Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Phân tích Ưu thế & Hạn chế của nền kinh tế thị trường. Để giải quyết những hạn chế đã nêu, nhà nước cần có những giải pháp gì Hãy liên hệ trực tiếp với nước ta hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.95 KB, 10 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------oOo------

BÀI TẬP LỚN
Mơn: Kinh tế Chính trị Mác - Lênin
Họ tên: Đồn Ngọc Thảo
Lớp: POHE Truyền thơng Marketing K62 - MSV: 11206912
Đề bài: Đề 1 - Phân tích Ưu thế & Hạn chế của nền kinh tế thị trường. Để giải quyết những
hạn chế đã nêu, nhà nước cần có những giải pháp gì? Hãy liên hệ trực tiếp với nước ta hiện
nay.

Hà Nội 2021


2

Mục lục
1. Khái niệm nền KTTT………………………………………………………....3
a. Tiến trình phát triển………………………………………………….......
b. Khái niệm nền KTTT………………………………………………....…
c. Lý thuyết “Bàn tay vơ hình”…………………………………………….

2. Những tiêu chí xác định nền KTTT & Liên hệ nước ta………………..…...5

3. Ưu điểm của nền KTTT……………………………………..………………..7
a. Sản xuất theo nhu cầu………………………………………………..….
b. Hiệu quả và năng suất………………………………………………..….
c. Thúc đẩy sự đổi mới………………………………………………….....
d. Khuyến khích đầu tư………………………………………………….....
e. Thị trường nhiều lựa chọn…………………………………………..…..


f.

Cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ hơn……………………………..…...

4. Nhược điểm của nền KTTT……………………………………………….....8
a. Bất công trong cạnh tranh……………………………………….………
b. Thiếu tối ưu hóa……………………………………………………...….
c. Khoảng cách quá lớn…………………………………………………….
d. Bất lợi từ chênh lệch của cải………………………………………….…
e. Sự phát triển không bền vững………………………………………...…

5. Giải pháp cho những thách thức……………………………………………9

1.

Khái niệm nền KTTT

a.

Tiến trình phát triển

Đoàn Ngọc Thảo - MSV: 11206912


3

Nền kinh tế thị trường đã gần như thay đổi cuộc sống của chúng ta hàng ngày, nhất kỳ
trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Việt Nam. Qua các sự điều phối và
những lý thuyết, thiết chế chính sách, từ sự đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp tư
nhân, và sự quản lý theo dõi của chính phủ, tất cả đều đang kiến thiết một nền kinh tế

bền vững, ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Xuyên suốt tiến trình lịch sử, mọi xã hội đều phải đối mặt với Sự khan hiếm - một
vấn đề kinh tế cơ bản: Sản xuất cái gì, cho ai, trong thế giới mà các nguồn tài nguyên
đều có hạn. Thế kỷ 20 chứng kiến hai nền kinh tế có cơ chế đối chọi nhau, và đem lại
những kết quả cũng khác nhau, đó là: nền kinh tế chỉ huy (Command Economy) được
định hướng từ chính phủ trung ương, và nền kinh tế thị trường (Market Economy),
dựa trên hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân. Nền kinh tế chỉ huy thường là đặc
trưng của các xã hội cộng sản. Một số ví dụ về các nước có mơ hình này bao gồm
Cuba, Triều Tiên và Liên Xơ cũ. Trong đó, Trung Quốc duy trì nền kinh tế chỉ huy
trong nhiều thập kỷ, trước khi chuyển sang nền kinh tế hỗn hợp (Mixed Economy) có
cả yếu tố cộng sản và tư bản.
Một nguyên lý trung tâm là các nhà hoạch định trung ương của chính phủ sở hữu hoặc
kiểm soát các phương tiện sản xuất trong xã hội. Quyền sở hữu tư nhân hoặc đất đai,
lao động và vốn hoặc không tồn tại hoặc bị hạn chế rất nhiều để sử dụng hỗ trợ cho kế
hoạch kinh tế trung ương. Ngược lại với các nền kinh tế thị trường tự do, trong đó giá
cả hàng hóa và dịch vụ được ấn định bởi cung và cầu, các kế hoạch trung tâm trong
nền kinh tế chỉ huy đặt ra giá cả, kiểm soát sản xuất và hạn chế hoặc hoàn toàn cấm
cạnh tranh trong khu vực tư nhân. Trong một nền kinh tế chỉ huy thuần túy, khơng có
cạnh tranh, vì chính phủ trung ương sở hữu hoặc kiểm sốt tất cả hoạt động kinh
doanh, chiếm vị trí độc quyền trong tất cả hoạt động.
Ngay từ những năm tháng đầu của thế kỷ 21 có một điều khơng thể bàn cãi, đó là nền
kinh tế chỉ huy đã thất bại trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế hay đạt sự giàu có
thịnh vượng. Thậm chí ở một số nước, vấn đề an ninh quốc gia cịn khơng thể được
đảm bảo.
Ngược lại, dù nền kinh tế thị trường đã khiến nhiều quốc gia ở châu Á, Bắc Mỹ, Tây
Âu phát triển vượt bậc, những mơ hình này vẫn chịu sự hồi nghi từ nhiều phía, đặc
biệt khi xác định vai trò của nền kinh tế này trong thương mại quốc tế. Sở dĩ như vậy
một phần là do nó không phải một ý thức hệ, mà là một hệ thống các thiết chế, ý niệm,
tập tục đã được kiểm chứng qua thời gian, tất cả nhằm đảm bảo mọi cá nhân trong xã
hội đều đạt được sự dư dả về kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường không xuất hiện

