngày 26 tháng 05 năm 2021
Tác giả luận văn
Trần Thị Lương
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................................... 2
2.1. Dương Nghiễm Mậu trong nghiên cứu, phê bình trước 1975 ................................................ 2
2.2. Dương Nghiễm Mậu trong nghiên cứu, phê bình sau năm 1975 ........................................... 3
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 8
3.1. Mục đích nghiên cứu:............................................................................................................. 8
3.2. Đối tượng nghiên cứu: ........................................................................................................... 8
3.3. Phạm vi nghiên cứu:............................................................................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................................ 9
5. Đóng góp của đề tài ................................................................................................................. 9
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................................................... 9
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TỰ SỰ HỌC, TÁC GIẢ DƯƠNG NGHIỄM MẬU TRONG
VĂN HỌC MIỀN NAM VIỆT NAM 1954 - 1975 .................................................................. 11
1.1. Khái quát về tự sự học ....................................................................................................... 11
1.1.1. Khái niệm tự sự ................................................................................................................. 11
1.1.2. Khái niệm tự sự học .......................................................................................................... 12
1.2. Đôi nét về văn xuôi miền Nam 1954 - 1975 ...................................................................... 13
1.2.1. Bối cảnh văn hóa - xã hội.................................................................................................. 13
1.2.2. Đội ngũ và khuynh hướng văn xuôi miền Nam ................................................................ 14
1.3. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Dương Nghiễm Mậu .................................................. 17
1.3.1. Cuộc đời của nhà văn Dương Nghiễm Mậu ...................................................................... 17
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác ............................................................................................................ 20
Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................................... 22
Chương 2. NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN NGẮN DƯƠNG
NGHIỄM MẬU
............................................................................................................24
iii
2.1. Người kể chuyện trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu ............................................. 24
2.1.1. Người kể chuyện toàn tri ................................................................................................... 25
2.1.2. Người kể chuyện ngoại hiện ............................................................................................. 30
2.1.3. Người kể chuyện đồng sự ................................................................................................. 33
2.2. Điểm nhìn trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu ........................................................ 37
2.2.1. Điểm nhìn của người kể chuyện........................................................................................ 39
2.2.2. Điểm nhìn của nhân vật..................................................................................................... 43
Tiểu kết....................................................................................................................................... 48
Chương 3.KẾT CẤU, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN
DƯƠNG NGHIỄM MẬU ......................................................................................................... 50
3.1. Kết cấu truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu ....................................................................... 50
3.1.1. Kết cấu đồng hiện ............................................................................................................. 51
3.1.2. Kết cấu lắp ghép ................................................................................................................ 55
3.1.3. Kết cấu chuyện lồng trong chuyện .................................................................................... 57
3.2. Ngôn ngữ truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu ................................................................... 59
3.2.1. Ngơn ngữ giàu tính biểu tượng ......................................................................................... 59
3.2.2. Ngơn ngữ đậm chất hiện thực - đời thường ...................................................................... 64
3.2.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ ..................................................................................................... 66
3.2.4. Ngôn ngữ đối thoại nội tâm và độc thoại nội tâm ............................................................. 67
3.3. Giọng điệu trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu ....................................................... 69
3.3.1. Giọng chất vấn, hồi nghi ................................................................................................. 69
3.3.2. Giọng bình thản lạnh lùng ................................................................................................ 70
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................................................... 71
KẾT LUẬN ................................................................................................................................ 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 75
iv
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dương Nghiễm Mậu là một trong những nhà văn đô thị miền Nam chịu ảnh
hưởng đậm của tư tưởng hiện sinh. Văn của ông giàu chất triết lý, thể hiện một
lối viết, phong cách riêng. Theo Thụy Khuê, ông là “nhà văn tiên phong đối với
văn học Việt Nam bởi lối suy tưởng và cách đặt vấn đề của ông vẫn giữ nguyên
những mấu chốt bí mật, nhiều truyện ngắn với cấu trúc rất lạ, vẫn cịn nằm trong
vịng trăn trở tìm tịi của người viết hơm nay” (Thụy Khê, 2014). Tìm hiểu văn
Dương Nghiễm Mậu, ở một phương diện nào đó, là khám phá một trường hợp
của văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam. Cắt nghĩa về thành công và sức hấp
dẫn của truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu cũng là góp một cách diễn giải về một
khuynh hướng văn học tiêu biểu này.Một trong những cách tiếp cận làm sáng tỏ
sự thành công, sức hấp dẫn, vị thế của truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu là tự sự
học.
Tự sự học (narratology) là ngành nghiên cứu lấy nghệ thuật kể chuyện làm
đối tượng nghiên cứu. Hiện nay, tự sự học đang trở thành một hướng nghiên cứu
thu hút sự tham gia đông đảo của các nhà khoa học. Tự sự học hiện đại mở ra
triển vọng cho việc làm sáng tỏ nhiều vấn đề của thi pháp, phong cách nghệ
thuật, bao gồm từ vấn đề quan niệm nghệ thuật, cách tổ chức các sự kiện, các
motif truyện, diễn ngôn, người kể, lời kể, điểm nhìn, thời, thức,…
Từ đầu năm 2000 đến nay, tự sự học được giới nghiên cứu văn học đánh
giá là một bộ môn liên ngành giàu tiềm năng, từ cách nhìn này đã có nhiều lý
thuyết tự sự kinh điển và hậu kinh điển được du nhập, tiếp nhận ở Việt Nam,
nhiều cơng trình nghiên cứu vận dụng lý thuyết này giúp soi sáng, lý giải thuyết
phục nhiều vấn đề nghệ thuật mà các phương pháp nghiên cứu khác khơng có ưu
thế.
Xuất phát từ vị trí văn học sử của Dương Nghiễm Mậu trong văn học
trước 1975, cùng sự tương thích của lý thuyết tự sự học, chúng tơi lựa chọn đề
tài Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu. Mong muốn của
tác giả luận văn làgóp một tiếng nói lý giải về sự thành cơng cũng như vị thế
của Dương Nghiễm Mậu trong truyện ngắnđô thị miền Nam. Đối với luận văn,
1
Dương Nghiễm Mậu chỉ là một trường hợp nghiên cứu, qua đây người viết vừa
thử nghiệm để rèn luyện kĩ năng vận dụng lý thuyết hiện đại vào quá trình đọc
văn bản, giảng dạy văn học trong trường phổ thôngvừa có điều kiện trau dồi
kiến thức để làm sáng tỏ hơn các khuynh hướng văn học khác nhau giữa hai
miền Nam - Bắc giai đoạn 1954-1975.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể nói Dương Nghiễm Mậu là một trong những tác giả quan trọng góp
phần làm nên gương mặt văn xuôi miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Từ
đầu thập niên 60 (thế kỷ XX) đến sau ngày đất nước thống nhất đến nay, cuộc
đời và sáng tác của Dương Nghiễm Mậu vẫn luôn là đối tượng diễn giải, phân
tích của rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, nhà văn quan tâm đến sáng tác
của Dương Nghiễm Mậu.
Để làm tài liệu cho việc nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn
Dương Mậu, một số bài viết sau đây được xem xét và tiếp thu những điểm phù
hợp trong luận văn.
