Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Đánh giá tình hình điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường của ngân sách nhà nước từ khi bước sang nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.69 KB, 14 trang )

Đánh giá tình hình điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường của ngân sách nhà
nước từ khi bước sang nền kinh tế thị trường
Từ khi bước sang nền kinh tế thị trường vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước
được nang lên một cách rỏ rệt . Nhà nước đã sử dụng công cụ ngân sách của mình
và công cụ chính sách tài chính tiền tệ để điều tiết nền kinh tế đưa nền kinh tế của
đất nứoc ngày càng phát triển và ổn định . mức thu nhập của người dân ngày càng
tăng , lạm phát trong thập niên qua giảm đi rỏ rệt , xuất khẩu tăng ...
Mặc dù trong thời gian qua tình hình tài chính trong khu vực bất ổn định khủng
hoảng sảy ra triền miên . nhưng do nhà nước ta đã đưa ra các chính sách điều chỉnh
như : duy trì chính sách tiền tệ độc lập duy trì khả năng giảm lãi suất để đối phó
với khủng hoảng hay tăng lãi suất để đối phó với lạm phát
+ Gửi tỉ giá hối đoái tương đối ổn định để ổn định môi trường kinh doanh và an
toàn cho hệ thốngd ngân hàng nhà nước đã sử dụng ngân sách của mình để điều
tiết tỉ giá hối đoái .
+ Duy trì khả năng chuyển đổi hoàn toàn đảm bảo vốn có thể tự do luân chuyển
nhằm tăng hiệu quả đaàu tư , chống tệ nạn tham nhũng , quan liêu hành chính .
Không nước nào có thể vừa tăng tự do hoá các luồng vốn vừa ổn định tỉ giá
hối đoái và dử được chính sách tiền tệ độc lập. Chính vì vạy mỗi nước phải lựa
chọn một trong ba chế độ tiền tệ cơ bản sau:
Cách một : cơ chế thả nỗi tỉ giá , tự do hoá các giao dịch tài chính và áp
dụng các chính sách
Tiền tệ điều tiết thông qua ngân sách nhà nướcđể chống khủng hoảng .
Cách 2: Cố định tỉ gía và tự do hoá các luồng vốn.
Cách 3: Cơ chế kiểm soát vốn có thể đi với một tỉ giá hối đoái tương đối ổn
định. Áp dụng với điều kiện kinh tế hiện nay của Việt Nam thì nhà nước ta đã sử
dụng cách thứ ba bởi vì ngân sách nhà nước ta trong điều kiện hiện nay là rất eo
hẹp chúng ta không thể sử dụng được cách thứ nhất bởi vì nó yêu cầu mọt đồng
tiền tương đối ổn định với cơ chế thả nổi tỉ giá .Trong khi đồng tiền cửa ta là quá
yếu kém ,bất ổn định .Một điểm nữa là tự do hoá các giao dịch tài chính đồng
nghĩa với việc mở rộng tài khoản vốn .Các tổ chức tài chính tự do hoạt động khinh
doanh , tự điều tiết .Trong khi ở Việt Nam chúng ta vai trò của nhà nước là rất lớn .