một trung tâm điểm.
Đoàn Ngọc Thảo - MSV: 11206912


4
b. Khái niệm nền KTTT

Nền kinh tế thị trường (tiếng Anh: Market Economy) là một hệ thống kinh tế trong đó
các quyết định kinh tế và giá cả được quyết định bởi sự tác động qua lại giữa người
mua và người bán. Trong hệ thống này, chính phủ vẫn có ảnh hưởng can thiệp hay
điều chỉnh, nhưng quyền lực thị trường đã được chia sẻ cho nhiều bên, khơng cịn tình
trạng độc quyền. Một trong những nguyên lý cơ bản chính là luật cung và cầu, nhằm
xác định giá và số lượng phù hợp cho các hàng hóa, dịch vụ.
Các doanh nhân mua nhân tố sản xuất (đất đai, lao động và vốn) và kết hợp chúng với
nhau, cùng hợp tác với công nhân và đôi khi là nhà đầu tư tài chính, để sản xuất ra
hàng hóa và dịch vụ cho người tiêu dùng hoặc để cho các doanh nghiệp khác mua.
Một cách tự nguyện, dựa trên sự tự do về lựa chọn, người mua và người bán đồng ý về
các điều khoản của giao dịch. Các yếu tố quyết định thường là sở thích của người tiêu
dùng và doanh thu mục tiêu của doanh nghiệp sau các khoản chi tiêu, đầu tư. Chính vì
những yếu tố vơ cùng cá nhân như trên, mỗi công ty cũng sẽ phân bổ nguồn lực và tổ
chức khâu sản xuất khác nhau, và đặt ra các mục tiêu khác nhau về lợi nhuận kỳ vọng
Các doanh nhân có sản phẩm được khách hàng đánh giá cao sẽ giành được lợi nhuận
cao hơn, và họ có thể tái đầu tư vào kinh doanh trong tương lai. Tương tự, thị trường
sẽ dần đào thải những người khơng có khả năng giành được “miếng bánh” thị trường.
Vì vậy khi đã rơi vào tình trạng này, họ bắt buộc phải đầu tư để cải tiến, bắt kịp và tiến
xa hơn đối thủ.
Rất nhiều các nước phát triển hiện nay có nền kinh tế thị trường, vì họ cho phép rất
nhiều lực lượng tác động đến nhau. Vai trị của chính phủ chỉ là đảm bảo sự ổn định,
đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hoặc các can thiệp như ấn định giá
trần, giá sàn, cấp phép, hạn ngạch, thuế và các nguồn trợ cấp.


c. Lý thuyết “Bàn tay vơ hình”

Bàn tay vơ hình là một phép ẩn dụ, một tư tưởng kinh tế do nhà tư tưởng, nhà kinh tế
học Adam Smith đưa ra vào năm 1776. Adam Smith đã giải thích về phép ẩn dụ này
trong cuốn sách "An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations" "Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân ở sự thịnh vượng của các quốc gia" xuất bản
năm 1776 và trong cuốn "The Theory of Moral Sentiments" - "Lý thuyết cảm nghĩ về
đạo đức" xuất bản năm 1759. Nhưng đến tận những năm 1900s thì thuật ngữ này mới
được dùng trong bối cảnh kinh tế.
Phép ẩn dụ bàn tay vơ hình đưa ra hai luận điểm. Thứ nhất, các giao dịch tự nguyện
trên thị trường tự do sẽ vơ hình chung tạo ra những lợi ích sâu rộng. Thứ hai, những
Đồn Ngọc Thảo - MSV: 11206912