Có thể phân chia những bài viết, ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu,
phê bình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu
của luận văn theo hai giai đoạn: giai đoạn trước 1975 và giai đoạn sau 1975.
2.1. Dương Nghiễm Mậu trong nghiên cứu, phê bình trước 1975
Từ thập niên 60 (của thế kỷ XX) sáng tác của Dương Nghiễm Mậu trở
thành một đối tượng chú ý của phê bình văn học. Nhà phê bình Đặng Tiến trong
bài viết Vị trí con người dưới mắt Dương Nghiễm Mậu (Tạp chí Bách Khoa số
154 ngày 1 - 6 - 1963), có nhận xét sâu sắc về thế giới nhân vật và bối cảnh xã
hội hoạt động của các nhân vật trong sáng tác của Dương Nghiễm Mậu:“Tất cả
nhân vật của Dương Nghiễm Mậu đều mồ cơi từ nhân vật chính đến nhân vật
phụ, từ truyện đầu đến truyện cuối. Những kẻ khơng cịn cha mẹ chưa chắc đã
mồ cơi: mồ cơi ở đây vừa khơng có cha mẹ, vừa khơng có một bàn tay nào vuốt
mắt nếu mình chết đi, khơng một cái nhìn nào dừng lại khi mình vấp ngã. Tơi
khơng rõ chính Dương Nghiễm Mậu có mồ cơi hay không, nhưng qua cái ám ảnh
của ông, chúng ta bắt gặp một thời đại mồ côi”.Qua nhận xét trên đây của Đặng
Tiến, ta thấy rằng, những mảnh đời nhỏ bé đó, những thân phận khơng may mắn
2
trong cuộc sống hiện lên trong trang văn của Dương Nghiễm Mậu thật đau khổ
biết bao. Đặng Tiến có cái nhìn bao qt, đồng cảm, ơng chỉ ra nội dung xã hội,
số phận con người được trình hiện trong văn Dương Nghiễm Mậu, xã hội ấy, con
người ấy in hằn dấu vết của chiến tranh tàn khốc, loạn lạc.
Cùng quan tâm đến thế giới nhân vật trong sáng tác của Dương Nghiễm
Mậu, Tô Thùy Yên trongVăn và người Dương Nghiễm Mậu (Tuần báo Nghệ
thuật số 45 năm 1967) nhận xét: “Thế giới đó của Mậu trưng bày những bi đát
gớm giếc, những tối tăm rờn rợn, những bải hoải rã rời, những thét gào tắc
nghẹn, những uất ức, trong đó sinh sơi những chuột rệp, bệnh tật, đói nghèo, vơ
học và tính xấu, với đơi khi, khơng thể thiếu, một vài cái cười hỗn xược hay tang
thương”(Tô Thùy Yên, 1967). Đó chính là số phận của các nhân vật trong truyện
ngắn của Dương Nghiễm Mậu.
Đến Tạ Tỵ,ông quan tâm đến thái độ sống, bản lĩnh và khuynh hướng
sáng tác của Dương Nghiễm Mậu. Trong bàiDương Nghiễm Mậu và tuổi trẻ cô
đơn (Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, 1971) Tạ Tỵ nhận định: “Một khi con
người khơng có quyền lựa chọn cho đời mình hướng đi, thì một, phải dứt khốt
với nó, hai phải bng trơi thân phận như dịng nước nhỏ chảy len lách vô tri
dưới một khe lạch khơng tên, cho đến lúc nhạt nhịa tan biến vào đại dương”. (Tạ
Tỵ, 1971). Cùng nhấn mạnh đến cái nhìn nghệ thuật của Dương Nghiễm Mậu,
Du Tử Lê vớisự ngưỡng mộ sâu sắc văn chương Dương Nghiễm Mậu, cho rằng
các tác phẩm của ông giống như ngọn hải đăng, ngọn đuốc soi rọi và chi phối cả
sự nghiệp của ơng.
Ngồi các bài viết đánh giá khái quát quá trình sáng tác, phong cách, lối
viết, khuynh hướng tư tưởng của Dương Nghiễm Mậu, trước năm 1975 cịn có
một số bài viết điểm sách. Loại bài viết này xuất hiện mỗikhi sáng tác của Dương
Nghiễm Mậu được xuất bản. Chẳng hạn “Đọc Ngã đạn của Dương Nghiễm Mậu:
Thái độ của con người sống thực trong trò chơi: cuộc đời” (Nguyễn Nhật Duật,
Khởi hành số 57, tháng 6/1970), “Quê người của Dương Nghiễm Mậu” (Nguyễn
Nhật Duật, Khởi hành số 71, tháng 9/1970), “Tuổi nước độc” (Tràng Thiên, Tạp
chí Bách khoa số 68, năm 1959)…
2.2. Dương Nghiễm Mậu trong nghiên cứu, phê bình sau năm 1975
3
Trước năm 1975 cho đến thập niên 80, nếu như các nhà phê bình Sài Gịn
thiên về ghi nhận các phương diện văn học của sáng tác Dương Nghiễm Mậu, thì
từ cái nhìn ý thức hệ các nhà phê bình miền Bắc có xu hướng xem xét văn họcđơ
thị miền Nam là lệch lạc, là thứ văn học của thực dân, Mỹ ngụy phản động, đồi
trụy, sáng tác chỉ nhằm phục vụ xã hội tiêu thụ. Cái nhìn định kiến chính như vậy
cịn nặng nềcho đến đầu thập niên 80.
Năm 1975, Bộ Thơng tin Văn hóa ra thơng tri cấm lưu hành sách báo
phản động. Thơng tri có nội dung như sau: “theo chủ trương của Ban Tuyên huấn
trung ương cục, Bộ Thơng tin Văn hóa miền Nam đã tổ chức một bộ phận công
tác chuyên đọc và nghiên cứu những sách báo của địch xuất bản và lưu hành
trong thời kỳ chúng cịn chiếm đóng, phân loại những tác phẩm phản động, đồi
trụy, trước hết là loại sách dâm ơ, để có thái độ xử lí”. (Trần Trọng Đăng Đàn,
2000). Trong bảng kê sách báo cấm lưu hành thì Dương Nghiễm Mậu có 12 tác
phẩm bị cấm lưu hành. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương tại Đại
hội IV năm 1976 khẳng định, “ở miền Nam, chủ nghĩa thực dân cũ và mới cùng
với ba mươi năm chiến tranh, đã để lại những hậu quả nặng nề trên lĩnh vực văn
hóa và tư tưởng. Bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, bọn Mỹ-ngụy cố tạo ra một thứ
văn hóa nơ dịch, đồi trụy, lai căng, cực kỳ phản động”. (Phong Hiền, 1984).