Các tổ chức tài chính chủ yếu tồi tại và phát triển đều dựa vào nhà nước .Nhà
nước thường xuyên phải sử dụng một phần ngân sách để bù lỗ cho các ngân
hàng(do sự hoạt động kém hiệu quả) nhằm ổn định đồng tiền ,chống khủng hoảng
tài chính .Cơ chế tài chính của ta lõng lẽo chưa hình thành được các mối qua hệ
qua lại tác động chặt chẽ với nhau để trở thành một thể thống nhất mà cơ chế đều
phụ thuộc vào nhà nước .Vì vậy cách một chỉ tồn tại vời các nước phát triển .
Đối với cách hai độ rủi ro quá cao và khi xẩy ra rủ ro thì cái giá phải trả là
quá đắt .
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhà nước ta cần kiểm soát vốn để có thể
từ đó đIều chỉnh mức cung tiền tệ ,điều chỉnh lạm phát ,tỉ giá hối đoái .Chính Phủ
chủ chương khai thác tối đa nguồn vốn trong nước ,chủ yếu là vốn trong dân cư để
bù đắp bội chi ngân sách nhà nước .Từ đầu năm 1991 đến nay bộ tài chính đã phát
hành liên tục các loại tín phiếu ,trái phiếu kho bạc nhà nước .Trước hết nước ta đã
thí điểm ở ba thành phố lớn là Hải Phòng ,Hà Nội thành phố hồ chí minh,dần đần
sẽ mở rộng ra cả nước .
Từ giữa năm 1995 bộ tài chính phối hợp với ngân hành nhà nươc thành lập
và đưa vào hoạt động thị trườngđấu thầu tín phiếu kho bạc .Tạo thêm một kênh
huy động vốn mới cho ngân sách nhà nước đáp ứng tương đối kiệp thời các nhu
cầu chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển ổn định và số liệu này có ý
nghĩa rất quan trọng trong điều kiện ngân sách của ta chưa thiếu hụt hằng năm
tương đối lớn trên dưới 3,8%GDP
Cùng với các kênh huy động vốn của ngân hàng thương mại với khối lượng
trái phiếu chính phủ đã mở ra một kênh huy động vốn mới trong nền kinh huy
động hàng năm khá lớn thời gian phát hành tương đối liên tục ,đối tượng chủ yếu
là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư đã góp phần tích cực vào việc ổn định tiền tệ .
Trong thời kỳ 1990_1999 tráiphiếu kho bạc đã bù đắp 70% tổng số thiếu hụt
của ngan sách nhà nước giúp chấm dứt thời kỳ phát hành tiền để bù đắp bội chi
ngân sách nhà nước .
Bên cạnh những kết quả đã đạt được ngân sách nhà nước vẫn chưa thiết lập
được môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi ,thậm chí còn rất yếu kém, nền kinh tế vẫn

đang trong tình trạng kém phát triển .Thu nhập bình quân đầu người và tỉ trọng
nguồn vốn tiết kiệm đẻ đầu tư còn thấp ,đồng tiền chưa ổn định vững chắc .Lạm
phát đã được kiềm chế nhưng chưa được loạI bỏ
Nhà nước bốn lần giảm lãi suất để kích cầu nhưng độ nhạy cảm của thị
trường dường như không có phản ứng gì đáng kể .Con số nợ nằm trong khách hàng
qúa hạn và con số dư thừa vốn ngắn hạn trong ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục
gia tăng .Chính phủ phát hành công trái với số lượng lớn để tài trợ cho các chương
trình đầu tư kết quả là trên 80% nguồn vốn huy động bằng công trái là từ khu vực
doanh nghiệp nhà nước .Huy động từ tổ chức tín dụng ,từ dân cư chỉ được
20%.Như vậy quá trình luân chuyển thực chất là từ túi này sang túi kia của cùng
một khu vực kinh tế nhà nước .Điều đó chứng tỏ một nền kinh tế mất cân đối hơn
là một nền kinh tế thiếu vốn .ngoài ra mô hình đầu tư theo trương trình của nhà
nước đả một mmặt cạnh tranh với đối tượng đầu tư của ngân hàng .một mặt đã
kích thích hiện tượng sinh ra những “chiến lược phát triển kinh tế tỉnh thành phố “
một cách rập khuôn giống nhau trong khi các vùng có những thế mạnh ,tiềm
năng ,đặc thù khắc nhau giữa các tỉnh thành phố trong cả nước .tác động làm hiệu
quả đầu tư thấp xuất hiện bao cấp háo trở lại ngay ở giai đoạn mà cả nền khinh tế
quốc dân đang nổ lưc đổi mới theo cơ chế thị trường đã được hơn 10 năm.
Điểm thứ ba là : thị trường kích cầu nhưng giá cả vẫn giảm,giá cả giảm
không do năng suất lao động tăng cao mà chủ yếu do cường độ sản suất dư thừa
cục bộ .Đó là mâu thuẩn không thể tiếp tục phát triển trong điều kiện một nước
nghèo ,chậm phát triển như nước ta.
Ngoài những tồn tại do quá trình điều tiết của nhà nước còn tồn tại một số
vấn đề do quá trình thu chi gây ra trong một số năm qua :
+ Thu từ hàng hoá xuất nhập khẩu bao gồm thuế xuất khẩu ,thuế nhập
khẩu ,thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu ,thu chênh lệch giá hàng nhập khẩu
,thuế giá tri gia tă3ng hàng nhập khẩu )gặp khó khăn ,chủ yếu do nhân tố khách
quan là kim nghạch nhập khẩu chịu thuế đạt thấp hơn dự kiến và nhà nước điều
chỉnh giảm thuế xuất nhập khẩu đối với một số mặt hàng do giá quốc tế tăng cao .
+Chi cho đầu tư xây dựng cơ bản chưa có chuyển biến rõ rệt ,bố chí vốn đầu