5

giá trị tích cực này lớn hơn nhiều so với những gì mà một nền kinh tế bị kiểm sốt có
thể tạo ra.
Tư tưởng này là một phần của triết lý kinh tế "laissez-faire", có nghĩa là "để nó diễn
ra". Adam Smith cho rằng thị trường sẽ tự tìm thấy trạng thái cân bằng của nó mà
khơng cần chính phủ tác động, hoặc các biện pháp cưỡng ép khác buộc nó vào những
khn mẫu khơng tự nhiên. Chỉ khi những mối quan tâm cá nhân, sự tự do trong sản
xuất và tiêu dùng được đáp ứng, thì lợi ích của cả xã hội mới được đảm bảo. Tác động
cá nhân lên cung và cầu sẽ dẫn đến sự dịch chuyển giá và những thay đổi trong
thương mại.
2.

Những tiêu chí xác định nền KTTT, liên hệ với nước ta:
Hiện nay đã có nhiều nước đưa ra các tiêu chí để xác định nền kinh tế một quốc gia là
thị trường hay chưa. Ta có thể xem xét 6 tiêu chí Mỹ đánh giá Việt Nam đã trở thành

một nền kinh tế thị trường hay phi thị trường trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế:
- Khả năng chuyển đổi của đồng tiền: Tiền có 3 khả năng chính: Dự trữ giá trị,
Phương tiện thanh tốn và Đơn vị tính tốn. So với các đồng tiền khác như đồng USD,
tiền VND của Việt Nam chắc chắn khơng có nhiều khả năng chuyển đổi. Tỷ lệ lạm
phát của USd thấp hơn, nên đồng USD cũng có giá trị cao hơn. USD có thể được
thanh toán ở hầu hết các quốc gia. Và cuối cùng, USD có thể được dùng là đơn vị tính
tốn, định giá dầu vàng,... ở hầu hết quốc gia, cịn VND thì khơng.
- Mức độ tự do thỏa thuận mức lương giữa người quản lý và người lao động: Từ
trước thời điểm gia nhập WTO 2007 thì Việt Nam đã bắt đầu tham khảo các văn bản
các quốc gia khác để áp cho văn bản của quốc gia mình. Bộ luật lao động điều chỉnh
quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động đã ban hành năm 2012 (Luật
số 10/2012/QH13). Tuy nhiên, khâu áp dụng luật vẫn cịn mang tính hình thức, chưa
thực sự đảm bảo được quyền thương lượng của người lao động với doanh nghiệp.
- Đầu tư từ nước ngoài hoặc liên doanh: Doanh nghiệp khi đầu tư vào Việt Nam có
hai hình thức là Đầu tư trực tiếp (FDI-Foreign Direct Investment) và Đầu tư gián tiếp
(FII-Foreign Indirect Investment hoặc còn gọi là đầu tư theo danh mục (FPI-Foreign
Portfolio Investment). Tuy nhiên ở Việt Nam, do chính phủ vẫn can thiệp sâu vào nền
kinh tế, nên việc giới hạn các hoạt động đầu tư nước ngồi sẽ tránh được tình trạng thị
trường Việt Nam áp đảo bởi doanh nghiệp nước ngoài.

Đoàn Ngọc Thảo - MSV: 11206912


6

- Sở hữu hoặc quản lý của Nhà nước đối với các ngành sản xuất: Văn hóa Việt
Nam từ lâu đã áp dụng hình thức tập trung tập quyền. Dù quyền dân chủ đã đi vào
nhiều khía cạnh cuộc sống, nhưng cho đến giờ nhà nước vẫn nắm giữ toàn bộ tư liệu
sản xuất (Lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên). Tư liệu sản xuất lớn như đất đai (tài
nguyên thiên nhiên) vẫn thuộc quyền sở hữu của chính phủ, người dân có quyền sử