Trong cơng trình Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam Việt đánh giá
Dương Nghiễm Mậu và Thế Uyên, Nguyên Vũ, Văn Quang, Phan Nhật Nam, …
là những cây bút chống Cộng thế hệ trẻ, “họ khơng đem cái tâm tình chống Cộng
phơi trên mặt giấy hay gửi gắm vào các nhân vật, mà đi vào những vấn đề nóng
bỏng của cuộc sống, đưa chúng vào bối cảnh cụ thể của một quân trường ngụy,
một mật khu, một trại giam của Cộng sản hay pha loãng nội dung chống Cộng
vào một gợi ý lơ lửng, một niềm băn khoăn khơng có gì giải đáp cụ thể, một câu
chuyện tình trong đó chất phản động và chất lãng mạn hay đồi trụy quyện vào
nhau một cách chặt chẽ. Tác phẩm của họ mang chiều sâu của cuộc sống mà họ
phản ánh, mang sự dằn vặt nội tâm sống thực mà chính họ đã trải qua, nhưng con
người họ trước sau, vẫn không chấp nhận Cộng sản”. (Phong Hiền, 1984).Đánh
giá riêng về Dương Nghiễm Mậu, tác giả Phong Hiền viết: “chính Dương
Nghiễm Mậu, viên sĩ quan chiến tranh chính trị rất hung hăng đó, có lúc đã viết
4
về mình: “Có hơm nhìn lại, tơi rùng mình, như một kẻ lưu đày, tôi hiểu ra những
cay đắng của đời mình, tơi khơng thể để mất nữa, như là tôi đã mất hết”. Với một
tâm trạng rối bời như vậy, Dương Nghiễm Mậu vẫn viết chống Cộng và cắt nghĩa
thái độ của mình một cách đầy ngụy biện như là lựa chọn một “sự bất cơng
khơng có tổ chức” để chống lại một sự“bất cơng có tổ chức”. Tác giả chống
Cộng một cách tuyệt vọng, đồng thời gào thét lên sự tuyệt vọngcủa chính mình”.
(Phong Hiền, 1984). Năm 1989, Trần Trọng Đăng Đàn trong cơng trình Văn hóa
văn nghệ… Nam Việt Nam 1954-1975 xếp Dương Nghiễm Mậu vào khuynh
hướng phản động, đồi trụy hóa con người: “có thể tìm thấy nhiều sự pha tạp, xen
kẽ giữa các khuynh hướng kích dâm, đồi trụy, khuynh hướng văn chương tiêu
thụ nhằm phi chính trị hóa bạn đọc với khuynh hướng phản động chính trị ở
nhiều tác giả phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới nhưTrùng Dương, Minh Đức Hoài Trinh… ở nhiều tác phẩm của Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo….
Dương Nghiễm Mậu…” (Phong Hiền, 1984).
Năm 1985 Mai Thảo cho xuất bản cuốn sách Chân dung mười lăm nhà
văn nhà thơ Việt Nam. Điểm thú vị của cuốn sách này là Mai Thảo viết về các
nhà văn, nhà thơ cùng thời với ông, ông miêu tả, đánh giá về các tác giả ấy từ
điểm nhìn gần, từ cái nhìn bên trong, vì thế cả sinh hoạt văn chương lẫn cuộc
sống ngoài đời của nhiều nhà văn nhà thơ hiện lên sinh động trên các trang
viết.Trong bàiCon đường Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo chia sẻ: “Dương
Nghiễm Mậu bao giờ cũng đến với tơi bằng khn mặt đó. Khn mặt một người
nhắm cả hai mắt lại, cho cái nhìn trở thành cái nhìn bên trong, cái nhìn tâm hồn,
và nụ cười tủm tỉm hóm hỉnh là chân dung Mậu ở tấm hình chân dung ngộ
nghĩnh của Trần Cao Lĩnh” (Mai Thảo, 1984).
Một trong những đổi mới đáng lưu ý trong cách đánh giá văn học miền
Nam nói chung, Dương Nghiễm Mậu nói riêng là việc các soạn giả của cơng
trình Từ điển văn học bộ mới đã đưa tác giả Dương Nghiễm Mậu vào làm một
mục từ, do Thụy Khuê phụ trách và viết khá kĩ lưỡng. Đây là một sự ghi nhận có
tính chất đổi mới đối với bộ phận văn học đô thị miền Nam trước 1975. Đánh giá
về Dương Nghiễm Mậu, Thụy Khuê viết: “Dương Nghiễm Mậu là một trong
những nhà văn đã góp phần từ bỏ lối viết hiện thực xã hội để thử nghiệm lối viết
5
hiện thực hiện sinh”, ông là “một trong những nhà văn Việt Nam thế hệ 60-70 đã
đào rất sâu vào bản chất của cuộc hiện sinh con người, con người Việt Nam với
chiến tranh và nhược tiểu. Ông đứng riêng một cõi, dường như khơng có bạn
đồng hành và đã tạo được một lối cấu trúc về truyện ngắn, truyện dài trong nhân
sinh quan bao quát của triết học hiện sinh vô thần”. Tiếp tục quan điểm này,
trong tiểu luận “Dương Nghiễm Mậu, con người nội soi trong bạo lực chiến tranh
và thân phận nhược tiểu”, Thụy Khuê đã phân tích rất kĩ bút pháp phân tích tâm
lí đặc sắc của tác giả và chứng minh sự gần gũi với triết học hiện sinh của văn
xuôi Dương Nghiễm Mậu. Thụy Khuê khẳng định trong văn học Việt đến nay
chưa có nhà văn nào khai triển con người hư vô, một cách triệt để như Dương
Nghiễm Mậu.
Trong bối cảnh đổi mới,việc tái bản văn học miền Nam giai đoạn 19541975 trong đó có bộ phận văn học đơ thị đã được một số đơn vị tư nhân quan
tâm. Năm 2007 sau khi Công ty Phương Nam xuất bản 4 tác phẩm (Đôi mắt trên
trời, Cũng đành, Tiếng sáo người em út và Nhan sắc) của Dương Nghiễm Mậu,
một cuộc tranh luận về Dương Nghiễm Mậu đã diễn ra. Một phía đại diện là Vũ
Hạnh, Lê Anh Đào.. tiếp tục phê phán các sáng tác của nhà văn này, một phía
khác đại diện là Phạm Xuân Nguyên, Chi Mai… đã khẳng định đóng góp và vị
thế của Dương Nghiễm Mậu trong lịch sử văn học và sự tiếp nhận của độc giả
đương đại.
