Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.68 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

MÃ ĐỀ:02

TIỂU LUẬN MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Tên đề tài:Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước

Họ và tên: Nguyễn Huy Việt Anh
Mã sinh viên: 20810410060
Lớp: TDH&DKTBCN 2


Mục lục

trang

A.MỞ ĐẦU

3

B.NỘI DUNG

3

1.Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam………………………………………4

2.Nội dung sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam……………………..4



Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân……………………………...4
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay…………………...5
Giai cấp cơng nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử như sau:…………………….5

II.VẬN DỤNG

1.Vai trị vị trí giai cấp cơng nhân Việt Nam trong thời kì CNH,HĐH…………6
2.Thực trạng phát triển giai cấp công nhân Việt nam trong thời kì CNH,HĐH...9
3.Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp cơng nhân Việt Nam
trong thời kì CNH,HĐH ………………………………………………………..12

C.KẾT LUẬN

15

D.TÀI LIỆU THAM KHẢO

16
2


A.MỞ ĐẦU
Sau 1986 nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh
tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội Đảng lần thứ X, Đảng và nhà nước
ta đã lấy mục tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Để hồn thành mục
tiêu đó, đẩy mạnh CNH-HĐH với chú trọng phát triến công nghiêp là nhiệm vụ trước mắt
và hàng đầu.
Hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước ta đang
đứng trước những cơ hội lớn và cả những thách thức lớn. Nội dung chủ yếu của đấu tranh

giai cấp trong giai đoạn hiện nay được Đảng ta xác định là “thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng
nước nghèo kém phát triển; thực hiện cơng bằng xã hội, chống áp bức bất công; đấu tranh
ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập
dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh
phúc”. Trong sự nghiệp CNH-HĐH to lớn đó, Đảng và nhà nước ta đã xác định giai cấp
công nhân làm nòng cốt trong lực lượng lao động, là đội quân tiên phong trong sự nghiệp
đổi mới đất nước. Vì vậy việc nghiên cứu sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân
Việt Nam là hết sức cần thiết giúp giai cấp cơng nhân lấy đó làm cơ sở lý luận phát triến
và hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. . . Chính vì lý do đó mà em
chọn đề tài’’Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong
thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước’’
B.NỘI DUNG
* Cơ sở lý luận : Dựa trên những kiến thức em học online, qua sách báo, mạng xã hội,tài
liệu đã được kiểm chứng.Em xin dựa vào đó để làm bài tiểu luận “Phương hướng và giải
pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước"
1.Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp. Sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh chống ngoại
xâm, trong điều kiện đất nước bị kẻ thù xâm lược, khiến cho ý chí và động cơ cách mạng
của giai cấp cơng nhân Việt Nam được nâng lên gấp bội. Ngay từ khi ra đời, giai cấp
3


công nhân nước ta đã anh dũng, kiên cường đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Phong trào
đấu tranh của công nhân từng bước trưởng thành, phát triển từ tự phát đến tự giác và
không ngừng lớn mạnh. Sự ra đời của Cơng đồn Việt Nam - tổ chức chính trị - xã hội
rộng lớn nhất của giai cấp công nhân Việt Nam - là kết quả tất yếu của q trình phát

triển phong trào cơng nhân nước ta cùng với việc chuẩn bị các điều kiện lý luận, tư
tưởng, chính trị, tổ chức của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.
Đại đa số xuất thân từ nông dân nghèo ra đô thị, vào các đồn điền, xưởng máy
nhỏ… làm thuê cho chủ tư sản xâm lược.
Chủ yếu sống bằng sức lao động, nguồn thu nhập chính là tiền cơng và cũng có thể
có cổ phần hay cổ phiếu.
Khi ra đời với trình độ khoa học kĩ thuật, tay nghề và mức sống cịn thấp, vì Việt
Nam lúc đó chưa có nền công nghiệp hiện đại; chịu ảnh hưởng nặng nề của sản xuất nhỏ,
tiểu nơng.
Có truyền thống lao động cần cù, yêu nước nồng nàn, gắn bó mật thiết với dân tộc,
nhất là nông dân và các tầng lớp lao động.
Sớm được giác ngộ cách mạng và thành lập Đảng tiên phong do Hồ Chí Minh Người đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và Đông Dương - sáng lập và rèn luyện.
Giai cấp công nhân sớm trở thành giai cấp lãnh đạo cáhc mạng Việt Nam từ khi có Đảng
của nó. Hơn 70 năm qua, giai cấp cơng nhân và nhân dân Việt Nam đã thu được nhiều
thắng lợi to lớn trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc sống đổi mới hiện nay, tuy đã có nhiều thành tựu to lớn, song giai cấp
cơng nhân Việt Nam vẫn cịn nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là về trình độ văn hóa cơ bản,
khoa học cơng nghệ và tay nghề; giác ngộ chính trị và mức sống tuy có khá hơn sau
những năm dổi mới có kết quả, nhưng nhìn chung cũng cịn hạn chế, chưa tương xứng
với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.Nội dung sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng
nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ
chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và giải
phóng tồn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội
mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