dụng.
- Quản lý của nhà nước đối với sự phân bổ các nguồn lực: Chính phủ trực tiếp áp
dụng giá trần cho hàng hóa thiết yếu như xăng, dầu, điện,... và giá sàn. Nói cách khác,
nhà nước vẫn quản lý quá trình phân bổ nguồn lực.
- Các yếu tố thích hợp khác
Kết luận: Nhìn chung, tuy chưa được định nghĩa là một nền kinh tế thị trường, nhưng
việc phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam mang lại hiệu quả
cao. Minh chứng lớn nhất là qua gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã và đang phát
triển nhanh chóng, từ nghèo nàn, lạc hậu thành một trong những nền kinh tế năng
động hàng đầu khu vực, có độ mở lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh hàng đầu thế giới.
Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia 13 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có
những FTA thế hệ mới chất lượng với các khối kinh tế mạnh (các hiệp định CPTPP,
EVFTA), nên thị trường của nền kinh tế Việt Nam được mở ra rộng lớn.
Cả Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) đều coi Việt Nam là đối tác thương mại quan
trọng ở châu Á-Thái Bình Dương. Cũng vì sức đề kháng của nền kinh tế đã tốt hơn
trước nhiều nên nhìn chung việc tham gia các FTA của Việt Nam đều đạt được hiệu
quả tốt. Tính đến tháng 2-2020, đã có 71 nước cơng nhận Việt Nam là một nền kinh tế
thị trường. Để bảo đảm có một môi trường cạnh tranh công bằng giữa doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, Đảng cộng
sản Việt Nam thơng qua đồng thời 3 nghị quyết, bao gồm: Nghị quyết số 11-NQ/TW
về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số
10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 12-NQ/TW về tiếp tục
cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Ba nghị quyết này
thể hiện rõ quan điểm của Đảng về việc xây dựng một nền kinh tế thị trường mang
tính cạnh tranh cao, cạnh tranh cơng bằng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp tư nhân.
Đoàn Ngọc Thảo - MSV: 11206912



7
3.

Ưu điểm của nền KTTT
Nền kinh tế thị trường có một số ưu điểm. Nhìn chung ta có thể thấy rằng bốn vấn đề:
Sản xuất cái gì, Ai sản xuất, Sản xuất như thế nào và Sản xuất cho ai được giải quyết
rất hiệu quả. Trong mơ hình này, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá
cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng
lượng cung.
a.
Hàng hóa và dịch vụ được sản xuất theo nhu cầu của người tiêu dùng
Các cấu trúc của nền kinh tế thị trường đảm bảo rằng những hàng hoá và dịch vụ mà
mọi người muốn nhất được sản xuất vì người tiêu dùng sẽ trả giá cao nhất cho những
mặt hàng mà họ muốn nhất, và các doanh nghiệp sẽ sản xuất những mặt hàng đó sẽ
thu lại lợi nhuận.
b.
Sản xuất hiệu quả
Nền kinh tế thị trường thưởng cho những người sản xuất hiệu quả nhất vì những người
năng suất sẽ kiếm được nhiều tiền hơn những người sản xuất kém.
c.
Thúc đẩy sự đổi mới
Các sản phẩm mới, thú vị sẽ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng tốt hơn các sản
phẩm hiện có, và các đối thủ cạnh tranh sẽ nhận ra rằng họ có thể tăng lợi nhuận bằng
cách sản xuất một sản phẩm sáng tạo.
d.
Đầu tư
Nền kinh tế thị trường khuyến khích các doanh nghiệp thành cơng đầu tư vào các
cơng ty đang phát triển, do đó nâng cao chất lượng sản xuất, vì nó mang lại lợi thế
cạnh tranh và tăng cơ hội giàu có.
e.

Thị trường cho mọi người nhiều lựa chọn
Mọi người có nhiều tự do trong việc quyết định công việc, phát triển kinh doanh và
mua hàng hóa dịch vụ (miễn là người đó có đủ khả năng chi trả).
f.
Tạo cơ hội cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bởi chu trình sản xuất khơng cồng kềnh, ít nhân lực và chi phí hơn các "ơng lớn", họ
hồn tồn có cơ hội phát triển nhanh chóng.

4.

Nhược điểm của nền KTTT
Mặc dù được coi là một trong những hệ thống đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho các
bên liên quan, nhưng nhược điểm của mơ hình này khá đáng kể:

a.