Năm 2013, lần đầu tiên Dương Nghiễm Mậu trở thành chủ để chính của
số chuyên san Tạp chí Thư quán bản thảo (số 55). Có thể nói đây là một dấu mốc
quan trọng về tiếp nhận Dương Nghiễm Mậu sau 1975. Số chuyên san vừa là một
cuộc kiểm kê sự nghiệp của Dương Nghiễm Mậu, khôi phục lại bản gốc hoàn
chỉnh văn bản một số tác phẩm đã từng bị cắt xén khi xuất bản trước đó, giới
thiệu thêm các bút ký khá hiếm gặp viết về biến cố lịch sử của miền Nam của
ông, đồng thời đăng tải nhiều bài “đọc và viết” giàu trải nghiệm, có tính hồi ức
hoặc nhận xét tinh tế trong ý thức đối thoại về Dương Nghiễm Mậu của Khuất
Đẩu, Nguyễn Xuân Thiệp, Đinh Cường… Trong đó đáng chú ý nhất là bài của
Trần Văn Nam và Phạm Xuân Nguyên. Trong tiểu luận “Dương Nghiễm Mậu,
thử xét giới hạn ba lối viết trong ba thời kỳ”, Trần Văn Nam lựa chọn phân tích
6
ba tác phẩm để làm rõ ba lối viết truyện của Dương Nghiễm Mậu: hiện thực xã
hội thời chiến (Cũng đành), tra vấn hiện sinh phi lí (Niềm đau nhức của khoảng
trống), dòng ý thức (Bên sườn núi đá).Phạm Xuân Nguyên thể hiện một cái nhìn
sắc sảo với lời bình phẩm về văn chương Dương Nghiễm Mậu:“Đọc văn Dương
Nghiễm Mậu là đọc những trăn trở, hoài nghi, lo âu, dằn vặt trước những hồn
cảnh có thể biến con người thành chuột, hạ cấp nhân tính thành thú tính (Những
chuột), trước sự bạo hành của cái ác có thể khiến con người dửng dưng với nỗi
đau của đồng loại (Lấy máu). Tính biểu tượng của truyện Những chuột buộc
người đọc từ hoảng sợ đến thức tỉnh. Đọc văn Dương Nghiễm Mậu là đọc những
day dứt lựa chọn của người trí thức, người sĩ phu trước một hiện tại lịch sử: xuất
xử hay hành tàng, hành động hay không hành động, hành động vì cái gì, hành
động theo hướng nào. Cả tập Nhan sắc gần như có thể nói là được viết cho
đường hướng tư tưởng này, bằng những truyện dã sử và giả sử. Từ Hải, Kinh
Kha, Hồ Quý Ly, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ, Phạm Thái khi trở thành nhân vật
của Dương Nghiễm Mậu đã đặt nhà văn vào những tình thế lựa chọn, và họ đã
phải lựa chọn theo cách của con người hiện đại muốn ở họ. Họ phải lựa chọn để
khơng ngừng đi tìm ý nghĩa của cuộc sống”(Phạm Xuân Nguyên, 2016).Theo
Phạm Xuân Nguyên, tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu có sự ảnh hưởng lớn đối
với quá trình tiếp nhận của người đọc được tốt lên thơng qua những câu chữ lời
văn khiến cho người đọc phải suy nghĩ trăn trở về những nhân vật, số phận con
người hay những day dứt của chính tác giả về hướng đi của cuộc đời.Đọc Dương
Nghiễm Mậu “độc giả sẽ được phát hiện một nhà văn xuất sắc với một lối viết
hiện đại, thấm đầy chất hiện sinh, đi sâu vào thân phận con người, phơi bày
những cảnh ngộ làm người trong một thế giới nhiều bất trắc, phi lí. Do đó đọc
ơng khơng thể đọc theo kiểu ngoại quan mà phải bằng con mắt nội quan”. (Việt
Hà, 2016).
Trên đây luận văn đã điểm lại quá trình tiếp nhận Dương Nghiễm Mậu
qua hai giai đoạn: trước và sau 1975. Có thể nhận thấy mấy điểm sau:
Thứ nhất, từ trước 1975, sáng tác của Dương Nghiễm Mậu đã được độc
giả và giới nghiên cứu quan tâm tìm đọc và phê bình. Ở miền Bắc diễn giải văn
học miền Nam chủ yếu từ lập trường, quan điểm chính trị, nên xu hướng chính là
7
đánh giá thấp, lên án và bài trừ, nhất là bộ phận văn học đô thị; ở miền Nam cách
đọc chính trịnhường chỗ cho cách đọc văn, theo đó vấn đề vốn sống, nhân sinh
quan, tư tưởng hiện sinh, thế giới nhân vật, đề tài, bút pháp, lối viết… của Dương
Nghiễm Mậu được phân tích kĩ lưỡng.
Thứ hai, sau 1975, vẫn cịn khơng ít cơng trình, bài viết thể hiện cách đọc
văn Dương Nghiễm Mậu từ lập trường chính trị, đây đó việc phê bình Dương
Nghiễm Mậu rơi vào tình trạng xã hội học cứng nhắc, máy móc, nhìn nhận khá
khắt khe, cực đoan đối với bộ phận văn học đô thịmiền Nam giai đoạn 19541975. Tuy vậy cũng cần thừa nhận rằng, từ đầu những năm 2000 trở lại đây, việc
tái bản tác phẩm Dương Nghiễm Mậu bước đầu được chú ý, những đánh giá có
tính chất học thuật, thể hiện tinh thần hòa giải, nhân văn, khách quan, cởi mở, đổi
mới.
Thứ ba, dù có đổi mới, điều chỉnh trong đánh giá Dương Nghiễm Mậu
nhưng đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đặt vấn đề vận dụng lý
thuyết hiện đại (ngoại trừ việc vận dụng triết học hiện sinh) đểnghiên cứu, để đi
đến những đánh giá truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu khách quan, có cơ sở khoa
học. Đây đó vấn đề người kể chuyện, nhân vật, lối viết được đề cập nhưng việc
làm sáng tỏ nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu vẫn còn là
một khoảng trống, mời gọi những nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống.
3. Mụcđích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:Với tên đề tài Nghệ thuật tự sự trong truyện
ngắn Dương Nghiễm Mậu, mụcđích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ
những nét đặc trưng trong nghệ thuật tự sự của truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu
như: người kể chuyện, điểm nhìn nghệ thuật, giọng điệu, ngôn ngữ.
3.2.Đối tượng nghiên cứu:Đối tượng nghiên cứucủa đề tài luận văn là
truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu, trong đó chủ yếu tập trung khảo sát các bình
diện tự sự như: người kể chuyện, điểm nhìn, giọng điệu, ngơn ngữ góp phần tạo
nên phong cách truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:Do giới hạn về thời gian, tư liệu, trong khuôn
khổ của luận văn, chúng tôi tập trung tìm hiểu 4 tập truyện ngắn:
- Cũng đành (Nhà xuất bản Văn nghệ, 2007)
8
- Đôi mắt trên trời (Nhà xuất bản Văn nghệ, 2007)
- Tiếng sáo người em út (Nhà xuất bản Văn nghệ, 2007)
- Nhan sắc (Nhà xuất bản Văn nghệ, 2007)
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, luận văn sử dụng hướng tiếp cận và
phương pháp nghiên cứu sau đây:
Hướng tiếp cận từ lý thuyết tự sự được sử dụng chủ yếu trong luận văn
này để khảo sát, đánh giá vềcác yếu tố: người kể chuyện, điểm nhìn, giọng điệu,
ngơn ngữ,để thấy ý nghĩa nhân sinh, sự thức tỉnh nhân tính, những biểu hiện của
chất nhân văn tốt lên từnghệ thuật xây dựng hình tượng của tác phẩm Dương
Nghiễm Mậu.Qua đólàm nổi bật những nét đặc trưng trong nghệ thuật tự sự của
truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu.
Phương pháp lịch sử- xã hội được vận dụng để xem xét truyện ngắn của
Dương Nghiễm Mậu gắn với hoàn cảnh lịch sử- xã hội, đời sống văn học, văn
hóa mà nó được sản sinh để có cái nhìn cụ thể - lịch sử trong việc đánh giá, giá
trị của văn bản.
Phương pháp loại hình giúp tác giả luận văn trong khi triển khai thực hiện
đề tài có thể tiếp cận, lý giải tư duy nghệthuật của nhà văn qua thể loại truyện
ngắn.
