Cách xử trí sốt co giật ở trẻ em
Trẻ bị sốt co giật khiến các bậc cha mẹ lo lắng và lúng túng. Vậy làm thế nào để xử
trí khi trẻ bị co giật và phòng ngừa bằng cách nào? Thuốc dự phòng cơn co giật khi
sốt cao?
Thế nào là sốt co giật?
Sốt cao co giật là cơn giật xuất hiện khi nhiệt độ cơ thể > 38oC (đo ở hậu môn), do nhiễm
khuẩn hoặc virut nhưng không có tổn thương ở não cũng như không có rối loạn chuyển
hoá và ở trẻ chưa từng có cơn co giật không kèm theo sốt bao giờ. Đại đa số bệnh khỏi
hoàn toàn, không tái phát và không trở thành bệnh động kinh sau này. Tuy nhiên, bệnh
nhi cần được sự quan tâm của gia đình và đưa đi khám bệnh để được điều trị đúng, tránh
những sơ suất đáng tiếc có thể xảy ra với trẻ.
Cần phân biệt giữa sốt co giật và bệnh động kinh. Trong trường hợp sốt co giật, cơn giật
chỉ xuất hiện khi có sốt cao, cơn thường ngắn, tạm thời và không có biến chứng, có thể có
một cơn duy nhất hoặc vài cơn tùy từng trường hợp. Ngược lại, ở bệnh nhân động kinh,
một số cơn đầu tiên xuất hiện khi sốt nhưng những cơn sau đó xuất hiện ngay cả khi
không sốt.
Nếu trẻ bị sốt thì cần kiểm soát chặt chẽ để thân nhiệt không vượt quá 37,5oC.
Sốt co giật được chia làm 2 loại: sốt co giật đơn giản và phức tạp.
Sốt co giật đơn giản:
Biểu hiện bằng cơn co cứng, co giật hai bên cơ thể; thời gian ngắn (dưới 15 phút); không
liệt vận động sau cơn; xuất hiện ở những trẻ bình thường; không có dấu hiệu kịch phát
trên điện não đồ ngoài cơn (điện não đồ ngoài cơn bình thường).
Sốt co giật phức tạp:
Biểu hiện bằng co giật 1 bên; thời gian kéo dài quá 15 phút hoặc tái phát với khoảng cách
giữa các cơn ngắn; thiếu sót thần kinh sau cơn (có liệt sau cơn); xuất hiện ở những trẻ
phát triển thần kinh không bình thường; có bất thường kịch phát trên điện não đồ ngoài
cơn.
Cấp cứu trong cơn co giật do sốt?
Cần phải ngay lập tức bằng mọi cách hạ thân nhiệt cho trẻ: nới rộng quần áo; đặt trẻ ở
trong phòng thoáng khí, tránh gió lùa; chườm mát toàn thân; đặt viên đạn hạ sốt vào hậu
môn cho trẻ để dự phòng sốt tăng lên. Viên đạn đặt hậu môn này có thành phần là
paracetamol, liều lượng tùy vào tuổi và cân nặng của trẻ. Ngày dùng không quá 4 lần đặt.
Nếu với tất cả các phương pháp trên đều không có hiệu quả, cơn giật kéo dài > 5 phút,
cần đưa trẻ đến bác sĩ khám để dùng thuốc cắt cơn giật.
Thuốc dự phòng cơn co giật khi sốt cao
Phương pháp tốt nhất là tránh cho trẻ không bị sốt. Nếu trẻ bị sốt thì cần kiểm soát chặt
chẽ để thân nhiệt không vượt quá 37,5oC, có thể dùng cho trẻ paracetamol và aspirin xen
kẽ nhau với liều phù hợp lứa tuổi, mặt khác, cần điều trị nguyên nhân gây sốt.
Trên thực tế, việc kiểm soát chặt chẽ thân nhiệt không dễ dàng vì nhiệt độ có thể tăng lên
rất nhanh. Do đó, trong một số trường hợp, nếu trẻ xuất hiện 2 hay nhiều cơn co giật khi
sốt cao, có thể cho trẻ uống thuốc chống co giật trong thời gian từ 18 – 24 tháng. Thuốc
hay được sử dụng là: valproate de sodium (depakine) hoặc phenobarbital (gardenal).
Valproate de sodium uống trước bữa ăn, uống vào giờ nhất định, tránh quên hoặc bỏ
thuốc đột ngột.
Thuốc có tác dụng không mong muốn là buồn ngủ, lú lẫn (hiếm gặp), rối loạn tiêu hóa
gặp trong giai đoạn đầu của điều trị (hạn chế bằng tăng liều dần); tăng cân do ăn ngon
miệng; giảm tiểu cầu (mức độ nhẹ); tăng nhẹ men gan; dị ứng da (hiếm gặp); viêm gan,
hủy hoại tế bào gan rất nặng nhưng không liên quan đến liều lượng, thường xuất hiện
trong 6 tháng đầu của điều trị, hay gặp ở trẻ em dưới 2 tuổi dùng đa trị liệu (phối hợp
nhiều loại thuốc).
Phenobarbital uống 1 lần trong ngày, uống vào một giờ nhất định, tránh quên hoặc bỏ
thuốc đột ngột.
Tác dụng không mong muốn của thuốc là ngủ gà, rối loạn chức năng nhận thức, kích
động ở trẻ em; còi xương và nhuyễn xương (vì thoái giáng vitamin D); nhiễm độc da.
Ở những trẻ đã có bệnh động kinh đang điều trị, sốt cũng là một yếu tố làm cơn giật tái
diễn, do đó, ngoài việc tránh cho trẻ không bị sốt thì cha mẹ cần cho trẻ dùng thuốc
kháng động kinh theo đúng chỉ dẫn của thầy thuốc.
Co giật khi sốt cao có phải bệnh động kinh?
Ðại đa số các cơn co giật do sốt cao đều khỏi hoàn toàn, không tái phát khi trẻ > 5 tuổi,
không để lại di chứng và không gây biến chứng động kinh. Chỉ có khoảng 4% các trường
hợp có nguy cơ trở thành bệnh động kinh sau này, thường gặp ở thể sốt co giật phức tạp,
có bất thường về phát triển tâm thần vận động hoặc gia đình có tiền sử bệnh động kinh.