Những bất công trong cạnh tranh
Nền kinh tế thị trường được định nghĩa bởi sự cạnh tranh gay gắt, vì vậy khơng có cơ
chế nào để giúp đỡ những người vốn có hồn cảnh khó khăn, chẳng hạn như người già
Đoàn Ngọc Thảo - MSV: 11206912


8

hoặc người khuyết tật. Những người chăm sóc nhóm này cũng gặp bất lợi, vì họ phải
phân bổ thời gian và nguồn lực của mình để chăm sóc thay vì làm việc trong thị
trường. Thúc đẩy công việc và thu nhập tốt cho phụ nữ và nam giới trong các điều
kiện tự do, bình đẳng, an ninh và phẩm giá con người, là một trong những ưu tiên
chính của Việt Nam. Trong những năm qua, ta không thể phủ nhận công sức của các
nhà lãnh đạo trong việc xúc tiến và tạo việc làm, góp phần tăng năng suất và tăng

trưởng kinh tế; phát triển nguồn nhân lực; phát triển bền vững; và xóa đói giảm nghèo.
Ở Việt Nam, cũng giống như các nước đang phát triển nói chung, phụ nữ chiếm phần
lớn trong lực lượng người lao động nghèo, thu nhập khơng chỉ thấp hơn mà cịn bấp
bênh, khơng ổn định hơn nam giới. Các công việc mà họ được đảm nhận thường có
mức lương thấp, rủi ro khá cao. Vị thế của phụ nữ trên thị trường lao động phần lớn bị
ảnh hưởng bởi những bất lợi về kinh tế - xã hội do phân biệt đối xử giới tính. Phụ nữ
Việt Nam thường ít được tiếp cận với các nguồn lực sản xuất, giáo dục, phát triển kỹ
năng và các cơ hội thị trường lao động hơn nam giới. Một lý do cho tình trạng này là
vì hầu hết các cơng việc chăm sóc khơng trả cơng cho phụ nữ Việt Nam, trong khi
cũng mong muốn họ tham gia trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp và nền kinh tế thị
trường.
b. Thiếu tối ưu hóa

Chi phí cơ hội của nền kinh tế thị trường là các thành phần tham gia của nó có thể
khơng được tối ưu hóa. Điều này khơng chỉ dẫn đến những khoản lãng phí, mà cịn
đem lại thiệt thịi cho nhiều cá nhân. Một người có thể vì hồn cảnh gia đình hay vì
thiếu cơ hội, mà bỏ qua tiềm năng của mình để kiếm một cơng việc có thu nhập thấp,
điều này là do thị trường thiếu tối ưu hóa các yếu tố của nó.
c. Khoảng cách xã hội và kinh tế lớn
Vì các lực lượng thị trường quyết định kẻ thắng người thua trong nền kinh tế thị
trường, nên có thể có một khoảng cách cực kỳ lớn giữa tỷ phú và người nghèo.
d. Sự chênh lệch về của cải
Trong các nền kinh tế thị trường, tiền có xu hướng sinh ra nhiều tiền hơn, và những
người có ngân quỹ thấp hơn sẽ khó có cơ hội. Nói cách khác, những người giàu dễ trở
nên giàu hơn nữa, trong khi người nghèo khó đổi đời.

e.

Các doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định không thật sự nhân đạo
Ưu tiên của họ là lợi nhuận chứ khơng phải lợi ích, nhu cầu lâu dài của cả xã hội. Để

cắt giảm chi phí, nhân cơng có thể chịu sự bóc lột từ các nhà sản xuất, mơi trường có
Đồn Ngọc Thảo - MSV: 11206912


9

thể bị hy sinh để đạt được lợi nhuận ngay lập tức. Hơn nữa, điều kiện làm việc kém có
thể dẫn đến việc thiếu các quy định của chính phủ vì sức khỏe và an tồn gây tốn kém
tiền bạc, do đó làm giảm lợi nhuận.
5.