Trong quá trình triển khai đề tài, người thực hiện luận văn cũng sử dụng
phương pháp thống kê phân loại, các thao tác so sánh đối chiếu, phân tích - tổng
hợp giúp hiểu sâu hơn về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Dương Nghiễm
Mậu.
5.Đóng góp của đề tài
Với đề tài Nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Dương Nghiễm
Mậu người thực hiện đề tài hy vọng góp tiếng nói thẩm định thành cơng về nghệ
thuật tự sự, phương diện tạo thành phong cách sáng tác trong truyện ngắn của
Dương Nghiễm Mậu trong dòng văn học Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu
của đề tài gồm 3 chương:
9
Chương 1. Khái quát về tự sự học, tác giả Dương Nghiễm Mậu trong văn
học miền Nam Việt Nam 1954 - 1975
Chương 2. Người kể chuyện và điểm nhìntrong truyện ngắn Dương
Nghiễm Mậu
Chương 3. Kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Dương
Nghiễm Mậu
10
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TỰ SỰ HỌC, TÁC GIẢ DƯƠNG NGHIỄM MẬU
TRONG VĂN HỌC MIỀN NAM VIỆT NAM 1954 - 1975
1.1. Khái quát về tự sự học
1.1.1. Khái niệm tự sự
Tự sự là một trong những khái niệm gốc, cơ bản của tự sự học. Không
hiểu đúng về thuật ngữ tự sự thì khơng diễn giải đúng về tự sự học. Tự trong tự
sự có nghĩa là kể, sự là sự việc, sự kiện, như vậy tự sự là kể chuyện. Từ điển
thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên)
định nghĩa: “Tự sự là một phương thức tái hiện đời sống trong tồn bộ tính khách
quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời
sống trong không gian, thời gian, qua các sự kiện biến cố xảy ra trong cuộc đời
con người. Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi
con người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một
cái gì đó. Cho nên tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với cốt
truyện là một hệ thống nhân vật được khắc họa đầy đủ, nhiều mặt hơn hẳn trữ
tình và kịch” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, 2010). Đây là cách
hiểu truyền thống, phổ thông, quen thuộc. Trong thực tiễn lý luận, tự sự và các
khái niệm liên quan, gần gũi với nó được diễn giải rất đa dạng.
Nhà lý luận G. Genette trong cơng trình Tân diễn ngơn tự sự phân biệt ba
khái niệm trần thuật, tự sự và câu chuyện như sau: câu chuyện là toàn bộ sự kiện
được kể, tự sự là diễn ngơn về câu chuyện đó, trần thuật là hành vi trần thuật làm
sản sinh ra diễn ngơn đó. Phải có hành vi trần thuật thì chúng ta mới biết đến câu
chuyện, mới có diễn ngơn tự sự. Tự sự chính là diễn ngơn, là lời văn, là ngôn ngữ
tạo ra quan hệ, ý nghĩa, trật tự của các sự kiện” (Trần Đình Sử, 2018). Tự sự
chính là kết quả của q trình trần thuật. Hàng ngày chúng ta đều nghe các câu
chuyện khác nhau, nghe hoặc kể để hiểu hay giải thích các sự vật hiện tượng, ở
đâu có câu chuyện thì ở đó có tự sự, trần thuật. Tự sự là một lĩnh vực rộng lớn
của giao tiếp đời sống con người. J.H.Miller nói rằng, “tự sự là cách để ta đưa
các sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng ta có được ý nghĩa, tự sự là
cách tạo nghĩa cho các sự kiện, biến cố” (Trần Đình Sử, 2007). Roland Barthes
11
nhấn mạnh, đã có bản thân lịch sử lồi người thì có tự sự. J.Culler cho rằng, bất
kể chúng ta xem đời sống là một chuỗi sự kiện liên tục dẫn đến một mục tiêu nào
đó hay là kể bất cứ cái gì xảy ra thì tự sự là phương thức chủ yếu để con người
hiểu biết sự vật và tự sự chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa.
1.1.2. Khái niệm tự sự học
Trong luận văn này chúng tôi không bàn về tự sự trong các lĩnh vực rộng
lớn khác của đời sống (tôn giáo, khoa học, chính trị, điện ảnh…), mà chỉ quan
tâm đến tự sự nghệ thuật được thực hiện bằng ngôn từ. Về mặt nguồn gốc, tên
gọi tự sự học (narratology, narratologie) do nhà nghiên cứu T.Todorov đề xuất
trong cuốn sách Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày” năm 1969. Todorov cho
rằng, “Tự sự học là lí luận về cấu trúc của tự sự. Để phát hiện và miêu tả cấu trúc
ấy, người nghiên cứu tự sự đem hiện tượng tự sự chia thành các bộ phận hợp
thành, sau đó cố gắng xác định chức năng và mối quan hệ qua lại của chúng” (
Trần Đình Sử, 2004). Mieke Bal - một nhà nghiên cứu người Hà Lan trong sách
Tự sự học - Dẫn luận lí thuyết tự sự xuất bản năm 1985 sau bổ sung thành cuốn
Dẫn luận lí thuyết tự sự in năm 1997 định nghĩa: “Tự sự học là lí thuyết về sản
phẩm văn hóa gồm trần thuật, văn bản trần thuật, hình tượng, sự kiện và kể
chuyện”, là khoa nghiên cứu lí luận về văn bản tự sự (Trần Đình Sử, 2018).
G.Prince trong Tự sự học định nghĩa, tự sự học là khoa học nghiên cứu hình thức
và chức năng của tự sự. Genette chỉ ra, tự sự học theo nghĩa rộng nghiên cứu chủ
đề, nội dung tự sự, và theo nghĩa hẹp nghiên cứu hình thức, các phương thức tự
sự. C.Bremond trong Logic của các khả năng tự sự xem đối tượng của tự sự học
là các thủ pháp, phương thức tạo nên tự sự, các quy luật chi phối các sự kiện
được kể ra.
Theo cách hiểu phổ biến nhất, tự sự học (có khi gọi là trần thuật học, phân
tích cấu trúc truyện kể…) là một ngành nghiên cứu phê bình văn học lấy tác
phẩm tự sự, văn bản tự sự nghệ thuật làm đối tượng. Nghiên cứu tự sự cũng
chính là nghiên cứu cơ chế tổ chức văn bản tự sự, hoạt động kiến tạo nghĩa cho
các sự kiện. Tự sự học nghiên cứu rất nhiều yếu tố, bình diện như người kể
chuyện, điểm nhìn, thời gian, khơng gian tự sự, giọng điệu, kết cấu…(Trần Đình
Sử, 2018).
12
Cách hiểu trên đây về tự sự học được luận văn sử dụng để triển khai vấn
đề nghiên cứu.
1.2. Đôi nét về văn xuôi miền Nam 1954 - 1975
1.2.1. Bối cảnh văn hóa - xã hội
Sau năm 1954, đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị
khác biệt. Hiệp ước Giơnevơ và vĩ tuyến 17 khơng chỉ đánh dấu ranh giới địa lý,
chính trị mà cả về văn hóa xã hội. Miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa, hoạt
động văn nghệ chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Mác - Lê nin; miền Nam đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa, văn học chịu ảnh hưởng của các tư tưởng Âu - Mỹ.