tư còn phân tán .Có một số mục tiêu được ưu tiên nhưng không bảo đảm đủ
nguồn .việc phân bổ chi tiết vốn đến từng công trình và chuẩn bị các điều kiện cần
thiết để khởi công như duyệt dư án đầu tư ,phê duyệt tổng dư toán ,tổ chức đấu
thầu và kết quả xét duyệt đấu thầu ,giải phóng mặt bằng ở một số bộ phận địa
phương còn chậm ,vướng mắc trong các khâu trên đã làm giảm hiệu quả vốn đầu
tư .Dẫn đến tình trạng thường xuyên vốn chờ công trình ,làm cho các nguồn vốn bổ
xung cho nền kinh tế và một số chương trình quốc gia chậm phát huy tác dụng ,bên
cạnh đó tình trạng vốn tín dụng của nhà nước và các ngân hàng thương mại thiếu
những dự án có hiệu quả và khả thi để cho vay cũng phần nào hạn chế việc huy
động các nguồn lực cho đầu tư phát triển .
+Thất thoát vốn ,lãng phí vốn ngân sách nhà nước vẫn còn lớn trong những
năm qua (1996_2000) chính phủ và các nghành các cấp đã đẩy mạnh triển khai
pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các chế độ quản lý tài chính mới
ban hành như : Quy chế sứ dụng ôtô con, điện thoại, công tác phí, chế độ chi tiêu
hội nghị...Các công tác kiểm soát chi tiêu được tăng cường. Đã phát hiện và sử lý
nhiều trường hợp vi phạm. Nhưng đổi mới chỉ là kết quả bước đầu. Tại kỳ họp thứ
VI Quốc hội khoá X, nhiều đại biểu cũng đã báo động tình trạng chi ngân sách
lãng phí tại 21347 đơn vị hành chính sự nghiệp đã phát hiện ra số tiền chưa làm thủ
tục hạch toán để ngoài ngân sách tới 1385 tỷ đồng.Vậy những lý do nào đã dẫn đến
tình trạng trên ?
Nhà nước trong hơn một thập niên qua về cơ bản đã tìm ra con đường đúng
đắn cho sự phát triển kinh tế đất nước.Xác dịnh đất nước ta xây dựng kinh tế theo
định hướng nền kinh tế nhiều thành phần nhưng vẫn chịu sư điều tiết của nhà nước.
Bước đi này hoàn toàn mới mẽ đối với chúng ta, vì thế chúng ta không thể tránh
khỏi những sai sót trong quá trình thực hiên bởi thiếu kinh nghiêm thực tế và khả
năng quản lý hay khả năng lãnh đạo để đưa ra những chính sách đúng đắn đang
còn kếm. Đội ngũ cán bộ của nước ta hầu như là xuất phát từ cơ quan đảng vì thế
rất bất cập trong vấn đề điều hành kinh tế dẫn đến những chính sách kinh tế đưa ra
kếm hiệu quả, không hợp lý.Những năm gần đây chúng ta đang dần dàn đào tạo
cán bộ để đáp ứng nhu cầu đề ra cúa nền kinh tế.

Năm 1991 Liên Xô sụp đổ đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế của nước
ta. Nền kinh tế mà trước đây hàu như phụ thuộc hoàn toàn vào Liên Xô . Chúng ta
bị Mỹ cô lập về kinh tế đIều đó một phần kìm hãm sư phát triển kinh tế của đất
nước.
Những chính sách kinh tế vĩ mô mà nhà nước đưa ra chưa đem lại hiệu quả
cao vì ta chưa kết hơp được các mối liên hệ kinh tế mà chỉ xem xét theo hướng một

×