4



Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân bắt nguồn từ địa vị kinh tế-xã hội khách
quan:
– Giai cấp công nhân ra đời và phát triển dưới chủ nghĩa tư bản, là bộ phận quan trọng
nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao.
– Giai cấp cơng nhân khơng có tư liệu sản xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho
nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong
thời gian lao động.
– Địa vị kinh tế xã hội giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để
và có khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng đồn kết tồn thể giai cấp cơng
nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định được via trị của
mình, xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ
động tham gia giải quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói
riêng và thế giới nói chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, mơi trường,
văn hóa, năng lượng, lương thực,…
Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
không chấp nhận chế độ đa đảng, đa ngun chính trị.
Giai cấp cơng nhân tham gia đơng đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham
nhũng, tệ ạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc,
giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phịng tồn dân.
Qua những phân tích nêu trên ta kết luận:
Giai cấp cơng nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử như sau:
Một là, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng
nhân dân lao động và tồn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã
hội cộng sản chủ nghĩa.

Hai là, phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình
độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa cơng nhân”, nâng cao năng lực ứng
5


dụng công nghệ vào sản xuấ nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng
đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.
II.VẬN DỤNG
1.Vai trị vị trí giai cấp cơng nhân Việt Nam trong thời kì CNH,HĐH
a. Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệ.
Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng nước ta trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, trong đó có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, văn hố và khoa
học tiên tiến. Muốn thực hiện thành cơng nhiệm vụ quan trọng đó, nhất thiết phải tiến
hành cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành
nền kinh tế công nghiệp văn minh.
Thực chất của cơng nghiệp hố, hiện đại hố là chuyển toàn bộ nền sản xuất xã hội
từ lao động thủ cơng là chính sang lao động với phương tiện và phương pháp tiên tiến có
năng suất cao.
Cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh tồn cầu hố
kinh tế, chúng ta phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nền kinh tế độc lập, tự chủ,
trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội, không lệ thuộc vào những điều kiện kinh tế - chính trị do người khác áp đặt, đồng
thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh; có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế…
có năng lực nội sinh về khoa học và cơng nghệ; bảo đảm an ninh lương thực, an tồn
năng lượng, tài chính, mơi trường…Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, từ đó phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.


b. Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Theo quy luật chung nhất về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất thì bất cứ sự thay đổi nào của quan hệ sản xuất, cũng đều là kết
quả tất yếu sự phát triển của lực lượng sản xuất.

6


Trong suốt cả q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta rất chú
trọng ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, nhiều ngành kinh tế được đầu tư, từng bước
hiện đại. Mặt khác, chúng ta cũng khơng coi nhẹ việc xây dựng và hồn thiện quan hệ sản
xuất mới phù hợp. Thực tế những năm vừa qua, trong nơng nghiệp, nơng thơn, sự thích
ứng giữa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất mới đã tạo ra
những bước phát triển quan trọng trong khu vực kinh tế này.

c. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn ngoại lực và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vữn.
Trong bối cảnh khu vực hố và tồn cầu hố kinh tế, Đảng ta chỉ rõ phải phát huy
cao độ nội lực, coi nội lực là quyết định, nhưng không được coi nhẹ nguồn ngoại lực,
tranh thủ nguồn vốn, khoa học và công nghệ, kinh nghiệm quản lý…được xem là nguồn
bổ sung quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế giúp chúng ta rút ngắn khoảng cách chênh lệch
với các nước trong khu vực và trên thế giới, thuận lợi trong việc mở rộng thị trường tiêu
thụ hàng hoá trong nước (những mặt hàng có lợi thế). Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, điều này cần phải được quán triệt trong tất
cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, cả trước mắt cũng như lâu dài.
Theo tham luận của đồng chí Cù Thị Hậu, Ủy viên Trung ương Đảng khóa IX, chủ
tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt:“Hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, giai cấp công nhân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh

cả về số lượng và chất lượng, đang có mặt trong tất cả các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, là lực lượng quan trọng, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam đang lao động cần cù, sáng tạo làm ra ngày càng
nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội và xuất khẩu với chất lượng và hiệu quả ngày càng
cao. Hiện nay, mặc dầu GCCN Việt Nam chỉ chiếm 13% dân số, gần 23% lực lượng lao
động xã hội, song hàng năm đã sản xuất ra khối lượng sản phẩm chiếm trên 40% giá trị
tổng sản phẩm, đóng góp 60% ngân sách nhà nước. Trong suốt q trình đổi mới GCCN
Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng và xây dựng hồn thiện đường lối của Đảng,
chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước và góp phần quan trọng vào tăng trưởng
kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

7


Mặc dầu GCCN nước ta đang có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng,
song trước yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong điều kiện
khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh, tồn cầu hố diễn ra như một xu thế
khách quan, , tình hình thế giới có những thay đổi hết sức nhanh chóng, âm mưu ''diễn
biến hồ bình'' của các thế lực thù địch đối với nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp. Tác
động mặt trái của kinh tế thị trường và sự du nhập của các luồng văn hoá độc hại đang
từng ngày, từng giờ tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, đến
GCCN nói riêng. Nên GCCN Việt Nam đang đứng trước những thách thức vô cùng to
lớn: tình trạng việc làm của cơng nhân, lao động không ổn định, thời gian làm việc kéo
dài và cường độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, nên tai nạn lao
động gia tăng. Hàng chục vạn công nhân lao động trong các khu công nghiệp, khu chế
xuất phải thuê nhà ở, trong điều kiện tạm bợ thiếu thốn và khơng đảm bảo an tồn
Tình hình trên có nhiều ngun nhân, song chúng tơi cho rằng một trong những
nguyên nhân cơ bản là những năm qua, Đảng, Nhà nước chưa quan tâm thoả đáng đến
xây dựng, phát huy vai trò GCCN. Một thực tế là Đảng luôn khẳng định mang bản chất
GCCN, nhưng 39 năm qua, Ban chấp hành TW, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa có nghị

quyết riêng về GCCN và tổ chức Cơng đồn Việt Nam, mặc dầu nhiều nhiệm kỳ Đại hội
Đảng đã đề ra chủ trương xây dựng nghị quyết về GCCN, nhưng đến nay chủ trương đó
vẫn chưa thực hiện được (Trừ NQTW VII (khố V) đã có gắn được một phần vào đường
lối phát triển công nghiệp và cơng nghệ).
Cơng tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ công nhân lao động, đào tạo bồi
dưỡng cán bộ xuất thân từ những công nhân ưu tú, công tác phát triển Đảng trong công
nhân lao động, nhất là trong cơng nhân lao động khu vực ngồi quốc doanh cũng chưa
được quan tâm. Tỷ lệ công nhân được kết nạp Đảng trong tổng số đảng viên mới kết nạp
bình quân hàng năm từ Đại hội VII của Đảng đến nay chỉ chiếm dưới 11 %, đại biểu dự
Đại hội đại biểu Đảng tồn quốc lần thứ VIII thành phần cơng nhân chỉ chiếm 8,3%, đến
Đại hội đại biểu lần thứ IX chỉ còn 6,42 %, số uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khố VIII chỉ có 10% thành phần xuất thân từ công nhân, đến Đại hội đại biểu Đảng tồn
quốc lần thứ IX, tỷ lệ này chỉ cịn 4,6%. Công tác xây dựng phát triển tổ chức Đảng và
các tổ chức quần chúng trong GCCN cũng chưa thực sự quan tâm, nên hiện nay ở khu
vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn dầu tư nước ngồi rất hiếm các cơ sở có tổ chức
đảng, tổ chức Đồn Thanh niên.
Cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước và chuyển đổi cơ cấu lao động sang hướng
công nghiệp và dịch vụ, giai cấp công nhân nước ta sẽ phát triển rất nhanh, không chỉ là
8