Đánh giá về biến chuyển xã hội miền Nam sau 1954, Nguyễn Đình Lê nhận xét:
“song song với súng đạn, tiền bạc, văn hóa Hoa Kỳ cũng được du nhập vào miền
Nam. Sự lan truyền nền văn hóa đó vào xã hội miền Nam theo hai con đường
chính: một là sách báo, phim ảnh, thơng tin từ chính phủ hay các cơ quan chức
năng của Hoa Kỳ giới thiệu vào Việt Nam; hai là ảnh hưởng trực tiếp về lối sống
Hoa Kỳ qua khoảng 3.5 triệu lượt thanh niên Hoa Kỳ trong sắc phục quân đội
đến miền Nam… Lối sống Mỹ tác động hai mặt đến cộng đồng cư dân miền
Nam: vừa tiêu cực, vừa tích cực. Một mặt nó xa rời văn hóa truyền thống của
người Việt, nhưng mặt khác giúp người ta hiểu cuộc sống đa dạng hơn” (Nguyễn
Đình Lê, 2019).
So với miền Bắc, chế độ chính trị, xã hội miền Nam có nhiều biến động
phức tạp và dữ dội. Từ sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, có hàng triệu
người miền Bắc di cư vào miền Nam, chủ yếu là các gia đình tư sản, địa chủ giàu
có, các trí thức, và người Cơng giáo. Chiến tranh giữa hai miền ngày càng khốc
liệt, sự can thiệp của Mỹ vào đời sống miền Nam ngày càng sâu sắc, đời sống
chính trị miền Nam thường xuyên đảo lộn, các cuộc đảo chính diễn ra liên miên.
Cả chế độ Ngơ Đình Diệm và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đều triển khai
nhiều biện pháp, chiến lược chống Cộng mạnh mẽ. Nói riêng về mặt tư tưởng
văn hóa: văn hóa Mỹ nói riêng, văn hóa phương Tây nói chung dưới nhiều hình
thức khác nhau thâm nhập vào miền Nam, làm thay đổi tư duy, cách nhìn, lối
sống của người dân nơi đây. Theo Võ Phiến, người Mỹ vào miền Nam “đem theo
tiền Mỹ, lối sống Mỹ, văn hóa Mỹ và đây là đầu mối cho nhiều thay đổi sâu xa
13
trong xã hội miền Nam” (Võ Phiến, 1986). Nguyễn Hiến Lê chỉ ra rằng, “từ năm
1960-1961, loại phim cao bồi, nhạc jazz và các tạp chí khiêu dâm Playboy ồ ạt
xâm nhập Sài Gịn… Lính Mỹ qua, dân tộc ta mới tiếp xúc thẳng với người Mỹ,
mới thấy rõ được cái mặt trái của văn minh Mỹ, xã hội Mỹ và chịu ảnh hưởng tai
hại của văn minh đó” (Nguyễn Hiến Lê, 1972). Nếu chiến tranh, xung đột chính
trị hình thành tâm lí bi quan, chán nản, lo lắng, tuyệt vọng thì văn hóa ngoại lai
hình thành tâm lí sùng ngoại, vong bản, lối sống hiện sinh, hưởng thụ trụy lạc…
trong đời sống thành thị miền Nam Việt Nam những năm 1954 - 1975.
Trong số các lý thuyết, trào lưu tư tưởng phương Tây du nhập vào miền Nam,
chủ nghĩa hiện sinh có ảnh hưởng sâu đậm nhất. “Chủ nghĩa hiện sinh đã được
một số trí thức Thiên chúa giáo du nhập vào miền Nam từ cuối những năm 50…
đến khi Diệm đổ (cụ thể là từ năm 1964) thì trào lưu triết học ấy bao hàm cả hình
thức hữu thần lẫn hình thức vơ thần, đã gặp được những điều kiện phù hợp để lan
tràn ồ ạt trong chế độ Sài Gòn” (Phong Hiền, 1984). Sở dĩ chủ nghĩa hiện sinh có
chỗ đứng vững chắc, được tiếp nhận rộng rãi vì cuộc chiến tranh diễn ra trên
khắp đất nước tạo ra bao đau thương tàn khốc; các cuộc đảo chính thay ngựa
giữa dịng xảy ra liên tiếp làm cho xã hội miền Nam bất ổn, tan rã, sụp đổ khơng
lối thốt; con người đối diện sống trong nghịch cảnh ấy cảm thấy lo âu, mất niềm
tin, tuyệt vọng, bế tắc, bi quan, hoài nghi hoặc nổi loạn phá phách… Tâm lý và
điều kiện này tương hợp với tinh thần của triết học hiện sinh. Điều đáng nói là
triết học hiện sinh không chỉ ảnh hưởng đến lối sống, tư duy, tâm thế của người
trí thức nói chung mà cịn ảnh hưởng đến các hoạt động văn học, từ dịch thuật,
nghiên cứu, đến sáng tác.
1.2.2. Đội ngũ và khuynh hướng văn xuôi miền Nam
Theo một thống kê chưa đầy đủ của Doãn Quốc Sĩ trong cuốn Văn học và
tiểu thuyết, tính đến năm 1973, ở miền Nam có khoảng 50 tác giả văn xi. Cịn
theo Cao Huy Khanh trong Nhà văn hiện đại tính đến năm 1974, số lượng các tác
giả văn xuôi miền Nam lên đến 200 người, trong đó khoảng 60 tác giả viết có
chất lượng. Từ độ lùi trên dưới một thập kỷ, nhìn lại văn xi miền Nam, Võ
Phiến trong Hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975 (Tổng quan) đã trình ra
một kết quả kiểm kê khá gần với quan sát của Cao Huy Khanh - trong số 267 tác
14
giả hiện diện trong cuốn Tổng quan văn học miền Nam của Võ Phiến thì có hơn
hai phần ba là tác giả văn xuôi. Rõ ràng, đội ngũ văn xuôi miền Nam giai đoạn
1954 - 1975 rất đông đảo, chỉ tính riêng số nhà văn “thực sự có chất lượng” (theo
cách nói của Cao Huy Khanh) cũng cho thấy tính chất bề thế của văn xuôi khu
vực này. Sở dĩ đội ngũ đơng đảo là vì, bên cạnh các nhà văn sống và viết ở đây từ
trước 1954, văn học miền Nam còn được bổ sung bởi đội ngũ các nhà văn di cư
từ miền Bắc, miền Trung vào. Đó là Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Trang Thế Hy,
Ngọc Linh, Lưu Nghi, Nhất Linh, Vũ Bằng, Vi Huyền Đắc, Thanh Nam, Lê Tất
Điều, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Võ Phiến, Y
Uyên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sĩ, Chu Tử, Nhật Tiến, Phan
Du, Nguyễn Văn Xuân, Minh Quân, Võ Hồng, Vũ Hạnh, Nguyễn Mộng Giác,
Hồng Ngọc Tuấn, Từ Kế Tường, Cung Tích Biền, Túy Hồng, Nguyễn Thị
Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Vinh, Trần Thị
NgH,… Nhìn về mặt thế hệ, văn xi thập niên 50, 60 ở miền Nam “khơng có
đàn anh” (Ngun Sa, 1967)khơng có nhiều cách tân đột phá, những nhà văn có
đóng góp nổi bật và được độc giả yêu thích nhất vẫn là những nhà văn truyền
thống kiểu Bình Nguyên Lộc. Phải từ giữa thập niên 60 trở đi, văn xuôi miền
Nam đổi gác sang thế hệ trẻ, mới có những bước chuyển quan trọng cả về lập
trường chính trị, về quan niệm sáng tác, lối viết, bút pháp và đề tài. Văn chương
miền Nam biến thái cùng với một mối ám ảnh thường xuyên, khốc liệt sau 1963:
ám ảnh chiến tranh và tất cả những gì xung quanh chiến tranh.Ngoài đề tài chiến
tranh, đến giai đoạn này, văn học miền Nam hướng vào đề tài hiện sinh, chống
Cộng, chống chiến tranh, chống chính quyền Sài Gịn đậm nét.