Giải pháp cho những thách thức

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển một cách vượt
bậc. Tuy nhiên, những hạn chế của nền kinh tế thị trường đều hiện diện ở Việt Nam.
Vì vậy, việc xem xét các vấn đề và nhìn nhận các giải pháp chính phủ đã đưa ra là vô
cùng cần thiết. Với những thể chế kinh tế và các luật lệ nghiêm minh, Việt Nam đã
bảo vệ người tiêu dùng, hỗ trợ người nghèo, cùng những cố gắng trong suốt những
năm qua để cải thiện nhược điểm của nền kinh tế thị trường.
a. Những bất lợi trong cạnh tranh cho người khuyết tật, người già,...:
Những năm gần đây, chung tay với chính phủ Việt là các quỹ hỗ trợ, các tổ chức quốc
tế như Quỹ sáng kiến Tài chính dành cho nữ doanh nhân (We-FI), Google WomenWill
Công ty Unilever Việt Nam, Nhãn hàng Sunlight với các chương trình như “Phụ nữ
Việt Nam tự tin làm kinh tế” năm 2021 của Unilever Việt Nam. Tại lễ ra mắt chiến
dịch “Career has no gender – Sự nghiệp không phân biệt giới” do Mạng lưới Doanh
nghiệp hỗ trợ phát triển quyền năng phụ nữ (VBCWE) tổ chức, nước ta được xếp vị trí
thứ 87 trên tổng số 153 quốc gia được khảo sát về bình đẳng giới. Giám đốc điều hành
VBCWE cho biết, tại Việt Nam, tỷ lệ nữ có bằng đại học tương đương nam giới, và có
tới 70% phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động. Các vị trí quản lý cấp cao do phụ nữ
Việt Nam đảm nhiệm chiếm 27%, cao hơn trung bình thế giới.

b. Khoảng cách xã hội và kinh tế lớn:
Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong việc giảm nghèo và nâng cao chất
lượng cuộc sống cho hàng triệu người. Tỷ lệ nghèo trong các vùng dân tộc thiểu số
tiếp tục giảm là kết quả rất đáng khích lệ, và những nỗ lực tập trung vào việc tăng
cường thu nhập cho dân tộc thiểu số có thể gia tăng cơ hội cho những nhóm người này
và giảm sự bất bình đẳng kéo dài. Đói nghèo ở Việt Nam tiếp tục giảm, đặc biệt là
trong các dân tộc thiểu số với tỷ lệ giảm mạnh tới 13%, mức giảm lớn nhất trong thập
niên vừa qua, theo một báo cáo mới công bố của Ngân hàng Thế giới (NHTG).Các gia
đình có thu nhập thấp ở vùng cao thường sử dụng đất để trồng những loại cây cơ bản
như lúa hoặc ngơ, thay vì trồng cây có giá trị cao như cà phê, hồ tiêu hay cao su. Hơn
nữa, tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng có thể giúp nông dân vùng cao thực hiện
những khoản đầu tư cần thiết vào sản xuất nông nghiệp để đem lại thu nhập cao. Nâng
cao khả năng tạo thu nhập có thể giúp thu hẹp bất bình đẳng giữa các nhóm dân tộc.
Ví dụ, mức tiêu dùng bình qn đầu người của người dân tộc thiểu số chỉ còn thấp
hơn người Kinh và người Hoa khoảng 45%. Hơn nữa, người nghèo đang phải đối mặt
Đoàn Ngọc Thảo - MSV: 11206912


10

với khoảng cách ngày càng lớn về khả năng tiếp cận giáo dục trung học phổ thông, cải
thiện nước sạch và vệ sinh môi trường.
c. Sự chênh lệch về của cải:
Không thể phủ nhận tầm quan trọng của các doanh nghiệp tầm cỡ, vì họ là lực lượng
mũi nhọn, giúp đưa kinh tế Việt Nam phát triển, ghi tên trên bảng xếp hạng quốc tế.
Tuy nhiên, một quốc gia không thể phát triển bền vững và ổn định nếu thiếu đi sự
quan tâm cho các đối tượng tiềm năng nhưng kém may mắn, thiếu cơ hội phát triển.
Các quỹ bảo trợ xã hội, các ngân hàng dành cho người lao động như Agribank và các
khoản hỗ trợ tài chính từ chính phủ dành cho các gia đình hộ nghèo, tất cả đều nhằm
cải thiện tình trạng khan hiếm về nguồn lực cho các doanh nhân khởi nghiệp, các cá

nhân ở vùng sâu vùng xa. Tình trạng đói nghèo khơng chỉ gói gọn trong thu nhập, mà
cịn liên quan đến nhiều dịch vụ công cần thiết cho sự phát triển của trẻ em như giáo
dục, y tế, bảo vệ và các lĩnh vực khác. Có thể thấy rõ những nỗ lực của chính phủ
trong việc cải thiện các khía cạnh này.

Tài liệu tham khảo:
1. Vietnambiz - Nền kinh tế thị trường và gì? Đặc điểm và nền kinh tế thị trường

hiện đại
2. Saga.vn - Kinh tế thị trường.
3. Investopedia - Market Economy.

Đoàn Ngọc Thảo - MSV: 11206912



×