lực lượng chính trị, xã hội quan trọng mà cịn là người nắm giữ cơ sở vật chất kĩ thuật
hiện đại nhất của nền kinh tế, có vai trị quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ, công nhân, viên chức lao động và tổ
chức cơng đồn cả nước quyết tâm phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng
và giai cấp cơng nhân, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, đồn kết đồng lịng, quyết tâm thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng lần thứ X, cùng toàn Đảng, toàn dân đẩy
nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh'' theo định hướng XHCN”.
2.Thực trạng phát triển giai cấp công nhân Việt nam trong thời kì CNH,HĐH

Xét về cơ cấu trình độ học vấn và chuyên môn, giai cấp công nhân nước ta gồm:
nhóm những người lao động có tính cơng nghiệp (chân tay, thủ công), tại các công
trường xây dựng, các doanh nghiệp, nông, lâm trường và tại các hộ tiểu chủ sản xuất
hàng hóa; nhóm cơng nhân cơng nghiệp cơ khí, nhất là trong các ngành cơng nghiệp
nặng; nhóm cơng nhân cơng nghiệp tự động hóa hay lao động cơng nghệ cao, lao động trí
thức tại các doanh nghiệp được trang bị dây truyền tự động hóa và tại các doanh nghiệp
điện tử - tin học, nhất là tại các khu công nghệ cao.
Xét về cơ cấu thành phần kinh tế: giai cấp những người lao động công nghiệp và có
tính cơng nghiệp, lao động tại tất cả các thành phần kinh tế và gồm các nhóm: cơng nhân
trong các doanh nghiệp quốc doanh; công nhân trong các doanh nghiệp cổ phần; công
nhân ở các nông - lâm trường nhận đất khốn; cơng nhân đồng thời là chủ kinh tế cá thể,
tiểu chủ trực tiếp sản xuất hàng hóa; công nhân làm thuê tại khu vực dân doanh và có vốn
đầu tư nước ngồi. Trong thời kỳ đổi mới, số lượng cơng nhân ngồi quốc doanh tăng
mạnh, cịn số lượng công nhân khu vực quốc doanh lại giảm.
Về tư tưởng, ý thức giai cấp: qua khảo sát tình hình cơng nhân tại Hà Nội, phần lớn
cơng nhân có nhận thức rằng, hiện nay trong xã hội có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội,
nhưng giai cấp cơng nhân có vai trị to lớn trong sản xuất cơng nghiệp. Trong những năm
qua, với sự cố gắng của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, trên cả nước có hơn 6,0 triệu
cơng nhân được học tập 5 bài giáo dục chính trị cơ bản. Vì thế sự hiểu biết của một bộ
phận công nhân về chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được nâng lên một bước. Theo số liệu điều
tra trong các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội, có 23,1% công nhân được hỏi tự nhận là
đã hiểu rõ về chủ nghĩa Mác-Lênin; 71,3% chỉ hiểu khái quát và 5,6% chưa hiểu rõ. Mức
độ hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh cũng khá cao. Số công nhân tại các doanh nghiệp nhà
nước ở Hà Nội được hỏi, tự nhận hiểu rõ là 35,4%; chỉ hiểu khái quát là 59,5%; chưa
9


hiểu rõ là 5,1%. Những số liệu đó chứng tỏ ý thức chính trị của cơng nhân đã được bồi
dưỡng và nâng cao một bước. Tuy nhiên, ý thức giai cấp công nhân của công nhân ở Hà
Nội và một số nơi khác lại khơng cao. Chẳng hạn, khi tìm hiểu cơng nhân về việc có ý