Có thể hình dung các hoạt động văn xi ở miền Nam theo các nhóm văn
học. Nhà phê bình Cao Huy Khanh khi tổng kết 15 năm văn xuôi miền Nam chia
văn xi đơ thị thành nhiều nhóm, các nhóm này thường gắn với các diễn đàn
báo chí/cơ sở xuất bản nhất định. Nhóm Người Việt (Sáng tạo) gồm Mai Thảo,
Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sĩ Tế…; nhóm Quan điểm có Vũ
Khắc Khoan, Mặc Đỗ…;nhóm Văn hóa ngày nay có Nhất Linh, Nguyễn Thị
Vinh, Linh Bảo, Duy Lam, Nhật Tiến…; nhóm Nhân loại gồm Ngọc Linh, Sơn
Nam, Bình Ngun Lộc, Trang Thế Hy…; nhóm Bách khoa gồm Võ Phiến, Vũ
15
Hạnh, Võ Hồng, Phan Du…; nhóm Khởi hành có Viên Linh, Dương Nghiễm
Mậu, Cung Tích Biền…; nhóm Văn có Nguyễn Xn Hồng, Hồng Ngọc Tuấn,
Mường Mán, Ngụy Ngữ…; nhóm Đất nước (Trình bầy, Đối diện) có Thế
Ngun, Thế Vũ, Võ Trường Chinh, Trần Duy Phiên, Huỳnh Ngọc Sơn,…;
nhóm Tuổi ngọc có Duyên Anh, Từ Kế Tường, Đinh Tuyến Luyện… Sự đa dạng
của các nhóm bút cũng là sự đa dạng về phong cách, lối viết, về báo chí và xuất
bản văn học.
Có quan điểm phân chia văn xi miền Nam thành các khuynh hướng
khác nhau. Một số nhànghiên cứu chia văn xuôi đôi thị miền Nam thành hai
khuynh hướng: văn học tiến bộ, yêu nước cách mạng tại vùng địch tạm chiếm và
văn học phản động đồi trụy, chống Cộng, phục vụ xã hội tiêu thụ tại các đô thị.
Cách phân chia này phản ánh tính lịch sử và giới hạn của cái nhìn mang tính lập
trường chính trị. Theo tác giả Nguyễn Thị Thu Trang, nếu lấy giá trị văn hóa
truyền thống làm tiêu chí thì có thể phân chia văn xuôi đô thị miền Nam thành
hai khuynh hướng: một là khẳng định các giá trị văn hóa truyền thống; hai là xa
rời các giá trị văn hóa truyền thống, quan tâm đến những yếu tố hiện đại. Khuynh
hướng khẳng định văn hóa truyền thống (Sơn Nam, Bình Ngun Lộc, Võ Hồng,
Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Bằng, Nhật Tiến…) thể hiện ở thái độ trở về
với dân tộc, quá khứ, đề cao truyền thống, đấu tranh chống các yếu tố ngoại lai,
thực dân; khuynh hướng xa rời văn hóa truyền thống (Chu Tử, Dương Nghiễm
Mậu, Viên Linh, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Trần Thị
NgH…) thể hiện ở cái nhìn phủ định, phản ứng chống lại truyền thống, bi quan
về thực tại,…(Nguyễn Thị Thu Trang, 2015)
Nhìn từ góc độ ảnh hưởng của các tư tưởng triết học, văn học nước ngồi
có thể thấy văn học miền Nam giai đoạn 1954- 1975 có ba khuynh hướng cơ bản,
trong đó có hai khuynh hướng thể hiện tính hiện đại, gắt kết với phương Tây và
một khuynh hướng thể hiện rõ tính chất đối kháng chính trị. Thứ nhất là các sáng
tác chịu ảnh hưởng của phân tâm học, với Thanh Tâm Tuyền (Mù khơi…),
Nguyễn Thị Hoàng (Tuổi học trị, Ngày qua bóng tối, Vịng tay học trị, Về trong
sương mù, Vào nơi gió cát…), Nguyễn Thị Thụy Vũ (Khung rêu, Mèo đêm, Thú
hoang…), Túy Hồng (Tóc mai nghìn năm, Vết thương dậy thì, Thở dài…), Nhã
16
Ca (Bóng tối thời con gái, Đêm dậy thì…)... Thứ hai là các sáng tác chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa hiện sinh, trong văn xi có Dương Nghiễm Mậu (Con sâu,
Đêm tóc rối…), Dỗn Quốc Sĩ (Dịng sơng định mệnh), Mai Thảo (Bên lề giấc
mộng, chìm dần vào lãng quên), Thanh Tâm Tuyền (Bếp lửa).(Trong thơ có
Ngun Sa, Tơ Thùy Yên, Du Tử Lê, Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng....). Các
khuynh hướngsáng tác chịu ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng khác ở miền
Nam khá đa dạng, có những dấu ấn nhất định, như chịu ảnh hưởng của các trào
lưu nữ quyền, kĩ thuật dòng ý thức của tiểu thuyết mớinhưng vị thế không thể
vượt lên hai khuynh hướng chúng tơi vừa nêu hoặc hịa trộn vào thành tựu của
các dịng văn học đó.Thứ ba là các sáng tác chống Cộng. Văn học chống Cộng là
một nét đặc trưng của hoạt động văn nghệ miền Nam. Tiêu biểu cho khuynh
hướng này có Nguyễn Mạnh Cơn, Dỗn Quốc Sỹ, Chu Tử, Võ Phiến,… Đặc
điểm của văn học này là dùng văn chương nghệ thuật làm vũ khí chống miền
Bắc, chống chủ nghĩa Cộng sản; ca tụng xã hội, con người và chế độ Việt Nam
Cộng hòa ở miền Nam.
Từ sự phân chia văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 thành nhiều
nhóm, theo các khuynh hướng sáng tác cho thấy hoàn cảnh xã hội đã tác động
đến đời sống văn học, dẫn đến sự phân hóa dữ dội trong đội ngũ sáng tác. Thực
tế này, với độ lùi của thời gian cho thấy, điều quan trọng trong nghiên cứu, đánh
giá sáng tác của các nhà văn miền Nam giai đoạn này khơng phải là theo nhóm
này hay nhóm kia mà là ở giá trị của tác phẩm, kết quả của tư duy nghệ thuật của
lao động nhà văn.