định hướng nghiệp cho con theo nghề của mình khơng đã cho kết quả như sau: trên tồn
quốc 45,1% trả lời có; 54,9% trả lời không. Các tỷ lệ tương ứng ở Hà Nội là 40% và
60%; ở thành phố Hồ Chí Minh là 44,5% và 55,5%; ở Kiên Giang là 46,8% và 53,2%. Tỷ
lệ trả lời không muốn cho con theo nghề của mình là rất cao, nhất là ở Hà Nội. Kết quả
này cho thấy ý thức tự hào giai cấp của đa số cơng nhân đang cịn những hạn chế nhất
định, mặc dù ý thức chính trị đã được nâng cao một bước.
Trong những năm gần đây, việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với đơ
thị hóa đã thúc đẩy q trình tập trung cơng nhân tại các khu công nghiệp và đô thị. Việc
tập trung công nhân, một mặt, sẽ thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật; mặt
khác, tạo điều kiện thuận lợi để bồi dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, ý thức giai cấp. Tuy
thế, q trình này diễn biến khơng đơn giản do nhiều ngun nhân như: trình độ sản xuất
cơng nghiệp, trình độ học vấn của cơng nhân nhập cư, mức độ điều tiết quan hệ chủ - thợ
theo pháp luật, v.v..Mức độ tập trung công nhân như vậy là khơng nhỏ. Song do trình độ
sản xuất cơng nghiệp của nước ta chưa cao, nên việc tập trung công nhân chủ yếu theo
các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động với trình độ chun mơn kỹ thuật thấp
(dệt, may, da giày...), trình độ học vấn khơng cao, về khách quan, đặt ra khơng ít vấn đề
phức tạp trong việc bồi dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, ý thức giai cấp.
Sự phát triển của các cuộc đình cơng của công nhân, đặc biệt tại vùng Đông Nam
Bộ, trong những năm gần đây cho thấy, việc công nhân tự khởi xướng, tổ chức các cuộc
đình cơng phản ánh ý thức về lợi ích kinh tế đã rất rõ nét. Đây là dấu hiệu cơ bản để phát
triển ý thức chính trị, ý thức giai cấp của những người lao động công nghiệp vốn xuất
thân từ nhiều giai tầng xã hội khác nhau, chủ yếu là nơng dân. Các cuộc đình công của
công nhân cũng đặt ra yêu cầu phân định rõ nội hàm của khái niệm giai cấp công nhân,
để có định hướng chính sách phù hợp đối với lực lượng sản xuất hàng đầu này của xã hội.
Sự phát triển của các cuộc đình cơng của cơng nhân, đặc biệt tại vùng Đông Nam
Bộ, trong những năm gần đây cho thấy, việc công nhân tự khởi xướng, tổ chức các cuộc
đình cơng phản ánh ý thức về lợi ích kinh tế đã rất rõ nét. Đây là dấu hiệu cơ bản để phát
triển ý thức chính trị, ý thức giai cấp của những người lao động công nghiệp vốn xuất
thân từ nhiều giai tầng xã hội khác nhau, chủ yếu là nơng dân. Các cuộc đình cơng của


10


công nhân cũng đặt ra yêu cầu phân định rõ nội hàm của khái niệm giai cấp cơng nhân,
để có định hướng chính sách phù hợp đối với lực lượng sản xuất hàng đầu này của xã hội.
-CHÂN DUNG VỀ CUỘC SỐNG CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
Chất lượng cuộc sống của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đang là một vấn
đề đau đầu của các nhà quản lý. Người công nhân thường sống tập trung quanh các khu
nhà trọ tồi tàn quanh khu công nghiệp. Mặc dù đã có một số khu cơng nghiệp xây chung
cho cơng nhân nhưng xem ra cũng chẳng đáp ứng được bao nhiêu nhu cầu cho công
nhân, chưa kể là những công trình kém chất lượng, bị rút ruột… Có an cư thì mới lạc
nghiệp, xem ra cơng nhân vẫn khơng thể an cư được.
Chỗ ở là một, kế đến là vật chất, thức ăn mà công nhân ăn hàng ngày. Chúng ta vẫn
thường thấy trên báo chí nhan nhản những tin công nhân bị ngộ độc thức ăn tập thể hoặc
chất lượng bữa ăn quá thấp so với thị trường ngày nay. Ở nơi làm việc là vậy, khi tan ca,
họ tụ tập ở những khu chợ tự phát trước các khu công nghiệp mua những thức ăn đã ương
và không cịn tươi… Liệu những thứ đó có đảm bảo sức khỏe để họ làm việc lâu dài?
Chắc chắn là không và chúng ta thấy hầu hết công nhân ở các khu cơng nghiệp đều có thể
trạng cịi cọc, ốm yếu… Với thể trạng như vậy thì khơng ai đảm bảo rằng họ sẽ có năng
suất làm việc cao.
Sự đảm bảo an tồn cho cơng nhân vẫn khơng được chú ý, rất nhiều những vụ hành
hung công nhân mà ta đã thấy, những kẻ ấy vào tận xưởng làm mà hành hung! Vậy bảo
vệ của xí nghiệp ở đâu? An ninh tại các khu nhà trọ của cơng nhân cịn tệ hại hơn, dường
như chính quyền địa phương đang bỏ rơi theo kiểu “sống chết mặc bay” của người công
nhân – giai cấp lãnh đạo cách mạng? Có khi cơng nhân còn bị giới chủ, đặc biệt là những
tên chủ người nước ngồi thường hay có hành động hành hạ thân xác đối với người cơng
nhân thế nhưng cơng đồn, cơng an, chính quyền dường như chẳng hay ho gì việc này!
Khiến những người công nhân sống như những “nô lệ” của thế kỷ 21 mà đáng lẽ ra họ lại
là giai cấp lãnh đạo đất nước!
Ăn khơng đủ no thì làm sao mà cịn có thể nghĩ đến những chuyện to lớn hơn, đặc

biệt trong thời đại hiện nay, đồng tiền dường như là thứ mà người ta bất chấp để đổi lấy.
Với những đồng lương rẻ mạc được trả thì liệu người cơng nhân có thể sống đủ? Khơng!
Chắc chắn là vậy và họ suốt ngày chỉ lo làm sao cho qua ngày là ổn rồi chứ không cần
phải lo lắng gì thêm, vậy khi nào mới giác ngộ được lý tưởng cách mạng, sứ mệnh lịch sử
của bản thân công nhân?
11


Cuộc sống của những người công nhân chẳng khác nào những cổ máy, sáng làm
việc cho đến chiều tan ca. Ai có gia đình thì về nhà nấu cơm, ăn cơm rồi coi ti vi và ngủ
rồi đến sáng lại bắt đầu một chu trình mới khép kín hồn tồn. Cịn những ai chưa có gia
đình thì sau khi tan ca lại tụm năm tụi bảy hoặc cà-phê, hoặc nhậu nhẹt… và có khi để
xảy ra những chuyện đáng tiếc vì “nhàn cư vi bất thiện”. Mặc dù thời gian rảnh rỗi đáng
lẽ họ phải tranh thủ rèn luyện chính trị để vươn lên làm chủ cuộc sống nhưng ai sẽ là
người “đồng chí” sẵn sàng sát cánh ủng hộ và chiến đấu cùng những người công nhân
khốn khổ ấy?
Chưa kể hàng năm vào các dịp lễ tết thì họ lại kéo nhau về quê vui cùng gia đình
gây một sự xáo trộn trong xã hội, những chiếc vé mà họ mua đắt hơn ngày thường trong
khi với số tiền đó có lẽ họ đã làm cuộc sống tốt hơn. Tiền tàu xe vơ tình đã “hút” đi thu
nhập của họ mà chưa kể khi đi tàu xe họ còn bị đối xử như thế nào. Vào những quán cơm
tù, bị nhồi nhét ghế, gặp tai nạn… Tất cả điều đó đang xảy ra trước mắt họ nhưng họ
khơng có cách nào khác để giải quyết hay tại chúng ta không giúp họ?
3.Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp cơng nhân Việt Nam trong thời kì
CNH,HĐH
Xây dựng, phát triển tồn diện giai cấp cơng nhân ln là mối quan tâm thường trực
của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta. Đại hội X của Đảng xác định:
“Đối với giai cấp công nhân phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng giác ngộ
và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Ngay từ ngày đầu thành lập Đảng ta cũng đã xác định: “Đảng là đội tiên phong của

vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng”. Trong suốt q trình lãnh đạo đấu tranh giành chính
quyền, Đảng ta luôn coi giai cấp công nhân là lực lượng nịng cốt, lãnh đạo cách mạng và
đã có nhiều chủ trương, chính sách tập hợp và xây dựng giai cấp cơng nhân vững mạnh,
thực sự là lực lượng nịng cốt, tiên phong trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Chính những chủ trương, đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng về xây dựng, phát triển
giai cấp công nhân là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi.
Sau khi nước nhà thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề xây dựng và
phát huy vai trị giai cấp cơng nhân tiếp tục được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết
Đại hội IV của Đảng tiếp tục xác định nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân không
12


ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, xứng đáng với vai trò giai cấp tiên phong,
lãnh đạo cách mạng là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tiến hành công cuộc đổi mới tòan diện đất nước, nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng
của vấn đề xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong giai đọan cách mạng mới,
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (năm 1986), chỉ rõ: “Đảng cần có những biện pháp cụ
thể nhằm nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ hiểu biết về mọi mặt để xứng
đáng với vị trí giai cấp tiên phong của cách mạng, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và
văn hóa, tạo ra những điều kiện cần thiết để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch
sử của mình”.
Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra Nghị quyết:
“Phát triển công nghiệp đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới”. Với tinh thần thẳng thắn,
Đảng đã chỉ ra những hạn chế về xây dựng, phát huy vai trị giai cấp cơng nhân và tổ
chức Cơng đồn là: “trong q trình chuyển sang cơ chế mới, đã có những biểu hiện coi
nhẹ vị trí, vai trị giai cấp cơng nhân, các chủ trương, chính sách xây dựng giai cấp công
nhân chậm được đổi mới”. Đảng ta đã khẳng định: “xây dựng giai cấp công nhân vững

mạnh là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Công đồn và của các đồn thể chính trị – xã
hội, đồng thời là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể cơng nhân… cần có cơ chế đảm
bảo quyền cơng nhân và quyền Cơng đồn trong từng loại hình doanh nghiệp”.
Phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng, tại Đại hội VIII (năm 1996) Đảng ta
tiếp tục khẳng định xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số
lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn tay nghề, có năng lực ứng dụng và
sáng tạo cơng nghệ mới, có tác phong công nghiệp và ý thức tổ chức, kỷ luật, lao động
đạt năng suất, chất lượng hiệu quả ngày càng cao, làm nòng cốt trong việc xây dựng khối
liên minh cơng nhân, nơng dân, trí thức và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân”.
Bước vào thế kỷ XXI, trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tư duy của Đảng về giai cấp công
nhân ngày càng được chú trọng hoàn thiện. Tại Đại hội IX (năm 2001) Đảng ta khẳng
định: “Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng
cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức
hóa cơng nhân", nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt
năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu

13


trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng
trong thời kỳ mới...”.
Như vậy, có thể khẳng định: đổi mới tư duy của Đảng ta về vai trị, vị trí giai cấp
cơng nhân từng bước được bổ sung, hoàn thiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
tạo nền tảng cho sự hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng, phát huy vai trị giai cấp
cơng nhân, đã và đang là động lực để giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh và ngày
càng thể hiện vai trị đóng góp to lớn và quyết định sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Tuy
hiện nay giai cấp công nhân, chỉ chiếm 17,5% tổng lực lượng lao động xã hội và chỉ
chiếm 9,2% dân cư, nhưng lại nắm giữ những cơ sở vật chất quan trọng nhất và có tính
quyết định tới phương hướng phát triển của nền kinh tế - xã hội. Hằng năm, đội ngũ giai

cấp công nhân nước ta tạo ra khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước, đảm bảo
60% nguồn thu của ngân sách nhà nước. Giai cấp công nhân Việt Nam đang là lực lượng
đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cách mạng khoa học –
công nghệ trên thế giới đang phát triển với tốc độ nhanh chóng và trở thành một lực
lượng sản xuất trực tiếp. Cuộc đua tranh để giành chiến thắng trong sản xuất – kinh
doanh hiện nay đang diễn ra chủ yếu là đua tranh về trí tuệ, về hàm lượng chất xám, về
chất lượng nguồn nhân lực. Trong bối cảnh đó, nước ta vừa có thời cơ, thuận lợi vừa có
những khó khăn thách thức đan xen, giai cấp cơng nhân nước ta cịn bộc lộ những mặt
hạn chế và bất cập. Trình độ học vấn, chun mơn, nghiệp vụ của cơng nhân cịn thấp so
với yêu cầu; nhiều ngành, lĩnh vực thiếu trầm trọng những kỹ sư giỏi, những công nhân
lành nghề; xuất hiện sự mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận công
nhân. Ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp của công nhân còn hạn
chế; việc chấp hành pháp luật chưa nghiêm. Một bộ phận cơng nhân bị tha hóa, bị nhiễm
lối sống thực dụng, phai nhạt lý tưởng, không thường xuyên rèn luyện nâng cao phẩm
chất đạo đức, nâng cao trình độ học vấn, trình chun mơn, nghiệp vụ...
Trước u cầu của tình hình, nhiệm vụ mới thì việc xây dựng, phát triển giai cấp
công nhân là yêu cầu khách quan và cấp bách, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và cả hệ thống
chính trị cần thực hiện chiến lược xây dựng, phát huy vai trị giai cấp cơng nhân trong
giai đoạn mới. Cần có giải pháp tích cực để qn triệt sâu sắc trong các cấp, các ngành về
quan điểm xây dựng giai cấp công nhân, coi đây là nhiệm vụ tất yếu mang tính chiến
lược, là việc làm thường xuyên, liên tục gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế –
14