Với cách hiểu như trên về đội ngũ sáng tác văn xuôi miền Nam, luận văn đặt vấn
đề nghiên cứu truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu hướng tới việc thẩm định giá trị
của mảng truyện ngắn để khẳng định vị trí, sự đóng góp của ơng cho văn học
Việt Nam hiện đại.
1.3. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Dương Nghiễm Mậu
1.3.1. Cuộc đời của nhà văn Dương Nghiễm Mậu
Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 – 11- 1936
tại làng Mậu Hịa, huyện Đan Phượng, phủ Hồi Đức, tỉnh Hà Đông nay thuộc
Hà Nội; mất ngày 02 – 08 – 2016 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông được coi là
17
một trong số những nhà văn nổi tiếng của miền Nam Việt Nam với bút hiệu là
Hương Việt Hương. Từ năm 12 đến 18 tuổi, Dương Nghiễm Mậu sinh sống và
học tập ở Hà Nội. Sáng tác đầu tay của ông là đoản văn, tùy bút được in ở trang
phụ trương văn nghệ của báo chuyên nghiệp. Đến năm 1954, sau khi hiệp định
Giơnevơ được ký kết, Dương Nghiễm Mậu di cư vào Nam cùng với gia đình. Từ
năm 1957, ông viết nhiều đoản văn, truyện ngắn và truyện dài. Năm 1962, ơng
chủ trương Tạp chí Văn nghệ với Lý Hoàng Phong và cộng tác với các báo như:
Tia sáng, Thế kỷ, Sáng tạo, Giữ thơm quê mẹ, Giao điểm, Bách khoa... Ngồi ra,
Dương Nghiễm Mậu cịn chủ trương Nhà xuất bản Văn Xã.Ơng nhận giải thưởng
văn chương tồn quốc (miền Nam) năm 1966 với tập truyện Cũng đành(do Tạp
chí Văn nghệ xuất bản năm 1963), truyện dài Gia tài người mẹ (Văn nghệ, 1964).
Năm 1966, gia nhập quân đội Việt Nam Cộng hịa; năm 1967, Dương Nghiễm
Mậu làm phóng viên mặt trận. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà văn bị bắt đi
tù cải tạo. Năm 1977, ông chuyển sang vẽ tranh sơn mài và sinh sống bằng nghề
đó tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhà văn Dương Nghiễm Mậu, sau Hiệp định Giơnevơ, ơng đi theo gia
đình di cư vào Nam. Hoàn cảnh xã hội miền Nam sau hiệp định Giơnevơ, chiến
tranh lan rộng khắp miền Nam và cả nước, sự can thiệp của người Mỹ vào cuộc
chiếnkéo theo những hệ lụy làm cho xã hội miền Nam bất ổn, rối ren. Bom đạn
của chiến tranh, chất độc hóa học đã rải xuống mảnh đất miền Nam khiến nhiều
đồng ruộng trở thành đất hoang, hàng vạn làng mạc bị tàn phá bởi bom mìn, súng
đạn. Quân nhân Mỹ xa nhà với cuộc sống điều kiện dư dật cần có những qn
bar, tụ điểm vui chơi như phịng trà, gái nhảy, v.v. Trong hoàn cảnh chiến tranh lối sống của xã hội tiêu thụ kéo theocác tệ nạn hút chích, cờ bạc,v.v. Bên cạnh
đó, trên phương diện văn hóa, sự du nhập ồ ạt văn hóa phương Tây vào miền
Nam làm cho xã hội thêm phức tạp. Khác với giai đoạn tiền chiến, ở giai đoạn
này, tuổi trẻ chứng kiến những biến động của xã hội cùng với việc di dân phần
nào đã ảnh hưởng lối cảm, lối nghĩ, cảm quan nghệ thuật của nhà văn. Với
Dương Nghiễm Mậu, những tháng năm của tuổi trẻ đã trải qua và chứng kiến
hồn cảnh xã hội đó đã tạo cho ơng những suy nghĩ và hướng đi mới trong việc
đổi mới cách viết.Tạ Tỵ đã có nhận xét về cách tiếp cận hiện thực xã hội miền
18
Nam sau 1954 theo cảm quan của Dương Nghiễm Mậu như sau: “Dương
Nghiễm Mậu tuy khơng có quyền chọn lựa hướng đi nhưng cũng chẳng sẵn sàng
làm một dòng nước nhỏ, nên chấp nhận sự có mặt của mình trước cuộc sống với
một thế đứng riêng biệt” (Tạ Tỵ, 2017). Tập truyện ngắn đầu tay Cũng đành
(xuất bản 1963) mang đậm dấu ấn về thân phận con người trong xã hội.“Tất cả
các nhân vật của Dương Nghiễm Mậu đều nghèo túng, xã hội của Dương
Nghiễm Mậu là một xã hội bị chiến tranh tàn phá, ở đâu cũng còn vết tích của
rạn vỡ: trong thành phố, trên cơ thể, trong tâm hồn. Một xã hội con lạc cha, vợ
lạc chồng, anh em hằm hè nhau như hổ đói, người với người xem nhau như súc
vật” (Đặng Tiến, 1963). Đặc biệt là sau khi chính quyền Ngơ Đình Diệm bị lật
đổ, sự biến động trong đời sống chính trị làm cho đời sống xã hội miền Nam
càng thêm phức tạp.Chủ nghĩa hiện sinh có cơ hội phát triển. Huỳnh Như
Phương trong bài viết giới thiệu về chủ nghĩa hiện sinh (in trong Tiến trình văn
học (khuynh hướng và trào lưu), Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
2019) đã viết: “…trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt và bi thảm, xã hội miền
Nam tiếp xúc sâu rộng với nền văn hóa phương Tây, triết học và văn học hiện
sinh được giới thiệu, quảng bá qua hệ thống giáo dục, xuất bản và báo chí”. “Từ
ảnh hưởng đến văn học nghệ thuật, chủ nghĩa hiện sinh đi vào quan niệm sống và
lối sống, với những tác động khá tế nhị và phức tạp. Một mặt không thế chối cãi
rằng việc du nhập triết học và văn học hiện sinh góp phần dẫn đến phản ứng “nổi
loạn”, “tận hưởng cuộc đời” của một bộ phận thanh niên nơng nổi khơng tìm thấy
đườngđi trong chiến tranh, như Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Xuân, Lữ Phương,
Thế Nguyên, Nguyễn Trọng Văn đã từng chỉ ra” (5.6. Chủ nghĩa hiện sinh
(Existentialism ), Sđd, tr.140 -141). Từ hiện thực đời sống xã hội và văn học
miền Namnhư Huỳnh Như Phương diễn giải và phân tích, một số nhà văn chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong đó có Dương Nghiễm Mậu. Sáng tác
của Dương Nghiễm Mậu giai đoạn sau có sự biến chuyển trong tư tưởng cũng
như sự dấn thân trong sáng tác. Dương Nghiễm Mậu dám nói lên tiếng nói của cá
nhân mình, dùng những hình tượng cũng như số phận của nhân vật để thể hiện
quan điểm cũng như lập trường viết của ông. Qua đó, khẳng định một vị thế
19