xã hội và với từng bước đi của quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây
dựng, phát huy vai trị giai cấp cơng nhân là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị và phải được thể hiện bằng đường lối của Đảng, bằng hệ thống chính

sách, pháp luật đồng bộ, bằng tổng hợp các biện pháp kinh tế – chính trị – văn hóa – tư
tưởng. Trước hết, Đảng cần tập trung nghiên cứu hoạch định một chiến lược về xây dựng
và phát triển giai cấp công nhân hiện đại; tiếp tục củng cố và hoàn thiện quan điểm,
nguyên tắc của Đảng đối với xây dựng và phát huy vai trò giai cấp cơng nhân; Nhà nước
cần thể chế hóa thành luật pháp và chính sách về xây dựng, phát huy vai trị giai cấp cơng
nhân, coi xây dựng, phát huy vai trị giai cấp cơng nhân là một chính sách, một chương
trình phát triển của quốc gia trên cơ sở tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trước mắt
cũng như lâu dài, Đảng và Nhà nước cần tập trung đầu tư toàn diện nhằm xây dựng giai
cấp công nhân Việt Nam phát triển vững mạnh cả về số lượng và chất lượng. Xác định
nhiệm vụ xây dựng, phát huy vai trị giai cấp cơng nhân là chính sách kinh tế – chính trị
hàng đầu, là sản phẩm trực tiếp của đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội X với tư tưởng xuyên suốt” Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” đã mở ra thời cơ mới cho sự phát triển và
lớn mạnh của gia cấp công nhân Việt Nam. Biến quyết sách của Đảng về xây dựng, phát
triển giai cấp công nhân nước ta thành hiện thực cách mạng sinh động là nhiệm vụ của
tồn hệ thống chính trị.
C.KẾT LUẬN
Trong xã hội Việt Nam ngày nay,giai cấp công nhân đang ngày càng lớn mạnh và
khẳng định đc vai trị của mình trong công cuộc đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã
hội,phấn đấu cho một đất nước ngày càng giầu đẹp.Để làm được điều đó khơng những
Đảng ta mà tồn dân tộc trong đó giai cấp cơng nhân là nịng cốt phải tự mình phấn
đấu,nâng cao tri thức tay nghề để có thế làm tốt sứ mệnh lịch sử đã đề ra.Bên cạnh đó
cũng phải rèn luyện về tư tưởng,giữ vững lập trường chính trị,tránh bị các thế lực thù
địch lơi kéo,tránh xa các tệ nạn xã hội ,góp phần làm xã hội ngày càng trong sạch,văn
minh ,lịch sự.Phấn đấu đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước
công nghiệp trong năm 2020 như đúng mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đặt ra,đưa nước
ta lên một tầm cao mới.Trong thư gửi học sinh,bác Hồ đã nói rằng :”Dân tộc ta có được
trở nên vẻ vang hay khơng,đất nước ta có được sánh vai cùng các cường quốc năm châu

15


hay không,ấy là nhờ vào công học tập của các cháu” Câu nói vẫn cịn ngun giá trị ,và
thế hệ thanh niên,đặc biệt là Sinh viên càng phải cố gắng hơn trong học tập,góp sức vào
cơng cuộc xây dựng đất nước.
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình CNXHKH-NXB Chính Trị QG, năm 2006
2.Tạp chí Đảng Cộng Sản
3.Giai cấp cơng nhân Việt Nam - Những phương hướng thúc đẩy:
/>4.Một số website điện tủ:
+) />+) />+) />
16



×